The Hobbit

Chương VII – NƠI TẠM TRÚ KỲ LẠ



Sáng hôm sau Bilbo tỉnh giấc cùng ánh mặt trời buổi sớm. Anh chàng nhảy bật dậy để xem đồng hồ và đi đặt siêu nước – và phát hiện ra mình đâu có ở nhà. Thế là anh chàng ngồi xuống và ước gì được đánh răng rửa mặt sạch sẽ mà không được. Anh chàng chẳng thực hiện được cả hai việc đó, mà cũng chẳng có trà, chẳng có bánh mì nướng và thịt xông khói để ăn điểm tâm, chỉ có thịt cừu và thịt thỏ nguội ngắt. Và sau đó anh chàng đã phải sẵn sàng cho một cuộc khởi hành mới.

Lần này anh chàng được phép trèo lên lưng một chú đại bàng và bám chặt lấy chỗ giữa hai cánh. Gió thổi ào ào trên đầu, và anh chàng nhắm nghiền mắt lại. Các chú lùn đang hét chào từ biệt và hứa sẽ đền ơn Đại Bàng Chúa nếu họ có cơ hội, và mười lăm con chim lớn vụt bay lên từ sườn núi. Mặt trời vẫn còn ở sát đường chân trời phía Đông. Buổi sáng mát mẻ, sương mù giăng đầy các thung lũng lớn nhỏ và ôm quanh những đỉnh đồi. Bilbo hé một mắt ra nhìn, thấy rằng bầy chim đã ở trên cao tít và mặt đất ở tít xa, còn các dãy núi thì đang lùi dần mãi về phía sau. Anh chàng lại nhắm mắt và níu chặt hơn nữa.

“Đừng véo!” chú đại bàng nói. “Cậu không cần phải nhát như thỏ thế, ngay cả khi nom cậu khá giống một chú thỏ đấy. Sáng hôm nay trời đẹp và ít gió. Còn gì tuyệt vời hơn là bay nữa?”

Bilbo những muốn nói, “Tắm nước nóng và sau đó ăn một bữa điểm tâm muộn trên bãi cỏ”; song anh chàng nghĩ bụng chẳng nói gì cả thì hơn, và hai bàn tay nới lỏng ra chút ít.

Một lúc lâu sau hẳn bầy chim đại bàng đã nhìn thấy điểm đến của mình, thậm chí từ tít tắp trên cao, bởi chúng bắt đầu lượn xuống thấp theo những vòng xoáy trôn ốc lớn. Chúng cứ lượn như thế một lúc lâu, và cuối cùng anh chàng hobbit lại mở mắt ra. Mặt đất đã gần hơn rất nhiều, phía dưới họ là cây cối nom giống như cây sồi và cây du, và một vùng thảo nguyên mênh mông với một dòng sông chảy ngang qua. Nhưng từ mặt đất, ngay tại nơi dòng sông uốn lượn quanh co, lại trồi lên một tảng đá lớn, gần như một quả đồi bằng đá, giống như một tiền đồn cuối cùng của dãy núi phía xa, hoặc một tảng đá đồ sộ do một gã khổng lồ của những gã khổng lồ quẳng xuống bình nguyên từ cách đó hàng dặm.

Bầy chim đại bàng nhanh chóng lần lượt sà xuống tảng đá này cho các hành khách

của mình trèo xuống.

“Thượng lộ bình an!” chúng kêu to, “dù các bạn đi bất kỳ nơi đâu thì những cái tổ cũng chờ đón các bạn khi cuộc hành trình kết thúc!” Đó là câu nói lịch sự thông dụng của loài đại bàng.

“Cầu cho gió nâng đôi cánh các bạn ở nơi mặt trời lướt qua và vầng trăng dạo bước,” Gandalf đáp, lão biết câu trả lời thích hợp.

Và thế là họ chia tay. Tuy vài ngày sau đó Đại Bàng Chúa trở thành Vua của tất cả các loài chim và đội vương miện vàng, còn mười lăm tướng lĩnh của lão thì đeo vòng cổ bằng vàng (làm bằng số vàng mà các chú lùn đã tặng), Bilbo chẳng bao giờ gặp lại chúng nữa, ngoại trừ cái lần thấy họ ở trên cao và xa lắc trong trận chiến của Năm Đạo Quân. Song vì trận chiến đó xảy ra tại phần cuối của truyện này nên ngay bây giờ chúng ta sẽ không nói thêm gì về nó nữa.

