The Hobbit
Chương I – BỮA TIỆC BẤT NGỜ
Có một anh chàng hobbit sống ở một cái hang trong lòng đất. Không phải là một cái hang tởm lợm, bẩn thỉu, ướt át, đầy những côn trùng cùng mùi xú uế, cũng chẳng phải một cái hang khô ráo, trống không, đầy những cát và chẳng có cái gì để ngồi lên hoặc để ăn: đó là một cái hang của loài hobbit, mà như thế có nghĩa là đầy đủ tiện nghi.
Hang này có một cửa ra vào tròn vành vạnh giống như ô cửa sổ trên tàu thủy, được sơn màu lá cây và có một quả đấm bằng đồng thau sáng loáng ở chính giữa. Cửa này dẫn vào một hành lang hình ống giống như một đường hầm: một đường hầm rất dễ chịu, không có khói, tường được lót ván, nền lát gạch vuông và trải thảm, có kê những chiếc ghế bành bóng lộn và rất nhiều rất nhiều mắc mũ áo – chàng hobbit này rất thích có khách viếng thăm. Hành lang uốn lượn quanh co, đâm xéo chứ không xuyên thẳng vào sườn đồi – Quả Đồi, như mọi người khắp nhiều dặm quanh đó vẫn thường gọi – và từ hành lang đó nhiều cánh cửa nhỏ hình tròn được mở ra, thoạt đầu ở bên này và rồi lại ở bên kia. Đối với người hobbit thì không có chuyện lên cầu thang: các phòng ngủ, phòng tắm, hầm rượu, phòng lương thực (rất nhiều) , tủ quần áo (anh chàng có hẳn những phòng riêng dành để quần áo), nhà bếp, phòng ăn, tất cả đều cùng ở một tầng, mà thực ra là trên cùng một lối đi. Tất cả các căn phòng tốt nhất đều nằm bên mé trái (theo lối đi vào), bởi vì chỉ những phòng này là có cửa sổ, những ô cửa sổ tròn rất chắc chắn nhìn ra khu vườn của anh chàng và những đồng cỏ phía xa thoai thoải xuống dòng sông.
Anh chàng hobbit này rất khá giả, tên anh ta là Baggins. Họ hàng nhà Baggins đã sinh sống trong khu vực Quả Đồi từ thời xa xưa và người ta coi họ là những người rất đáng trọng, không phải chỉ vì hầu hết bọn họ đều giàu có, mà còn bởi họ chưa bao giờ kinh qua bất kỳ cuộc mạo hiểm nào hoặc làm bất kỳ điều gì bất ngờ: người ta có thể biết chắc một người thuộc dòng họ Baggins sẽ nói gì về bất kỳ vấn đề nào mà không cần phải bận tâm hỏi. Tập truyện này nói về một người thuộc dòng họ Baggins đã kinh qua một cuộc mạo hiểm như thế nào và đã thấy mình hành động và ăn nói thậm lấc cấc ra sao. Có thể đã hát: đánh mất sự kính trọng của hàng xóm láng giềng, nhưng anh chàng lại thu được… chà, các bạn sẽ thấy liệu rốt cuộc anh ta có thu được cái gì không.
Mẹ của anh chàng hobbit đặc biệt của chúng ta – mà hobbit là cái giống gì nhỉ? Tôi cho rằng ngày nay chúng ta cần được mô tả đôi chút về hobbit, bởi vì họ đã trở nên hiếm hoi và rất e ngại những Con Người To Lớn, như họ gọi chúng ta. Họ là (hoặc đã là) một giống người nhỏ bé, cao khoảng bằng nửa chúng ta và nhỏ con hơn những chú lùn có râu. Người hobbit không có râu. Ở họ có rất ít hoặc chẳng có chút yêu thuật nào, ngoại trừ cái tài mọn bình thường giúp họ lặng lẽ và nhanh chóng biến mất khi những kẻ to xác ngu xuẩn như các bạn và tôi lần mò đến gần gây ra tiếng ồn như một đàn voi mà họ có thể nghe thấy cách đó hàng dặm. Bụng họ thường phệ; họ mặc đồ màu sáng (chủ yếu là màu lá cây và màu vàng); không đi giày vì gót chân họ có da dày tự nhiên và có lớp lông dày ấm áp màu nâu giống như tóc trên đầu họ (mà tóc thì quăn); có những ngón tay khéo léo, vẻ mặt hòa nhã, có tiếng cười trầm ấm (đặc biệt là sau bữa ăn, họ ăn hai bữa mỗi ngày khi mà họ có thể kiếm được). Bây giờ các bạn đã đủ hiểu biết để tiếp tục đọc. Như tôi vừa nói khi nãy, mẹ của anh chàng hobbit này – tức là của Bilbo Baggins – là quý tiểu thư Belladonna Took nổi tiếng, một trong ba người con gái xuất sắc của lão Took, thủ lĩnh của những người hobbit sinh sống phía bên kia Thủy Lộ, dòng sông nhỏ chảy qua chân Quả Đồi. Ở các dòng họ khác người ta thường nói rằng xưa kia một trong số các tổ tiên dòng họ Took hẳn đã lấy vợ tiên. Dĩ nhiên điều đó thật khó tin, nhưng chắc chắn ở họ vẫn còn có một cái gì đó không hoàn toàn giống những người hobbit, và thỉnh thoảng các thành viên của thị tộc Took thường tiến hành những cuộc mạo hiểm. Họ biến mất một cách kín đáo và gia đình họ giấu nhẹm chuyện đó; nhưng rõ ràng là những người dòng họ Took không được kính nể bằng những người dòng họ Baggins, dù rằng họ hiển nhiên giàu có hơn.
Tuy vậy quý tiểu thư Belladonna Took sau khi trở thành bà Bungo Baggins đã chẳng bao giờ có bất kỳ một cuộc mạo hiểm nào. Ông Bungo, tức là bố đẻ của Bilbo, đã kiến tạo cho bà một cái hang hobbit sang trọng bậc nhất (bà cũng có đóng góp một phần tiền của vào) mà người ta từng thấy bên dưới Quả Đồi hoặc bên trên Quả Đồi hoặc bên kia Thủy Lộ, và họ sống ở đó đến những ngày cuối đời. Ấy thế mà Bilbo, cậu con trai duy nhất của bà, mặc dù vẻ mặt và cung cách ứng xử hệt như người bố thuần phác và vô tư lự, lại có thể nhiễm một cái gì đó kỳ quặc từ dòng họ Took vào bản chất của mình, một cái gì đó chỉ chờ có cơ hội là bột phát. Chỉ mãi đến khi Bilbo Baggins đã trưởng thành, khoảng chừng năm mươi tuổi gì đó[1], thì cơ hội đó mới đến, khi đó anh chàng đang sống trong cái hang hobbit đẹp đẽ do bố mình tạo dựng mà tôi vừa mới mô tả cho các bạn, và rõ ràng đã ổn định cuộc sống.
Do một sự tình cờ kỳ lạ, vào một buổi sáng xa xưa, khi mà mọi vật còn vô cùng tĩnh lặng, khi mà tiếng ồn ít hơn bây giờ và màu xanh lục nhiều hơn bây giờ, và những người hobbit vẫn còn đông đúc và thịnh vượng, Bilbo Baggins đang đứng bên cửa hang sau bữa điểm tâm mà hút thuốc bằng một cái tẩu gỗ dài to tướng gần trễ tới những ngón chân đầy lông mịn (được chải gọn gàng) – thì Gandalf ghé thăm. Gandalf! Giá mà các bạn đã nghe được chỉ một phần tư những gì tôi từng nghe nói về lão ta, mà tôi cũng chỉ mới nghe được rất ít trong tất cả những chuyện về lão thôi đấy, hẳn các bạn sẽ sẵn sàng đón nhận bất cứ câu chuyện khác thường nào. Lão cứ tới nơi nào là những câu chuyện và các cuộc mạo hiểm lại xuất hiện một cách kỳ lạ đến không thể kỳ lạ hơn ở nơi đó. Đã tự lâu lắm rồi lão chưa đặt chân tới con đường dưới Quả Đồi kia, suốt từ khi bạn của lão là lão Took qua đời, đúng thế, và những người hobbit hầu như đã quên bẵng đi trông lão thế nào. Lão đã đi biền biệt quá Quả Đồi và tới tận bên kia Thủy Lộ để thực hiện những công việc riêng từ khi tất cả bọn họ còn là những cậu bé và cô bé hobbit.
Tất cả những gì anh chàng Bilbo chân thật nhìn thấy vào buổi sáng hôm đó là một ông già chống gậy. Lão ta đội cái mũ cao màu xanh chóp nhọn, vận tấm áo choàng dài màu xám, đeo chiếc khăn quàng màu bạc mà bộ râu dài của lão phủ lên trên rồi thõng xuống mãi bên dưới bụng, và đi đôi ủng to tướng màu đen.
“Buổi sáng tốt lành!” Bilbo nói, và anh chàng thực sự có ý đó. Mặt trời đang tỏa sáng và cỏ rất xanh. Nhưng lão Gandalf lại nhìn anh từ bên dưới cặp lông mày dài rậm rạp chìa mãi ra ngoài vành chiếc mũ che nắng của mình.
“Cậu định nói gì hả?” lão nói. “Có phải cậu chúc ta một buổi sáng tốt lành, hay cậu định nói là sáng nay trời đẹp dù rằng ta có muốn thế hay không; hoặc giả cậu muốn nói là sáng nay cậu cảm thấy khỏe khoắn; hoặc đó là một buổi sáng mà ta phải đối xử tốt với nó?”
“Tất cả những điều đó gộp lại,” Bilbo nói. “Và một buổi sáng đẹp trời, mà thêm vào đó lại còn được ra ngoài hút một tẩu thuốc lá nữa kia đấy. Nếu ông có mang theo tẩu thì hãy ngồi xuống nhồi thuốc của tôi mà hút! Việc gì phải vội vàng, trước mặt chúng ta còn cả một ngày mà!” Rồi Bilbo ngồi vào một chiếc ghế bên cửa hang của mình, hai chân bắt tréo và thở ra một vòng khói xám đẹp đẽ, nó bay vút lên không trung mà không vỡ ra và cứ bồng bềnh bay đi phía trên Quả Đồi.
“Rất đẹp!” lão Gandalf nói. “Nhưng sáng hôm nay ta không có thì giờ để thổi những vòng khói đâu. Ta đang tìm kiếm một người nào đó cùng tham gia vào một cuộc mạo hiểm mà ta đang chuẩn bị, và thật khó mà tìm được bất kỳ kẻ nào.”
“Tôi cũng nghĩ vậy – ở vùng này! Chúng tôi là những người đơn giản mộc mạc và chẳng cần gì những cuộc mạo hiểm. Rặt những điều kinh tởm phiền toái và khó chịu! Khiến ta bị muộn bữa tối! Tôi chịu không nghĩ ra được người ta thấy gì trong các cuộc mạo hiểm chứ,” anh chàng Baggins của chúng ta vừa nói vừa thọc một ngón tay cái vào dây đeo quần của mình và thổi ra một vòng khói mới thậm chí còn lớn hơn. Rồi anh chàng lấy ra những bức thư buổi sáng và bắt đầu đọc, giả bộ như chẳng để ý gì thêm đến lão già nữa. Anh chàng đã dứt khoát rằng mình hoàn toàn không phải loại người như lão, và muốn lão bỏ đi. Nhưng lão không nhúc nhích. Lão chống gậy đứng đó và chằm chằm nhìn anh chàng hobbit mà chẳng nói năng gì hết, cho tới khi Bilbo thấy khó chịu và thậm chí hơi bực bội.
“Buổi sáng tốt lành!” cuối cùng anh chàng nói. “Ở vùng này chúng tôi không cần đến bất kỳ cuộc mạo hiểm nào đâu, cảm ơn ông! Ông có thể thử tìm kiếm trên Quả Đồi hoặc bên kia Thủy Lộ ấy.” Nói vậy là anh chàng đã ngầm có ý rằng cuộc đối thoại đã kết thúc.
“Câu buổi sáng tốt lành của cậu quả là quá đa nghĩa!” lão Gandalf nói. “Bây giờ ý cậu là muốn tống khứ ta, và chỉ đến khi ta bỏ đi thì mới ổn đây mà.”
“Đâu phải thế, đâu phải thế, thưa quý ông! À mà, có lẽ tôi chưa được biết quý danh?”
“Đúng thế, đúng thế, anh bạn thân mến ạ – còn ta lại biết tên cậu là Bilbo Baggins kia đấy. Mà cậu có biết tên ta đấy, chỉ có điều cậu không nhớ được ta làngười có cái tên ấy thôi. Ta là Gandalf, và Gandalf là ta. Làm sao có thể nghĩ rằng ta phải sống đến bây giờ để mà nghe con trai của quý tiểu thư Belladonna Took chào mình như thể ta là một kẻ bán rong trước bậu cửa nhà cậu kia chứ!”
“Lão Gandalf, lão Gandalf! Trời đất ơi! Đâu phải là cái ông phù thủy lang thang đã cho Lão Took một đôi hoa tai kim cương màu nhiệm dính chặt vào nhau và chỉ đến khi được lệnh mới rời nhau? Đâu phải là cái người vẫn thường kể những câu chuyện tuyệt vời tại các bữa tiệc về những con rồng, lũ yêu tinh, những gã khổng lồ, cuộc giải cứu các nàng công chúa và vận may bất ngờ của con trai các góa phụ? Đâu phải là cái con người vẫn thường làm những quả pháo hoa tuyệt vời? Tôi vẫn còn nhớ những quả pháo hoa ấy! Lão Took vẫn thường đốt chúng vào đêm hôm trước ngày Hạ Chí. Thật tuyệt vời!Chúng thường bay vút lên như những bông hoa loa kèn, hoa mõm chó và những cây kim tước bằng lửa to tướng rồi cứ lơ lửng mãi trong ánh hoàng hôn mờ tỏ!” Các bạn sẽ để ý thấy rằng anh chàng Baggins đâu đến nỗi quá dung tục như mình tự nghĩ, mà còn rất yêu hoa nữa. “Trời ơi!” anh chàng tiếp tục. “Đâu phải là cái ông Gandalf đã khiến biết bao thanh niên nam nữ bỏ nhà bỏ cửa ra Biển Cả vì những cuộc mạo hiểm điên rồ? Bất kỳ việc dại dột nào từ trèo cây đến thăm viếng các tiên – hoặc dong thuyền tới các bến bờ xa lạ! Chao ôi, cuộc sống trước kia từng thú vị biết bao – ý tôi là, xưa kia ông vẫn thường làm mọi việc đảo lộn thật tệ hại ở vùng này. Xin lỗi ông, nhưng tôi không biết là ông vẫn còn làm công việc ấy đấy.”
“Ta biết làm cái gì khác kia chứ?” lão phù thủy nói. “Nhưng dù sao ta cũng hài lòng thấy cậu còn nhớ đôi chút về ta. Dẫu sao thì cậu cũng có nhã ý nhớ đến những quả pháo hoa của ta, và như thế thì ta vẫn còn hy vọng. Thực vậy, vì lợi ích của Lão Took ông nội cậu và vì quý tiểu thư Belladonna tội nghiệp, ta sẽ cho cậu cái mà cậu đã hỏi xin.”
“Xin lỗi ông, tôi chẳng hỏi xin cái gì cả!”
“Có đấy, cậu đã xin! Hai lần rồi. Ta cho cậu cái đó. Thực ra ta còn định đưa cậu vào cuộc mạo hiểm nữa. Đối với ta thì chỉ là để tiêu khiển, còn đối với cậu thì tuyệt đấy – và còn sinh lợi nữa, rất có thể là như vậy,nếu cậu vượt qua được.”
“Xin lỗi! Tôi không cần bất kỳ cuộc mạo hiểm nào hết, cảm ơn ông. Hôm nay thì không. Xin chào! Nhưng xin mời ông đến dùng trà – vào bất kỳ giờ nào ông muốn! Sao lại không phải là ngày mai nhỉ? Ngày mai ông đến nhé! Tạm biệt!” Dứt lời, anh chàng hobbit quay mình chạy vội vào trong khuôn cửa tròn màu lá cây và cố đóng cửa thật nhanh mà không tỏ ra thô lỗ. Suy cho cùng thì bọn phù thủy vẫn là phù thủy mà thôi.
“Mình mời lão ta đến dùng trà làm quái gì nhỉ?” anh chàng vừa tự nhủ vừa bước vào phòng lương thực.Tuy chỉ vừa ăn điểm tâm nhưng anh chàng nghĩ bụng dùng một hai cái bánh ngọt và uống một chút gì đó thì cũng tốt sau cơn hoảng sợ của mình.
Trong thời gian đó lão Gandalf vẫn còn đứng ngoài cửa và cứ lặng lẽ cười hoài. Một lát sau lão tiến bước và dùng đầu nhọn của cái gậy mà khía một ký hiệu kỳ cục lên cánh cửa trước đẹp đẽ màu xanh của anh chàng hobbit.Rồi lão rảo bước bỏ đi, gần như đúng vào lúc Bilbo sắp ăn xong cái bánh thứ hai và bắt đầu chắc mẩm là mình đã thoát hẳn khỏi những cuộc mạo hiểm.
Ngày hôm sau anh chàng hầu như đã quên bẵng lão Gandalf. Anh chàng không nhớ rõ mọi việc lắm, trừ phi đã ghi lên Bảng Nhắc Việc như thế này: Gandalf Trà Thứ Tư. Ngày hôm qua vì quá bối rối nên anh chàng đã không làm được việc gì đại loại như thế.
Đúng trước giờ dùng trà thì có tiếng chuông rung rất to ở cửa trước, và khi đó anh chàng sực nhớ ra! Anh chàng hối hả bắc ấm đun nước và dọn ra một bộ chén đĩa nữa, thêm một hai cái bánh, rồi chạy ra cửa.
“Tôi rất xin lỗi đã để ông phải đợi!” anh chàng đã toan nói thì nhận ra là đâu phải lão Gandalf. Đó là một chú lùn có bộ râu màu xanh nhét vào trong chiếc dây lưng màu vàng, đôi mắt sáng ngời bên dưới chiếc mũ trùm màu lục sẫm. Cửa vừa mở là chú len ngay vào bên trong, cứ như thể có người đang chờ đợi chú vậy.
Chú treo tấm áo khoác có mũ trùm của mình vào cái mắc gần nhất rồi cúi rạp xuống chào và nói, “Dwalin sẵn sàng phục vụ!”