Có một chỗ bằng phẳng trên đỉnh quả đồi đá và một con đường mòn với nhiều bậc dẫn xuống dòng sông. Tại đó những phiến đá phẳng lớn bắc ngang qua một quãng sông cạn dẫn tới vùng đồng cỏ bên kia dòng nước. Có một cái hang nhỏ (một cái hang thoáng đãng, nền lổn nhổn những sỏi) ở chân bậc thang và gần cuối quãng sông cạn đầy đá phẳng. Đoàn người tập hợp tại đây và bàn bạc về những việc phải làm.

“Ta luôn mong được thấy tất cả các vị an toàn (nếu có thể) sau khi vượt qua dãy núi kia,” lão phù thủy nói, “và nay nhờ giám sát tốt và may mắn, ta đã thực hiện được điều đó. Quả thật là lúc này chúng ta đã vượt sang phía Đông xa hơn nhiều so với quãng đường mà ta dự định cùng đi với các vị, bởi suy cho cùng thì đây không phải là cuộc mạo hiểm của ta. Ta có thể sẽ lại ghé thăm các vị trước khi nó hoàn toàn kết thúc, nhưng trong thời gian này ta có công việc thúc bách khác cần phải lo liệu.”

Các chú lùn rên rỉ và nom rất thiểu não, còn Bilbo thì khóc rớt nước mắt. Trước đó họ đã bắt đầu nghĩ rằng Gandalf sẽ tham gia từ đầu chí cuối và sẽ luôn có mặt để giúp họ thoát khỏi những khó khăn. “Ta sẽ không biến mất ngay lúc này,” lão nói. “Ta có thể cho các vị một hoặc hai ngày nữa. Có lẽ ta có thể giúp các vị thoát khỏi cảnh ngộ hiện nay, và bản thân ta cũng cần được giúp đỡ đôi chút. Chúng ta không có đồ ăn, không hành lý và không ngựa cưỡi; và các vị không biết mình đang ở đâu. Bây giờ ta có thể nói cho các vị biết điều đó. Các vị vẫn còn cách vài dặm về phía Bắc con đường mòn mà lẽ ra chúng ta đã đi, nếu như khi trước chúng ta không vội vã rời khỏi con đèo trên núi. Rất ít người sinh sống ở những vùng này, trừ phi họ đã đến đây kể từ sau cái lần ta đi xuôi con đường này lần cuối, cách đây khoảng ba năm. Nhưng ta biết một

nhân vật quan trọng, người đó ở không xa đây. Nhân Vật Quan Trọng đó đã làm những bậc trên cái đồi đá – mà ông ấy gọi là Đồi Carrock, ta tin là thế. Ông ấy không hay tới đây, tuyệt nhiên không đến vào ban ngày, và có đợi ông ấy cũng chẳng ích gì. Thực ra đợi như thế sẽ rất nguy hiểm. Chúng ta phải đi tìm gặp ông ấy; và nếu mọi việc diễn ra suôn sẻ tại cuộc gặp gỡ này, ta nghĩ mình sẽ ra đi và sẽ chúc các vị giống như lời những chú chim đại bàng “thượng lộ bình an, dù các vị đi bất kỳ nơi đâu!”

Họ khẩn khoản xin lão đừng bỏ họ mà đi. Họ biếu lão vàng bạc châu báu, song lão không chịu thay đổi ý định. “Chúng ta sẽ gặp lại! Chúng ta sẽ gặp lại!” lão nói, “và ta nghĩ mình đã kiếm được một ít vàng của các vị rồi – khi mà các vị giành lại được nó từ tay lão rồng.”

Sau đó họ không cầu xin nữa. Rồi họ cởi quần áo xuống tắm sông. Quãng sông này nông, nước trong vắt và đầy những đá. Rồi họ sưởi nắng cho khô người, khi ấy mặt trời đã tỏa sáng rực rỡ và ấm áp, họ thấy tỉnh táo, tuy mình mẩy còn đau, và hơi đói. Chẳng bao lâu sau, họ lội qua quãng sông cạn (cõng theo anh chàng hobbit), rồi bắt đầu hành quân qua đồng cỏ xanh biếc, xuôi theo những hàng sồi cành lá vươn dài cùng những cây du cao vút.

“Mà sao lại gọi cái đồi đá ấy là Carrock nhỉ?” Bilbo hỏi trong lúc sóng bước cạnh lão phù thủy.