“Bilbo Baggins sẵn sàng phục vụ!” anh chàng hobbit nói, quá ngạc nhiên nên không hỏi được câu hỏi nào trong khoảnh khắc ấy. Khi sự yên lặng sau đó trở nên khó chịu, anh chàng nói tiếp, “Tôi vừa mới sắp sửa dùng trà, xin mời dùng chút trà với tôi.”Có lẽ câu nói hơi thiếu tự nhiên một chút, nhưng ý định của anh chàng thật chân tình. Ở địa vị bạn, bạn sẽ xử sự thế nào nếu một chú lùn không mời mà đến và treo đồ của mình trong hành lang nhà bạn mà không một lời giải thích?
Họ ngồi vào bàn chưa ấm chỗ, thực tế là vừa mới với lấy chiếc bánh thứ ba, thì có tiếng chuông thậm chí còn to hơn lần trước.
“Xin lỗi nhé!” anh chàng hobbit nói rồi chạy ra cửa.
“Vậy là cuối cùng thì ông đã đến đây rồi!” Lần này anh chàng đã toan nói thế với lão Gandalf. Nhưng nào phải Gandalf. Thay vào đó là một chú lùn nom già khụ đứng trên bậc cửa với bộ râu bạc và cái mũ trùm màu đỏ tươi và chú này cũng nhót ngay vào lúc cửa vừa mở, cứ như thể chú đã được mời đến.
“Tôi thấy là bọn họ đã bắt đầu đến rồi,” chú nói khi nhìn thấy cái mũ trùm màu lục của Dwalin treo trên tường. Chú treo cái mũ đỏ của mình vào cạnh đó, và vừa đặt tay lên ngực vừa nói, “Balin sẵn sàng phục vụ!”
“Cảm ơn ông!” Bilbo nói, miệng há hốc. Trả lời như vậy thật không phải lối, nhưng cái câu bọn họ đã bắt đầu đến rồi đã khiến anh chàng quá bối rối. Anh chàng thích có khách tới thăm nhưng phải biết họ là ai trước khi họ tới, và nếu do mình đích thân mời thì thích hơn. Anh chàng phát hoảng khi nghĩ rằng có thể không đủ bánh ngọt, và rồi – với tư cách là chủ nhà: anh chàng biết nhiệm vụ của mình và kiên quyết thực hiện dù phải khổ sở đến thế nào – có thể là anh chàng sẽ phải nhịn ăn.
“Vào trong nhà đi, và dùng một chút trà nhé!” anh chàng cố nói sau khi đã hít một hơi thật sâu.
“Một chút bia thì hợp với tôi hơn, nếu ông cũng thích dùng thứ đó, thưa ông,” chú Balin râu bạc nói. “Mà tôi ăn chút bánh ngọt cũng được – bánh ngọt hạt thơm ấy, nếu ông có cái nào.”
“Rất nhiều!” Bilbo thật ngạc nhiên khi thấy mình trả lời như vậy; và anh chàng thấy mình hối hả chạy tới hầm rượu mà rót đầy một cốc vại[2] bia, rồi lại chạy tới phòng lương thực lấy hai cái bánh ngọt nhân hạt thơm hình tròn đẹp đẽ mà anh chàng mới nướng chiều hôm ấy để dành cho bữa lót dạ sau bữa khuya của mình.
Lúc anh chàng quay trở lại thì Balin và Dwalin đang trò chuyện tại bàn như đôi bạn cũ (thực ra họ là hai anh em). Bilbo vừa đặt phịch vại bia và hai cái bánh trước mặt hai chú thì lại có tiếng chuông rung, và rồi lại một tiếng chuông rung nữa.
“Lần này thì nhất định là Gandalf rồi,” anh chàng vừa nghĩ vừa thở hổn hển dọc lối ra cửa. Nhưng nào có phải. Đó là hai chú lùn nữa, cả hai đều đội mũ trùm màu xanh, có thắt lưng màu bạc và bộ râu màu vàng; mỗi chú mang một túi dụng cụ và một cái xẻng. Họ lẻn ngay vào khi cửa vừa bắt đầu mở – Bilbo hầu như chẳng ngạc nhiên chút nào.
“Tôi giúp gì được quý vị đây, các chàng lùn của tôi?” anh chàng nói.
“Kili sẵn sàng phục vụ!” một gã nói. “Và cả Fili nữa!” chú kia nói; rồi cả hai chú cởi phăng mũ trùm ra và cúi chào.
“Xin phục vụ quý vị cùng gia đình!” Bilbo đáp, lần này thì anh chàng đã nhớ phải cư xử sao cho phải phép.
“Tôi thấy là Dwalin và Balin đã đến đây rồi”, Kili nói. “Mình nhập bọn nào.”
“Bọn!” Baggins nghĩ. “Mình chẳng thích cái âm thanh của từ đó. Mình thật sự phải ngồi xuống một lát để bình tĩnh trở lại và dùng một chút đồ uống đã.” Anh chàng chỉ vừa mới nhắp một chút – ở góc phòng, trong lúc bốn chú lùn ngồi quanh bàn chuyện trò về những hầm mỏ, về vàng và về những bất trắc do lũ yêu tinh gây ra cùng những cuộc phá phách của lũ rồng và rất nhiều chuyện khác mà anh chàng không hiểu và cũng không muốn hiểu, bởi vì những chuyện ấy nghe có vẻ quá mạo hiểm – thì kinh-coong-kinh-coong, chuông lại vang lên như thể một thằng bé hobbit nghịch ngợm nào đó đang cố kéo đứt cái cần dây chuông.
“Có người ở ngoài cửa!” anh chàng vừa nói vừa hấp háy mắt.
“Bằng vào tiếng chuông ấy thì phải có đến bốn người,” Fili nói. “Vả lại, chúng tôi đã nom thấy họ đi sau chúng tôi một quãng.”
Anh chàng hobbit nhỏ bé khốn khổ ngồi xuống trong hành lang và gục đầu vào hai bàn tay mà phân vân không biết chuyện gì đã xảy ra, và chuyện gì sắp sửa xảy đến, và liệu tất cả bọn họ có ở lại dùng bữa tối hay không. Rồi chuông lại reo to hơn bao giờ hết, và anh chàng phải chạy ra cửa. Không phải chỉ có bốn, mà là NĂM. Thêm một chú lùn nữa đã đến trong lúc anh chàng còn đang phân vân trong hành lang. Anh chàng vừa mới vặn quả đấm cửa thì tất cả bọn họ đã vào bên trong, vừa cúi chào vừa lần lượt nói “sẵn sàng phục vụ”. Tên của họ là Dori, Nori, Ori, Oin và Gloin; và chẳng mấy chốc hai chiếc mũ trùm màu tía, một chiếc màu xám, một chiếc màu nâu và một chiếc màu trắng đã treo lủng lẳng trên mắc, rồi bọn họ tiến bước, thọc bàn tay to tướng vào những chiếc dây lưng màu vàng và màu bạc của mình, để nhập bọn với những chú khác. Họ hầu như đã trở thành một bọn. Vài chú gọi rượu bia, một số chú gọi bia đen, một chú gọi cà phê, và tất cả bọn họ đều gọi bánh ngọt; vì vậy anh chàng hobbit đã phải bận rộn luôn chân luôn tay một lát.
Một bình lớn cà phê vừa được đặt vào lò sưởi, những chiếc bánh hạt thơm vừa xơi hết, và mấy gã lùn vừa bắt đầu một chầu bánh nướng phết bơ, thì có tiếng gõ cửa rất to. Không phải là tiếng chuông réo, mà là tiếng đập cồng cộc rất mạnh vào bộ cửa đẹp màu lá cây của anh chàng hobbit. Ai đó đang dùng một cái gậy mà đập cửa!
Bilbo vội chạy dọc hành lang, rất giận dữ, hoàn toàn bối rối và kinh ngạc – đó là cái ngày thứ Tư rầy rà nhất mà anh chàng còn nhớ. Anh chàng giật mạnh cho cửa mở toang, và bọn họ ngã bổ nhào vào bên trong, chú nọ đè lên chú kia. Lại thêm những chú lùn, bốn chú! Và có Gandalf ở phía sau, lão chống gậy và đang cười to. Lão đã gây ra một vết lõm khá lớn trên cánh cửa đẹp đẽ; và tiện thể cũng đã xóa đi cái ký hiệu bí mật mà lão đã khía ở chỗ đó buổi sáng hôm trước.
“Cẩn thận nào! Cẩn thận nào!” lão nói. “Chẳng giống cung cách của cậu chút nào, Bilbo ạ, ai lại để bạn bè của mình đứng chờ trên tấm thảm chùi chân rồi mở cửa đánh sụp một cái! Hãy để ta giới thiệu Bifur, Bofur, Bombur, và đặc biệt là Thorin!”
“Sẵn sàng phục vụ!” Bifur, Bofur và Bombur vừa nói vừa đứng thành một hàng. Rồi họ treo hai cái mũ trùm màu vàng, một chiếc màu lá cây nhạt cùng một chiếc màu xanh da trời có một núm tua dài màu bạc lên tường. Chiếc mũ cuối cùng là của Thorin, chú lùn có thế lực rất lớn, trên thực tế đó đích thị là đại nhân Thorin Oakenshield, người chẳng hài lòng một tí một chút nào khi bị ngã sõng soài trên tấm thảm chùi chân của Bilbo và bị Bifur, Bofur và Bombur đè lên. Một lý do là Bombur quá béo và nặng. Thorin quả là rất cao ngạo, đã chẳng nói gì về việc phục vụ; còn anh chàng Baggins thì cứ xin lỗi hoài, đến nỗi cuối cùng ông ta phải làu bàu “Xin đừng nhắc chuyện đó nữa,” và thôi cau mày.
“Bây giờ tất cả chúng ta có mặt ở đây rồi,” Gandalf vừa nói vừa nhìn hàng mũ trùm dự tiệc gồm mười ba chiếc – những chiếc mũ trùm đẹp nhất có thể tháo rời – cùng chiếc mũ của bản thân lão đang treo trên mắc. “Một cuộc tụ hội thật vui vẻ! Ta hy vọng là vẫn còn chút gì cho những kẻ đến muộn ăn uống chứ! Cái gì kia hả? Trà! Không, xin cảm ơn cậu! Cho ta một chút rượu vang đỏ ấy”.
“Cả ta nữa,” Thorin nói.
“Và mứt phúc bồn tử và bánh nướng nhân táo,” Bifur nói.
“Và bánh nướng thịt lợn và xa lát,” Bombur nói.
“Và thêm bánh ngọt nữa – và bia – và cà phê, nếu ngài không thấy phiền,” mấy gã lùn khác gọi với qua lối cửa.
“Làm vài quả trứng, anh bạn tốt bụng nhé!” Gandalf gọi với theo trong lúc anh chàng hobbit lật bật chạy vào các phòng lương thực. “Mà mang ngay món gà nguội cùng dưa ghém ra đây!”
“Dường như lão ta biết tường tận những cái chạn của mình chẳng kém gì mình ấy!” Baggins nghĩ bụng, lúc này anh chàng thực sự rối trí, và bắt đầu băn khoăn không biết có phải một cuộc mạo hiểm vô cùng cùng tệ hại đã xộc ngay vào nhà mình rồi hay không. Khi đã bày tất cả những chai đồ uống, các món ăn, dao dĩa, cốc, đĩa, thìa và những thứ khác lên mấy cái khay lớn, anh chàng bắt đầu thấy rất nóng người, mặt đỏ lên và bực bội.
“Mấy thằng lùn này rõ thật là nhiễu sự đến khó chịu!” anh chàng lớn tiếng. “Sao
chúng lại không đến mà giúp một tay kia chứ?” Kỳ lạ làm sao! Đã thấy Balin và Dwalin ở cửa bếp, còn Fili và Kili thì đứng phía sau, và chỉ loáng một cái – bọn họ đã khuân những cái khay cùng hai cái bàn nhỏ vào phòng khách rồi lại bày các thứ ra.
Gandalf ngồi ở đầu bàn tiệc, quanh bàn là mười ba gã lùn: còn Bilbo thì ngồi trên một chiếc ghế đẩu bên lò sưởi, vừa nhấm nháp một cái bánh bích quy (anh chàng đã mất hẳn cái hứng ăn uống) vừa cố tỏ ra bình thản như thể mọi việc đều hoàn toàn bình thường và tuyệt nhiên không phải là một cuộc mạo hiểm. Mấy chú lùn cứ ăn ăn, nói nói, và thời gian cứ tiếp tục trôi đi. Cuối cùng bọn họ đẩy ghế ra phía sau, còn Bilbo thì bắt đầu thu dọn cốc đĩa.
“Có lẽ tất cả các vị sẽ ở lại dùng bữa tối chứ ạ?” anh chàng nói bằng cái giọng khoan thai và lịch sự nhất của mình.
“Dĩ nhiên rồi,” Thorin nói. “Và sau bữa tối nữa. Phải đến khuya bọn ta mới bàn xong chuyện, và trước hết bọn ta cần một chút âm nhạc. Bây giờ hãy thu dọn đi!
Ngay sau đó mười hai chú lùn – không kể Thorin, chú này quá quan trọng và còn lưu lại chuyện trò với Gandalf – đứng phắt dậy, và xếp bát đĩa thành những chồng cao ngất. Họ đi ngay, chẳng cần đợi lấy khay, cứ dùng một tay giữ thăng bằng những chồng đĩa, trên chỏm mỗi chồng là một cái chai, trong lúc anh chàng hobbit vừa hốt hoảng chạy theo vừa kêu oai oái: “xin hãy cẩn thận cho!” và “xin đừng bận tâm về việc đó! Tôi có thể lo liệu mà.” Nhưng mấy chú lùn chỉ bắt đầu cất tiếng hát:
Làm sứt cốc và làm rạn đĩa!
Làm mẻ dao và làm quằn dĩa!
Đó là điều Bilbo Baggins căm ghét –
Đập tan chai và đốt những nút bần!
Cắt khăn trải bàn và giẫm lên dầu mỡ!
Rót sữa lên sàn phòng chứa đồ ăn!
Quẳng xương xẩu trên mặt thảm phòng ngủ!
Té rượu vang lên mọi cửa ra vào!
Đổ những mảnh vỡ vào một chậu nước sôi;
Đập vụn chúng ra bằng một cái chày cực lớn;
Và khi bạn giã xong, nếu còn mảnh nào nguyên vẹn,
Hãy ném chúng lăn lóc dọc hành lang!
Đó là điều Bilbo Baggins căm ghét!
Vậy thì, hãy cẩn thận! Cẩn thận với những cái đĩa!
Và dĩ nhiên bọn họ đã không thực hiện những điều dễ sợ ấy, và mọi thứ đều được rửa sạch và cất đi nhanh như chớp mà không mảy may bị sứt mẻ, trong lúc anh chàng hobbit cứ quay như chong chóng ở giữa nhà bếp để cố xem bọn họ đang làm gì. Sau đó cả bọn quay trở lại và thấy Thorin đang vừa ghếch chân lên cái khung chắn quanh lò sưởi vừa hút một tẩu thuốc. Chú đang thổi ra những vòng tròn khói thật to, và chú bảo vòng tròn nào đi đâu là nó đi đấy – vút lên ống khói, hoặc lượn ra phía sau cái đồng hồ đặt trên bệ lò sưởi, hoặc chui vào gầm bàn, hoặc cứ chạy vòng quanh trần nhà; nhưng dù nó đi đâu thì cũng không đủ nhanh để thoát khỏi Gandalf. Pụp! Từ cái tẩu ngắn bằng gốm của mình lão phóng ra một vòng tròn khói nhỏ hơn bay chính xác qua từng vòng khói của Thorin. Sau đó cái vòng khói của Gandalf thường ngả màu lục và quay trở lại bay lượn trên đầu lão phù thủy. Lão đã có cả một đám vòng khói ấy
ở quanh mình, và trong ánh sáng lờ mờ đám vòng khói ấy khiến lão nom kỳ lạ và đầy ma mị. Bilbo đứng yên quan sát – anh chàng thích những vòng khói – và rồi bỗng thẹn đỏ mặt khi nghĩ sáng hôm qua mình đã tự hào dường nào về những vòng tròn khói mình thả theo gió bay trên Quả Đồi.
“Giờ là lúc dành cho âm nhạc!” Thorin nói. “Hãy mang nhạc cụ ra đây!”
Kili và Fili vội chạy đi tìm túi rồi quay trở lại với những cây vĩ cầm nhỏ; Dori, Nori và Ori lấy ra những cây sáo từ chỗ nào đó bên trong áo khoác; Bombur mang tới một cái trống từ trong hành lang; Bifur và Bofur cũng bước ra ngoài rồi quay trở lại cùng những cái kèn clarinet mà trước đó họ đã bỏ lại giữa đám gậy chống. Dwalin và Balin nói: “Xin lỗi, tôi để nhạc cụ ở ngoài hành lang!” “Thế thì đem hộ cả đàn của ta vào nữa!” Hai gã quay trở lại với những cây đàn viol to bằng người họ, cùng cây đàn hạc của Thorin được gói trong một tấm vải màu lục. Đó là một cây đàn hạc bằng vàng rất đẹp, và khi Thorin gảy thì tiếng nhạc vang lên tức thì, đột ngột và du dương đến mức Bilbo quên hết mọi sự, và bị cuốn trôi tới những xứ sở tăm tối bên dưới những vầng trăng kỳ lạ mãi tít bên kia Thủy Lộ và vời vợi xa cái hang hobbit của anh chàng bên
dưới Quả Đồi.
Bóng tối ùa vào căn phòng từ một khuôn cửa sổ nhỏ mở về phía sườn Quả Đồi, ánh lửa từ trong lò sưởi bập bùng – đang tiết tháng Tư – và cả bọn vẫn tiếp tục tấu nhạc, trong lúc cái bóng bộ râu của Gandalf cứ ve vẩy trên tường.
Bóng tối tràn ngập khắp căn phòng, lò sưởi tắt ngấm và những cái bóng biến mất mà bọn họ vẫn tiếp tục tấu nhạc. Rồi bỗng hết chú này đến chú khác bắt đầu hát trong lúc chơi đàn, giọng các chú trầm vang sâu lắng hát về những miền đất xa xôi nơi quê hương cổ xưa; và sau đây là một đoạn trong bài hát của họ, nếu có thể coi là bài hát tuy là không có nhạc:
Tít trên dãy núi mù sương lạnh lẽo
Tới những hầm sâu và những hang xưa
Chúng ta phải lên đường trước rạng đông
Để tìm kiếm số vàng bị yểm bùa mờ xỉn.
Các chú lùn xưa đã làm những lá bùa đầy ma lực,
Trong lúc những nhát búa bổ ầm như chuông rung
Tại chốn thẳm sâu, nơi loài hắc ám ngủ yên,
Tại những hành lang sâu dưới lòng đồi đá.