“Ông ấy gọi nó là Đồi Carrock, bởi carrock là cái từ ông ấy dùng để đặt tên cho nó. Ông ấy gọi tất cả những gì giống quả đồi ấy là carrock, nhưng quả đồi này là Đồi Carrock bởi vì đó là quả đồi duy nhất gần nhà ông ấy và ông ấy biết rõ về nó.”

“Ai đặt tên cho nó? Ai biết rõ về nó ạ?”

“Cái Nhân Vật Quan Trọng mà ta đã nói đến ấy – một con người tuyệt vời. Tất cả các vị phải tỏ ra lịch sự khi ta giới thiệu các vị. Ta sẽ giới thiệu từ từ, hai vị một, ta nghĩ thế; và các vị phải cẩn thận, đừng để ông ấy tức giận, nếu không thì có trời mà biết chuyện gì sẽ xảy ra. Khi tức giận ông ấy có thể rất đáng sợ, song nếu được vừa ý thì ông ấy tử tế ra phết. Tuy nhiên ta vẫn cảnh báo các vị là ông ấy dễ nổi giận lắm đấy.”

Các chú lùn đã xúm cả lại khi họ nghe thấy lão phù thủy nói với Bilbo như thế. “Có phải đó là cái người mà ông sắp sửa dẫn chúng tôi đến gặp bây giờ không?” họ hỏi. “Ông không thể kiếm được một người nào đó dễ tính hơn à? Ông nên giải thích rõ ràng hơn một chút có phải tốt hơn không?” – và vân vân.

“Phải, tất nhiên là người đó rồi! Không, ta không thể! Và ta đã giải thích kỹ lưỡng rồi

mà,” lão phù thủy cáu kỉnh trả lời. “Nếu các vị muốn biết nhiều hơn, thì ông ấy tên là Beorn. Ông ấy rất khỏe, và ông ấy là một người có thể thay da đổi lốt.

“Gì kia! Một người bán lông thú, một kẻ gọi những con thỏ là da thỏ, khi mà hắn chưa biến chúng thành lông sóc à?” Bilbo hỏi.

“Trời ơi, không, không, KHÔNG, KHÔNG!” Gandalf nói. “Muốn sống muốn tốt thì đừng có ngốc nghếch, cậu Baggins à; và nhân danh tất cả những điều kỳ diệu, đừng có đả động đến cái từ người bán lông thú lần nữa chừng nào mà cậu ở cách nhà ông ấy trong vòng một trăm dặm đấy, cũng đừng đề cập đến tấm thảm, áo choàng tay, khăn quàng lông, bao tay, không cả bất kỳ từ nào tai hại như thế! Ông ấy là một người có thể thay da đổi lốt mà. Ông ấy thay đổi bộ da của mình: đôi khi ông ấy là một con gấu đen khổng lồ, đôi khi ông ấy là một người to lớn khỏe mạnh có bộ tóc đen với đôi cánh tay đồ sộ và một bộ râu tuyệt đẹp. Ta không thể kể thêm gì với các vị nữa, ngần ấy hẳn cũng đủ rồi. Một số người bảo rằng ông ấy xuất thân từ bầy gấu lớn thời xa xưa đã sinh sống ở dãy núi này trước khi bọn khổng lồ tới. Người khác lại bảo rằng ông ấy là con cháu của những người đầu tiên sinh sống ở vùng này trước khi lão rồng Smaug hay những con rồng khác đến, và trước khi bọn yêu tinh tiến vào những quả đồi ở miền Bắc xa xôi. Ta không dám chắc, song ta cho rằng câu chuyện cuối cùng là xác thực. Ông ấy không phải loại người để đặt vấn đề nghi vấn.

“Dù sao đi nữa thì ông ấy chẳng thích thú cái gì ngoài bản thân mình. Ông ấy sống trong một rừng sồi và có một ngôi nhà gỗ lớn; và vì là người, ông ấy nuôi gia súc và ngựa, chúng cũng thật kỳ lạ như bản thân ông. Chúng làm việc cho ông và trò chuyện cùng ông. Ông không thịt chúng; cũng chẳng săn bắt hoặc ăn thịt động vật hoang dã. Ông có các tổ ong và nuôi những loài ong to lớn và hung dữ, và ông sống chủ yếu bằng kem và mật ong. Bởi là gấu, ông đi khắp mọi nơi. Có lần ta nhìn thấy ông thui thủi một mình trên đỉnh Đồi Carrock vào ban đêm mà ngắm vầng trăng đang ngả về phía Dãy Núi Mù Sương, và ta nghe tiếng ông gầm lên bằng ngôn ngữ của loài gấu: ‘Rồi sẽ đến ngày bọn chúng bỏ mạng và ta sẽ trở lại!’ Vì vậy ta tin rằng bản thân ông đã từng từ dãy núi đó mà đến nơi này.”