Xưa vì đức vua và chúa tể loài tiên
Họ đục núi tạo thành những cái kho tăm tối
Để cất giấu biết bao vàng lấp lánh
Và những hạt trân châu trên chuôi kiếm chuôi gươm.
Họ xâu những vì sao rực rỡ vào dây chuyền bạc
Họ đính những ngọn lửa-rồng vào mũ miện đế vương
Dùng lưới mắt cáo bằng dây kim loại bện chặt
Để nhốt ánh sáng mặt trăng, mặt trời.
Tít trên dãy núi mù sương lạnh lẽo
Tới những hầm sâu và những hang xưa
Chúng ta phải lên đường trước lúc rạng đông
Để giành lại kho vàng của chúng ta đã từ lâu quên lãng.
Họ tạc thành những cái cốc để dùng,
Và những cây đàn hạc bằng vàng còn mãi nằm ở đó; Nơi không ai có thể bới đào,
Cùng bao bài ca chưa từng ai nghe mà người hoặc tiên đã hát.
Những cây thông thét gào hoài trên non cao,
Những ngọn gió than van hoài trong đêm tối.
Ngọn lửa đỏ cháy bùng lên lan khắp;
Cây cối nom như những bó đuốc rực hồng.
Chuông rung hoài trong thung lung
Con người ngước nhìn lên mặt mũi tái xanh Cơn thịnh nộ của rồng dữ dội hơn cả lửa
Phá tan tành những ngọn tháp và nhà cửa mong manh.
Núi bốc khói ngùn ngụt dưới trăng;
Người lùn đã nghe tiếng bước chân của ngày tận số.
Họ rời bỏ lâu đài của mình để rồi gục ngã
Dưới bàn chân lão rồng hung ác, dưới trăng.
Tít trên dãy núi mù sương ảm đạm
Tới những hầm tù sâu thẳm và những hang mờ tối
Chúng ta phải lên đường trước lúc rạng đông,
Để giành lại đàn hạc và vàng từ tay lão rồng!
Trong lúc bọn họ hát, anh chàng hobbit cảm thấy niềm say mê đối với những đồ vật đẹp đẽ do đôi bàn tay, sự khéo léo và phép màu làm ra cứ len lỏi vào lòng mình, một niềm say mê mãnh liệt và đầy đố kỵ, cái khát vọng từ trái tim của những chú lùn. Rồi một cái gì đó của dòng họ Took thức dậy trong lòng, anh chàng mong muốn được ra đi và nhìn thấy rặng núi lớn, nghe thấy tiếng thông reo và thác đổ, khám phá hang động, và đeo kiếm thay vì cây gậy chống. Anh chàng nhìn ra ngoài cửa sổ. Các vì sao đã xuất hiện trên bầu trời tối đen phía trên những hàng cây. Anh chàng nghĩ đến đồ châu báu của người lùn đang tỏa sáng trong những cái hang tăm tối. Bỗng trong khu rừng phía bên kia Thủy Lộ vụt lóe một ánh lửa – có lẽ ai đó đang nhóm một bếp củi – và anh chàng nghĩ đến những con rồng kẻ cướp đậu xuống Quả Đồi yên tĩnh và đang làm cho tất cả đều bốc cháy. Anh chàng rùng mình sợ hãi, và rất nhanh chóng lại trở thành cái anh chàng Baggins chất phác nơi Đáy Túi, Gầm Đồi.
Anh chàng run rẩy đứng dậy; bụng nửa muốn đi lấy đèn nửa chỉ định giả bộ như thế, rồi tới nấp mình sau những thùng bia trong hầm rượu, chờ cho đến khi mấy chú lùn đã bỏ đi hết thì mới lại quay trở ra. Bỗng anh chàng thấy tiếng nhạc và tiếng hát đã ngừng, và tất cả bọn họ đều đang nhìn mình bằng những con mắt sáng rực trong bóng tối.
“Cậu định đi đâu đấy?” Thorin nói bằng cái giọng tỏ ý đi guốc trong bụng anh chàng hobbit.
“Các vị cũng cần một chút ánh sáng chứ?” Bilbo nói, giọng có vẻ ái ngại.
“Chúng tôi cần bóng tối,” cả mấy chú lùn đều nói. “Bóng tối ủng hộ những việc mờ ám! Từ giờ đến sáng còn dài thì giờ lắm.”
“Dĩ nhiên rồi!” Bilbo vừa nói vừa vội ngồi xuống. Anh chàng ngồi trượt cái ghế đẩu và ngự ngay vào tấm chắn lò sưởi làm que cời và xẻng đổ văng loảng xoảng.
“Suỵt!” Gandalf nói. “Hãy để Thorin nói!” Và Thorin bắt đầu như thế này.
“Thưa ông Gandalf, các bạn lùn và ông Baggins! Chúng ta đã gặp nhau tại ngôi nhà của người bạn và người đồng mưu của chúng ta, là quý ông hobbit xuất sắc và liều lĩnh nhất này – cầu cho lông trên những ngón chân của ông không bao giờ rụng! Xin ca ngợi rượu vang và bia của quý ông!…” Chú dừng lại để lấy hơi và chờ đợi một lời bình phẩm lịch sự của anh chàng hobbit, nhưng anh chàng Bilbo Baggins khốn khổ chẳng có một lời khen ngợi nào và đang mấp máy môi phản đối việc mình bị coi là liều lĩnh và tệ nhất là người đồng mưu, tuy miệng không nói ra được lời nào nhưng anh chàng quá ư bối rối. Thế là Thorin lại nói tiếp:
“Chúng ta gặp nhau để bàn bạc kế hoạch, cách thức, biện pháp, nguyên tắc và mưu chước của chúng ta. Chẳng mấy chốc chúng ta sẽ lên đường trước lúc rạng đông để làm một cuộc hành trình dài, cuộc hành trình mà một vài người trong chúng ta hoặc có lẽ tất cả chúng ta (ngoại trừ người bạn và cố vấn của chúng ta là ngài phù thủy Gandalf tài tình) có thể sẽ chẳng bao giờ trở về. Đây là một khoảnh khắc trọng đại. Mục tiêu của chúng ta, tôi cho rằng tất cả mọi người đều đã rõ. Đối với quý ông Baggins đáng trọng vọng, và có lẽ đối với một hai quý vị lùn trẻ tuổi (tôi có thể nêu đích danh Kili và Fili chẳng hạn) thì cần phải giải thích ngắn gọn đôi chút về hoàn cảnh thực sự lúc này…”
Kiểu cách ăn nói của Thorin là thế. Chú là một chú lùn quan trọng. Nếu được phép, có thể chú đã tiếp tục nói như thế cho tới khi thở không ra hơi mà chẳng cho bất kỳ ai
ở đây biết bất kỳ điều gì mà mọi người chưa biết. Song chú đã bị ngắt lời một cách thô bạo. Anh chàng Bilbo tội nghiệp không thể chịu đựng thêm chút nào nữa. Nghe đến mấy lời có thể sẽ chẳng bao giờ trở về là anh chàng bắt đầu cảm thấy trong lòng mình bật ra một tiếng thét đinh tai, và chẳng mấy chốc nó ào ra như tiếng còi của một đầu tàu hỏa vừa ra khỏi đường hầm. Tất cả mấy chú lùn đứng bật dậy làm đổ văng cái bàn. Gandalf bật một ngọn lửa màu xanh lục trên đầu chiếc gậy phép của lão, và trong cái ánh sáng chói lòa như pháo hoa của nó mọi người nhìn thấy anh chàng hobbit tội nghiệp đang quỳ trên lò sưởi, run như cầy sấy. Rồi anh chàng ngã sóng soài trên sàn nhà và cứ luôn mồm kêu to “Bị sét đánh, bị sét đánh rồi!”; và suốt một hồi lâu bọn họ chỉ nghe anh chàng nói có thế. Vì vậy bọn họ khiêng anh chàng sang phòng khách và đặt trên chiếc sofa cùng một cốc đồ uống ở bên cạnh, rồi họ quay trở lại với công việc ám muội của mình.
“Anh bạn thân mến này dễ bị kích động quá,” Gandalf nói trong lúc bọn họ lại ngồi xuống. “Cứ hay phát khùng đến kỳ lạ, song cu cậu là một trong những tay cừ nhất, một trong những tay cừ nhất đấy – dữ dội như một con rồng bị mắc kẹt lời ấy.”
Nếu từng thấy một con rồng bị mắc kẹt, các bạn sẽ nhận ra rằng hình ảnh này chỉ là
một phép cường điệu thi ca vận dụng cho bất kỳ người hobbit nào, thậm chí là cụ thúc tổ Bò Rống của Lão Took, cụ này to lớn (đối với người hobbit) đến mức có thể cưỡi được ngựa. Cụ đã xông vào tấn công bọn yêu tinh Núi Gram trong trận chiến Cánh Đồng Xanh và đã phang rụng đầu tên vua Golfimbul của chúng bằng một cái gậy tày gỗ. Cái đầu bay vút lên không trung đến hàng trăm thước rồi rơi vào một hang thỏ, thế là cụ thắng trận và môn thể thao Golf được tạo ra đúng vào khoảnh khắc ấy.