Bilbo và những chú lùn lúc này phải suy nghĩ về rất nhiều điều, và họ không hỏi thêm câu nào nữa. Trước mặt họ đường còn dài mà lại phải cuốc bộ. Họ nặng nhọc lê bước, hết lên dốc lại xuống thung. Trời bỗng rất nóng. Thỉnh thoảng họ nghỉ dưới những gốc cây, và khi đó Bilbo cảm thấy đói đến mức có thể ăn cả quả đấu, nếu như có quả nào đủ chín để mà rụng xuống mặt đất.

Đến giữa buổi chiều thì họ để ý thấy những khoảng đất đầy hoa bắt đầu xuất hiện,

toàn những loài hoa giông giống nhau cùng mọc, như thể chúng được trồng vậy. Đặc biệt là có cỏ ba lá, những vạt cỏ ba lá mào gà, cỏ ba lá màu tím rung rinh trong gió, và những dải đất rộng phủ kín cỏ ba lá trắng lùn ngát mùi mật ong. Có tiếng vù vù và vo ve trong không khí. Những con ong đang bận rộn khắp nơi. Mà ong đến là to! Từ trước đến giờ Bilbo chưa hề nhìn thấy cái gì giống như thế.

“Nếu một con mà đốt mình,” anh chàng nghĩ bụng, “hẳn người mình sẽ lại béo lên như cũ!”

Chúng to hơn ong bắp cày. Những con đực to hơn ngón tay cái của các bạn, to hơn rất nhiều, còn những dải màu vàng trên cái mình đen sẫm của chúng thì ánh lên như vàng rực rỡ.

“Chúng ta sắp đến nơi rồi,” Gandalf nói. “Chúng ta đang ở rìa những bãi nuôi ong của ông ấy đấy.”

Một lát sau họ tới một vành đai những cây sồi cổ thụ cao vút, và sau khi qua đó họ tới một bờ giậu cao đầy cây gai, không thể nhìn qua và cũng không thể trườn qua được.

“Các vị nên chờ ở đây thì hơn,” lão phù thủy nói với mấy chú lùn, “và khi nào ta gọi hoặc huýt sáo thì hãy theo ta – các vị sẽ nhìn thấy lối ta đi – nhưng chỉ đi thành từng đôi một, nhớ đấy, lần lượt mỗi đôi cách nhau khoảng năm phút. Bombur to béo nhất nên sẽ lĩnh hai suất, và nên đến một mình sau cùng. Ta đi nào, cậu Baggins! Đâu đó gần lối này có một cái cửa đấy.” Dứt lời, lão tiến bước dọc theo bờ giậu, đem theo cả anh chàng hobbit đang hoảng sợ.

Chẳng bao lâu họ đến một cánh cửa gỗ vừa cao vừa rộng, có thể nhìn thấy bên kia cửa là vườn tược và một cụm nhà gỗ thấp, vài căn lợp mái tranh và làm bằng những khúc gỗ thô: nhà kho, chuồng gia súc, nhà để dụng cụ, một ngôi nhà gỗ dài và thấp. Bên kia bờ giậu lớn, ở mé phía Nam là hàng dãy, hàng dãy tổ ong có chóp loe hình chuông làm bằng rơm. Những con ong khổng lồ đang bay tới bay lui, bò ra bò vào khiến không gian tràn ngập tiếng vo ve ồn ã.

Lão phù thủy và anh chàng hobbit đẩy cánh cửa nặng nề cọt kẹt mở ra rồi bước dọc một con đường rộng rãi về phía ngôi nhà. Vài chú ngựa bóng mượt, lông chải sạch sẽ, lóc cóc chạy đến qua bãi cỏ và chăm chú nhìn họ bằng những bộ mặt rất thông minh, rồi chúng phi nước đại về phía những ngôi nhà.

“Chúng đi báo cho ông ấy biết là có khách lạ đấy,” Gandalf nói.