Tuy nhiên, trong lúc này, đứa cháu hiền lành hơn của cụ Bò Rống lại đang hồi tỉnh trong phòng khách. Lát sau, khi đã dùng cốc đồ uống, anh chàng nem nép bò ra cửa phòng. Đây là những gì anh chàng nghe thấy Gloin nói, “Hừm!“ (hoặc một cái khịt mũi đại loại như vậy). “Liệu anh chàng có hợp không, các bạn nghĩ thế nào? Ông Gandalf bảo là anh chàng hobbit này dữ dội lắm thì rất tốt thôi, nhưng một tiếng hét như thế khi bị kích động cũng đủ khiến lão rồng cùng bà con của lão thức giấc và giết cả lũ chúng ta rồi. Tôi nghĩ tiếng hét ấy nghe có vẻ sợ hãi hơn là kích động. Thực ra, nếu không phải vì có ký hiệu trên cửa thì tôi đã chắc là chúng ta đến nhầm nhà. Ngay khi để mắt thấy anh chàng bé nhỏ cứ run bần bật và thở hổn hển trên tấm thảm là tôi đã nghi ngờ rồi. Nom anh chàng giống một gã hàng xén hơn là một tay ăn trộm!”
Thế là anh chàng Baggins vặn quả đấm cửa và bước vào bên trong. Cái phần của dòng họ Took trong con người anh chàng đã thắng. Anh chàng bỗng cảm thấy mình sẽ nhịn ngủ nhịn ăn để được xem là dữ tợn.Còn về những lời anh chàng bé nhỏ cứ run bần bật trên tấm thảm, chúng hầu như khiến anh chàng trở nên thật sự dữ tợn. Nhiều lần sau đó, cái phần của dòng họ Baggins lại ân hận về những gì anh chàng làm lúc này, và anh chàng tự nhủ: “Bilbo ơi, mày là một thằng đần; mày đã sa ngay vào chuyện này và đang tự mình làm khổ mình đấy.”
“Xin lỗi các vị,” anh chàng nói, “nếu như tôi đã nghe lỏm những lời lẽ mà các vị vừa nói. Tôi không có tham vọng muốn hiểu các vị đang bàn chuyện gì, hoặc việc các vị đề cập đến bọn trộm cướp, song tôi nghĩ là mình hoàn toàn chắc chắn rằng” (đây là điều mà anh chàng coi là xúc phạm lòng tự trọng của mình) “quý vị cho tôi là đồ vô tích sự. Tôi sẽ cho các vị thấy. Không có ký hiệu nào trên cánh cửa nhà tôi hết – cánh cửa đó mới được sơn cách đây một tuần – và tôi hoàn toàn chắc các vị đã đến nhầm nhà. Ngay khi nhìn thấy những bộ mặt lạ lùng của các vị ở ngoài cửa, tôi đã nghi ngờ rồi. Nhưng hãy coi là các vị đến đúng chỗ đi. Hãy cho tôi biết các vị muốn làm gì, và tôi sẽ thử làm điều đó, dù có phải cuốc bộ từ đây tới miền Đông xa xôi để chiến đấu với lũ rồng dữ tợn tại Sa Mạc Cuối Cùng. Tôi đã từng có một ông đại-thúc-tổ là cụ Bò Rống Took, và…”
“Phải, phải, nhưng chuyện đó xa xưa lắm rồi,” Gloin nói. “Tôi vừa nói về cậu kia mà.
Mà tôi đảm bảo là trên cánh cửa này có một ký hiệu đấy – cái ký hiệu thường dùng trong nghề, hoặc ngày trước người ta vẫndùng. Kẻ Trộm cần việc làm, rất hăng hái và tiền công phải chăng, đó là ý nghĩa của cái ký hiệu ấy. Nếu thích thì cậu có thể dùng cụm từ Chuyên Gia Săn Lùng Kho Báu thay cho từ Kẻ Trộm. Một vài người thích thế. Đối với bọn ta thì cũng như nhau cả thôi. Gandalf bảo bọn ta là ở vùng này có một người như thế muốn tìm việc làm ngay và bảo ông ấy đã thu xếp một cuộc gặp gỡ ở đây vào giờ dùng trà ngày thứ Tư”.
“Dĩ nhiên là có một ký hiệu,” Gandalf nói. “Ta đích thân vạch nó ở đó. Vì những lý do rất chính đáng. Các vị đề nghị ta tìm giúp người thứ mười bốn cho cuộc thám hiểm của các vị, và ta chọn anh chàngBaggins. Ai muốn bảo là ta đã chọn nhầm người hoặc nhầm nhà thì cứ việc nói, và các vị có thể dừng lại ở con số mười ba và đành chấp nhận tất cả mọi vận rủi, hoặc quay trở về mà đào than.”
Lão cau có nhìn Gloin một cách thật giận dữ đến mức chú vội ngồi thụp xuống chiếc ghế tựa của mình; và khi Bilbo cố mở miệng để hỏi một câu, lão quay lại vừa quắc mắt nhìn vừa vểnh cặp lông mày rậm lên cho tới lúc Bilbo ngậm miệng lại đánh tách một cái. “Thế là được rồi,” Gandalf nói. “Chúng ta không bàn gì thêm nữa. Ta đã chọn anh chàng Baggins và như thế hẳn là đủ cho tất cả các vị rồi. Nếu ta bảo anh ta là Kẻ Trộm thì anh ta là Kẻ Trộm, hoặc rồi đến lúc sẽ là như thế. Anh chàng này còn nhiều tiềm năng hơn các vị đoán đấy, nhiều hơn cả anh ta biết về chính mình nữa kìa. Các vị (có khả năng) sẽ còn sống cả để mà cảm ơn anh ta đấy. Nào Bilbo, anh bạn của ta, hãy kiếm cái đèn và cho chúng ta chút ánh sáng mà xem cái này!”
Trên mặt bàn, dưới ánh sáng của một cây đèn lớn có cái chụp màu đỏ, lão trải ra một miếng giấy da khá giống một tấm bản đồ.
“Cái này là do lão Thror làm, ông nội của anh đấy, Thorin ạ,” lão nói để trả lời những câu hỏi hồi hộp của mấy chú lùn. “Đó là sơ đồ của Quả Núi.”
“Tôi thấy cái này sẽ chẳng giúp chúng ta được nhiều lắm,” sau khi liếc mắt ngó qua, Thorin thất vọng nói. “Tôi nhớ rất rõ Quả Núi này và cả những vùng đất quanh đó nữa. Tôi còn biết Rừng U Ám ở chỗ nào và cả Bãi Héo Hắt nơi lão rồng khổng lồ sinh nở nữa.”
“Có một con rồng được đánh dấu đỏ trên Quả Núi,” Balin nói, “nhưng chẳng cần cái dấu ấy cũng có thể dễ dàng tìm được lão, nếu chúng ta đến được nơi đó.”
“Có một điểm mà các vị chưa để ý tới,” lão phù thủy nói, “và đó là cái lối vào bí mật.
Các vị có thấy cái chữ rune ở sườn phía Tây kia, và hình bàn tay chỉ vào chữ đó từ những chữ rune khác không? Nó đánh dấu một lối đi bí mật xuống Hành Lang Ngầm.” (Hãy xem bản đồ ở đầu tập sách, và các bạn sẽ thấy những chữ rune màu đỏ ở đó.)
“Lối đi ấy trước kia có thể là bí mật,” Thorin nói, “nhưng làm sao có thể biết được nó có còn bí mật nữa hay không? Lão rồng Smaug đã sống ở đó đủ lâu để phát hiện ra bất kỳ điều gì cần biết về những cái hang ấy.”
“Lão ta có thể – song lão ta có lẽ đã không sử dụng nó hàng năm rồi.”
“Vì sao?”
“Bởi nó quá hẹp. ‘Cửa cao năm bộ[3] và ba người có thể sóng bước đi vào,’ những chữ rune viết thế, song lão rồng Smaug không thể trườn vào một cái hang cỡ ấy, thậm chí là khi lão còn trẻ, chắc chắn là sau khi đã nuốt chửng ngần ấy chú lùn và con người ở thị trấn Thung Lũng thì lão không thể chui vừa.”
“Có vẻ như đó là một cái hang to đối với tôi,” Bilbo rít lên (anh chàng chẳng biết gì về những con rồng và chỉ biết những cái hang của người hobbit). Anh chàng lại thấy hồi hộp và thích thú, đến nỗi quên cả việc phải im lặng. Anh chàng rất thích bản đồ, nên trong hành lang nhà anh có treo một tấm bản đồ lớn vẽ Vùng Xung Quanh, trên đó tất cả các lối đi dạo anh ưa thích được đánh dấu bằng mực đỏ. “Làm sao có thể giữ bí mật một cánh cửa lớn như vậy với mọi người ở bên ngoài, nói gì đến lão rồng?” anh chàng hỏi.
“Bằng rất nhiều cách,” Gandalf nói. “Nhưng bằng cách nào mà cái cửa hang này được giữ bí mật thì phải tới đó mà hiểu. Từ những gì ghi trên bản đồ ta đoán là có một cánh cửa đóng kín được làm cho nom hệt như sườn Quả Núi. Đó là phương pháp những người lùn thường dùng – ta nghĩ đúng là như thế, phải không nào?”
“Hoàn toàn đúng,” Thorin nói.
“À mà,” Gandalf nói tiếp, “ta quên không nói kèm theo tấm bản đồ là một chiếc chìa khóa, một chiếc chìa khóa nhỏ và kỳ lạ. Nó đây này!” lão nói, rồi trao cho Thorin một chiếc chìa khóa bằng bạc có thân ống dài và những khe răng rất phức tạp. “Hãy giữ nó an toàn!”
“Nhất định tôi sẽ làm thế,” Thorin nói, đoạn chú buộc chặt nó vào một sợi dây chuyền
đẹp đẽ quàng quanh cổ rồi luồn dưới chiếc áo vest của mình. “Bây giờ mọi chuyện đã bắt đầu có vẻ khả quan hơn. Cái tin này khiến tình thế của chúng ta thay đổi thuận lợi hơn nhiều. Từ trước tới nay chúng ta chưa biết rõ ràng sẽ phải làm gì. Chúng ta đã nghĩ đến việc đi về phía Đông một cách hết sức lặng lẽ và cẩn thận, tới tận Hồ Dài. Sau đó thì bắt đầu rắc rối…”
“Rắc rối trước đó từ rất lâu kia, theo chút hiểu biết của ta về những con đường đi về phía Đông,” Gandalf nói xen vào.
“Chúng ta có thể từ đó đi ngược theo Sông Chảy,” Thorin cứ thao thao nói mà chẳng để ý, “và tới đống hoang tàn của thị trấn Thung Lũng – cái thị trấn cổ trong thung lũng
ở đó, dưới bóng Quả Núi. Song không ai trong chúng ta muốn nghĩ đến Cổng Trước cả. Sông Chảy ra từ chính cái cổng này qua vách đá lớn ở phía Nam Quả Núi; và lão rồng cũng ra ngoài bằng cái cổng đó – quá thường xuyên, trừ phi lão đã thay đổi thói quen.”
“Cách ấy sẽ chẳng ăn thua gì đâu,” lão phù thủy nói, “nếu như không có một Chiến Binh dũng mãnh, thậm chí một Anh Hùng. Ta đã cố tìm một người; nhưng các chiến binh đang bận đánh lẫn nhau ở các xứ sở xa xôi, còn ở vùng này thì anh hùng hiếm lắm, hoặc mặc nhiên là không thể nào tìm được. Những thanh gươm ở vùng này hầu hết đều cùn, còn búa rìu thì được dùng để chặt cây, và những cái khiên thì dùng làm nôi hoặc để úp đĩa; mà lũ rồng thì ở tít tận đẩu tận đâu (vì thế đã thuộc về truyền thuyết) nên chẳng ai phải lo lắng cả. Bởi vậy ta quyết định dùng cách ăn trộm – đặc biệt khi ta nhớ tới sự tồn tại của một cái Cửa Hông. Và đây là anh bạn Bilbo Baggins nhỏ bé của chúng ta, tên kẻ trộm, tên kẻ trộm đã được bình chọn. Thế nên hãy xúc tiến công việc bây giờ và vạch ra vài kế hoạch thôi.”
“Thế thì tốt quá,” Thorin nói, “có lẽ chuyên gia ăn trộm cho chúng tôi vài ý kiến hoặc gợi ý đi nào.” Gã quay lại nói với Bilbo bằng một vẻ lịch sự giả tạo.
“Trước hết tôi muốn được biết thêm đôi chút về mọi việc,” anh chàng nói, cảm thấy vừa rất bối rối vừa dao động trong lòng, song cho đến lúc này anh vẫn kiên quyết tiếp tục mọi việc theo tính cách của dòng họ Took. “Ý tôi là về số vàng và lão rồng, và tất cả, và việc số vàng ấy đến đó bằng cách nào và nó thuộc về ai, và vân vân và cụ thể hơn nữa.”
“Chao ôi!” Thorin nói, “cậu không có một tấm bản đồ à? và cậu không nghe bài hát của bọn ta sao? mà bọn ta chẳng đã bàn về tất cả chuyện này hàng giờ rồi đó sao?”
“Dù sao tôi cũng muốn mọi chuyện phải dễ hiểu và rõ ràng,” anh chàng khăng khăng nói, khoác lên mình thái độ nghiêm túc và thực tế (thường chỉ dành cho những kẻ tìm cách vay tiền của anh), và cố hết sức tỏ ra khôn ngoan, cẩn trọng và chuyên nghiệp, xứng với sự tiến cử của Gandalf. “Tôi cũng cần biết về những rủi ro, những chi phí mình phải bỏ tiền túi ra, thời gian cần thiết, công sá và vân vân” – nói vậy là anh chàng ngụ ý: “Tôi sẽ được gì từ số vàng đó? và liệu tôi có còn sống mà trở về không?”
“Ồ thôi được,” Thorin nói. “Đã lâu lắm rồi, vào thời ông nội Thror của ta, dòng họ ta bị đuổi ra khỏi vùng viễn Bắc, rồi quay trở lại, đem hết của cải và công cụ của họ tới Quả Núi này trên bản đồ. Quả Núi đó trước kia được cụ kỵ nhà ta phát hiện ra, đó là cụ cố Thrain, nhưng hồi ấy người ta khai mở, người ta đào đường hầm, người ta xây cất nhà cửa và công xưởng đồ sộ hơn – ngoài ra, ta tin rằng họ cũng tìm thấy rất nhiều vàng và cơ man nào là châu báu nữa. Dù sao thì họ cũng trở nên vô cùng giàu có và nổi tiếng, còn ông nội ta thì một lần nữa lại là Vua dưới gầm Quả Núi và cụ được những người trần tục vô cùng kính trọng, những người này sinh sống ở phía Nam và dần dần tản lên mạn Sông Chảy, tới tận cái thung lũng bị Quả Núi che khuất. Họ đã xây dựng cái thị trấn Thung Lũng vui vẻ kia vào thời đó. Các vua chúa thường cho mời thợ rèn của chúng ta, và thậm chí ban thưởng rất hậu hĩ cho cả những người ít khéo tay nhất. Các bậc cha mẹ thường nài nỉ chúng ta nhận con em họ đến học việc, và trả công chúng ta thật hào phóng, đặc biệt là bằng lương thực, vì vậy chúng ta chẳng bao giờ phải bận tâm tự mình trồng trọt hoặc tìm mua. Nhìn chung đó là những năm tháng tốt đẹp của chúng ta, cả đến những người nghèo nhất trong dòng họ nhà ta cũng có tiền chi tiêu và cho vay, có thì giờ rảnh rỗi làm những món đồ đẹp đẽ chỉ để cho vui, đó là chưa kể những món đồ chơi kỳ diệu và tuyệt vời nhất, những thứ mà trên thế gian ngày nay chẳng thể nào tìm được. Vì vậy hành lang nhà ông nội ta bày đầy những áo giáp và châu báu, những đồ chạm khắc cùng cốc chén, và cái chợ đồ chơi ở Thung Lũng thì là một kỳ quan của phương Bắc.
“Chắc chắn vì thế mà lão rồng tìm đến. Cậu biết đấy, lũ rồng ăn trộm vàng và châu báu của người, tiên và người lùn ở bất kỳ nơi nào chúng có thể tìm thấy; và chúng canh gác món đồ trộm được trong suốt đời mình (trên thực tế là vĩnh viễn, trừ phi chúng bị giết) mà chẳng bao giờ dùng đến một cái khuyên đồng trong số đó. Quả thật là chúng hầu như không phân biệt nổi đâu là một tác phẩm đẹp đâulà một tác phẩm tồi, tuy rằng chúng vẫn thường biết rõ giá cả thị trường; và chúng không thể tự làm cho mình được thứ gì, thậm chí không sửa nổi một cái vảy nhỏ bị hỏng trên áo giáp. Vào thời ấy ở phương Bắc có rất nhiều rồng, và có lẽ vàng đang dần trở nên khan hiếm, phần vì những người lùn chạy trốn về phía Nam hoặc bị giết hại, phần vì tình trạng đất bỏ hoang khắp nơi và sự tàn phá ngày càng tệ hại của lũ rồng. Có một con
rồng đặc biệt rất tham lam, khỏe và độc ác có tên là Smaug. Một hôm hắn bay vút lên không và xuống phía Nam. Âm thanh đầu tiên mà bọn ta nghe thấy tựa như một trận bão đổ xuống từ phương Bắc, và những cây thông trên Quả Núi gãy răng rắc liên hồi trong gió. Vài kẻ trong số những người lùn tình cờ lại vắng nhà (ta may mắn là một trong số đó – một chàng trai giỏi giang thích phiêu lưu mạo hiểm hồi ấy, luôn đi lang thang, và chính điều đó đã cứu mạng ta vào ngày hôm đó) – chà, từ một khoảng cách xa tít bọn ta nhìn thấy con rồng đáp xuống quả núi của bọn ta trong một đám lửa bắn tung tóe. Sau đó hắn xuống các sườn núi và khi hắn đến các khu rừng, tất cả đều bốc cháy. Bấy giờ tất cả các quả chuông đều rung lên trong thị trấn Thung Lũng và các chiến binh đều chuẩn bị vũ khí. Những người lùn vội chạy khỏi thị trấn qua lối cổng lớn; nhưng con rồng đã đợi họ ở đó. Chẳng một ai chạy thoát theo con đường đó cả. Dòng sông ào ào chảy tỏa hơi nước mịt mùng và sương mù che phủ thị trấn Thung Lũng, rồi trong đám sương mù ấy con rồng xông vào tiêu diệt hầu hết các chiến binh – câu chuyện buồn quen thuộc, chỉ có điều nó lại quá phổ biến vào thời đó. Rồi hắn quay trở về và trườn vào Cổng Trước rồi phá tan nát tất cả các hành lang, đường hẻm, các đường hầm, thung lũng, hầm rượu, các khu nhà lớn và lối đi. Sau đó không còn người lùn nào ở bên trong sống sót, và hắn chiếm tất cả của cải của họ. Có lẽ, vì đó là cung cách của lũ rồng, hắn đã chất tất cả số của cải đó thành một đống lớn sâu trong núi và dùng nó làm giường ngủ. Về sau hắn thường bò ra ngoài qua cổng lớn và tới thị trấn Thung Lũng vào ban đêm, bắt người mang đi, đặc biệt là các trinh nữ, để ăn thịt, cho tới khi thị trấn này hoang tàn, tất cả dân ở đó đều chết hoặc bỏ đi hết. Tình hình ở đó hiện nay thế nào thì ta không biết đích xác, nhưng ta cho rằng ngày nay không ai sinh sống gần Quả Núi, cùng lắm cũng là đến ở bờ bên kia của Hồ Dài.
“Mấy người ít ỏi bọn ta ở rất xa bên ngoài quả núi đã ngồi khóc trong chỗ ẩn nấp và nguyền rủa lão rồng Smaug; và tại đó bọn ta bất ngờ thấy bố và ông nội ta đến nhập bọn, râu ria cháy sém. Họ hầm hầm vẻ mặt nhưng lại nói rất ít. Khi ta hỏi xem họ đã trốn thoát bằng cách nào, họ bảo ta hãy nín lặng, rằng một ngày nào đó đến lúc thích hợp thì ta khắc biết. Sau đó chúng ta ra đi, và từ đó tới nay chúng ta đã phải ráng sức kiếm sống khắp mọi miền xuôi ngược, thường xuyên phải hạ mình làm nghề thợ rèn hoặc thậm chí đi đào than. Song không bao giờ chúng ta quên cái kho báu bị ăn cướp của mình. Và ngay cả lúc này, khi mà ta sẵn sàng thừa nhận là bọn ta đã dành dụm được kha khá và không đến nỗi túng thiếu lắm” – nói đến đây Thorin lấy tay vuốt ve sợi dây chuyền vàng quanh cổ mình – “bọn ta vẫn có ý định giành lại nó, và trả hận lão rồng Smaug – nếu chúng ta có thể.
“Ta vẫn thường băn khoăn về chuyện bố và ông nội ta đã trốn thoát. Bây giờ ta hiểu là hồi ấy hẳn phải có một lối Cửa Hông bí mật mà chỉ có họ biết. Song hình như họ đã vẽ một bức bản đồ, và ta muốn biết làm thế nào mà Gandalf đã vớ được nó, và tại sao
nó lại không được truyền lại cho ta, người thừa kế hợp pháp kia chứ.”
“Ta đã không ‘vớ được nó’ đâu, ta đã được trao cho đấy,” lão phù thủy nói. “Ông nội Thror của ngươi đã bị tên yêu tinh Azog giết tại vùng mỏ Moria, ngươi nhớ chứ.”
“Ta nguyền rủa cái tên hắn, phải,” Thorin nói.
“Còn Thrain, bố ngươi, đã bỏ đi vào ngày hai mươi mốt tháng Tư, đến hôm thứ Năm vừa qua là tròn một trăm năm, và suốt từ đó tới nay ngươi chưa hề gặp mặt…”
“Đúng, đúng,” Thorin nói.
“Chà, bố ngươi đã đưa cho ta cái này để giao lại cho ngươi; mà nếu ta đã lựa chọn thời gian và cách thức riêng để trao nó thì ngươi khó có thể trách ta được, vì phải tính đến bao khó khăn vất vả ta mới tìm được ngươi. Bố ngươi đã không nhớ nổi tên mình khi lão đưa cho ta tờ giấy này, mà lão cũng chẳng hề nói tên ngươi cho ta biết; vì vậy nghĩ đi nghĩ lại thì ta cho là mình phải được ca ngợi và cảm tạ kia đấy! Đây, nó đây này,” lão vừa nói vừa trao tấm bản đồ cho Thorin.
“Ta không hiểu,” Thorin nói. Bilbo cảm thấy mình cũng đã muốn nói như vậy. Lời giải thích của lão dường như chẳng giải thích được gì.
“Ông nội ngươi,” lão phù thủy nói thật chậm rãi và dứt khoát, “trao tấm bản đồ này cho con trai lão để đảm bảo an toàn trước khi lão tới vùng mỏ Moria. Bố ngươi đã ra đi để thử vận may cùng tấm bản đồ đó sau khi ông nội ngươi bị giết; và lão đã kinh qua bao cuộc mạo hiểm thuộc loại gian nan nhất, song lão chưa hề đến gần Quả Núi. Làm sao mà lão bị bắt thì ta không biết, song ta đã thấy lão bị cầm tù trong ngục tối của lão Thầy Đồng.”
“Thế ông làm cái quái gì ở đó?” Thorin run bắn lên hỏi, và tất cả mấy gã lùn đều rùng mình kinh hãi.
“Ngươi không phải bận tâm. Ta đang tìm hiểu một số việc, như thường lệ; mà công việc lần đó thật vô dựng mà tôi vừa mới mô tả cho các bạn, và rõ ràng đã ổn định cuộc cùng nguy hiểm. Thậm chí ta, Gandalf, cũng chỉ kịp thoát thân. Ta tìm cách cứu bố ngươi, nhưng đã quá muộn. Lão bị mất trí và lú lẫn, hầu như đã quên hết tất cả trừ tấm bản đồ và cái chìa khóa.”
“Bọn ta đã thanh toán xong lũ yêu tinh ở Moria từ lâu rồi,” Thorin nói; “giờ bọn ta phải lo liệu với lão Thầy Đồng đây.”
“Đừng có ngu xuẩn! Lão ta là một kẻ thù có quyền năng vượt xa tất cả những người lùn gộp lại, nếu như họ có thể tập hợp lại một lần nữa từ khắp bốn phương trên thế giới. Điều duy nhất mà bố ngươi mong muốn là con trai lão hãy đọc tấm bản đồ và sử dụng chiếc chìa khóa. Lão rồng và Quả Núi là những nhiệm vụ quá lớn đối với ngươi đấy!”
“Hay lắm, hay lắm!” Bilbo nói, và bỗng nhiên lại nói thật to.
“Hãy nghe[4] cái gì?” tất cả vừa hỏi vừa lập tức quay cả lại về phía anh chàng, còn anh chàng thì bối rối đến mức đã trả lời, “Nghe cái điều mà tôi sắp phải nói ra ấy!”
“Cái gì chứ?” họ hỏi lại.
“Ồ, tôi muốn nói là các vị nhất định phải đi về hướng Đông và quan sát xung quanh thật kỹ. Rốt cuộc là có một cái Cửa Hông, và lũ rồng đôi khi phải ngủ, tôi cho là như vậy. Nếu các vị ngồi trên bậc cửa đủ lâu, tôi dám chắc là các vị sẽ nghĩ ra một điều gì đó. Thôi được, các vị không thấy à, tôi nghĩ trong một đêm mà chúng ta bàn bạc thế là quá lâu rồi, chắc các vị hiểu ý tôi đấy. Các vị định ngủ nghê thế nào để còn lên đường sớm và còn bao nhiêu là việc nữa! Tôi sẽ đãi các vị một bữa điểm tâm ngon lành trước khi các vị ra đi.”
“Trước khi chúng ta ra đi, ta cho rằng ý cậu định nói thế,” Thorin nói. “Cậu chẳng phải là anh chàng kẻ trộm đó sao? Mà ngồi rình trên bậc cửa không phải là công việc của cậu à, đó là chưa kể đến việc vào bên trong cửa nữa chứ? Nhưng ta đồng ý về việc ngủ nghê và bữa điểm tâm đấy. Ta thích dùng sáu quả trứng cùng món giăm bông khi bắt đầu một chuyến đi: ốp la ấy chứ không phải chần nước sôi đâu đấy, mà cậu nhớ đừng làm rách miếng trứng nhé.”
Sau khi những chú lùn khác gọi các món điểm tâm mà chẳng có lấy một lời “xin vui lòng” (điều này khiến Bilbo rất bực mình), tất cả bọn họ đều đứng dậy. Anh chàng Hobbit phải dọn chỗ ngủ cho cả bọn, phải sử dụng tất cả phòng trống rồi kê ghế đẩu và sofa làm giường, cắt đặt tất cả bọn họ đâu vào đấy rồi sau đó mới trở về cái giường nhỏ bé của mình, rất mệt mỏi và chẳng vui vẻ chút nào. Duy có một điều anh chàng đã quyết tâm thực hiện, đó là chẳng cần bận tâm dậy thật sớm để nấu bữa điểm tâm chết tiệt cho những kẻ kia làm gì. Cái tính cách của dòng họ Took đang mòn dần, và lúc này anh chàng không thật dám chắc là mình có tham gia vào bất kỳ chuyến đi nào khi trời sáng hay không.
Trong lúc nằm trên giường anh chàng có thể nghe thấy Thorin vẫn còn đang tự nghêu
ngao cho mình nghe trong gian phòng ngủ đẹp nhất ở bên cạnh:
Tít trên dãy núi mù sương lạnh lẽo
Tới những hầm sâu và những hang xưa
Chúng ta phải lên đường, trước rạng đông,
Để giành lại kho vàng của chúng ta đã từ lâu quên lãng.
Bilbo đi ngủ mà những câu hát đó cứ văng vẳng bên tai, nó khiến anh chàng mơ những giấc mơ rất khó chịu. Khi anh chàng thức giấc thì trời đã sáng bạch từ lâu.
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.