Chẳng mấy chốc họ tới một cái sân, ba mặt khép kín bởi ngôi nhà gỗ và hai gian chái dài. Ở giữa sân có một thân cây sồi lớn đặt nằm với nhiều cành được cắt rời để bên cạnh. Đứng gần đó là một người đàn ông to lớn như hộ pháp, râu tóc đen rậm, chân tay trần to tướng, bắp thịt nổi cuồn cuộn. Ông ấy vận áo chùng bằng len dài đến đầu gối và đang chống một cây rìu lớn. Mấy chú ngựa đang đứng bên ông và kề mũi vào vai ông.

“Úi! Họ đây rồi!” ông nói với lũ ngựa. “Nom họ không có vẻ nguy hiểm đâu. Tụi bay có thể đi được rồi!” Ông vừa cười vang rất to vừa đặt cây rìu xuống và bước lên phía trước.

“Các người là ai và các người cần gì?” ông cục cằn hỏi, đứng trước mặt họ, cao vượt cả Gandalf. Còn về Bilbo, anh chàng có thể túc tắc đi qua háng ông mà không cần cúi đầu xuống để khỏi chạm vào diềm chiếc áo chùng màu nâu của con người này.

“Tôi là Gandalf,” lão phù thủy nói.

“Ta chẳng hề nghe nói đến cái tên này,” ông làu bàu. “Còn cái anh chàng bé con này là cái gì nhỉ?” ông vừa nói vừa cúi gập xuống và cau đôi mày đen rậm mà nhìn anh chàng hobbit.

“Đó là cậu Baggins, một người hobbit xuất thân từ gia đình tử tế và có thanh danh,” Gandalf nói. Bilbo cúi đầu chào. Anh chàng không có mũ để mà ngả mũ, và thật bối rối vì biết là áo của mình bị mất nhiều khuy. “Tôi là phù thủy,” Gandalf nói tiếp. “Tôi đã nghe nói về ngài, dù rằng ngài chưa nghe nói về tôi; song có lẽ ngài đã nghe nói về người em họ tốt bụng của tôi là Radagast, sống gần ranh giới phía Nam của Rừng U Ám!”

“Phải; không phải một gã xấu xa như các phù thủy, ta tin thế. Trước kia ta thỉnh thoảng có gặp ông ta,” Beorn nói. “Chà, giờ thì ta biết ông là ai, nói cách khác là đã biết ông nói ông là ai. Ông muốn gì?”

“Thú thật, chúng tôi đã mất cả hành lý và suýt nữa thì lạc đường, và rất cần được giúp đỡ, hoặc ít nhất cũng được một lời khuyên. Tôi có thể nói rằng chúng tôi đã trải qua mấy ngày tồi tệ với bọn yêu tinh trên núi.”

“Yêu tinh à?” con người to như hộ pháp nói. Giọng bớt cộc cằn. “Chà, chà, ra là ông đã gặp rắc rối với chúng nó, phải không nào? Thế ông đến gần bọn chúng để làm gì?”

“Chúng tôi không định đến đó. Bọn chúng đã đột kích chúng tôi vào ban đêm tại một

con đèo mà chúng tôi phải đi qua, khi đó chúng tôi vừa ra khỏi các Xứ Sở phía Tây để vào địa phận này – đó là một câu chuyện dài.”

“Thế thì ông nên vào trong nhà và kể ta nghe một chút, nếu như việc đó không tốn mất cả ngày,” con người này vừa nói vừa dẫn đường qua một ô cửa tối om mở từ sân sau vào nhà.

Họ đi theo ông ta, và thấy mình ở trong một hành lang rộng, ở giữa có một cái lò sưởi. Tuy đang mùa hè, vẫn có một bếp lửa cháy rừng rực, khói bốc lên những rui xà ám đen để tìm lối thoát ra ngoài qua một lỗ hổng trên mái nhà. Họ đi qua cái hành lang mờ tối này, chỉ được chiếu sáng nhờ lò sưởi và lỗ hổng phía trên, rồi qua một cánh cửa nhỏ hơn và bước vào một hàng hiên có mái được chống bằng cột trụ là những thân cây nguyên chiếc. Hàng hiên này nhìn về hướng Nam, ấm áp và tràn ngập ánh mặt trời đang ngả về phía Tây chênh chếch chiếu vào và đổ ánh vàng rực rỡ lên khu vườn đầy hoa trải dài đến tận những bậc lên xuống.

Tại đây họ ngồi vào những chiếc tràng kỷ bằng gỗ trong lúc Gandalf bắt đầu kể chuyện, còn Bilbo thì vừa đu đưa hai cẳng chân vừa ngắm nhìn những bông hoa trong vườn, băn khoăn không hiểu tên chúng là gì, vì từ trước đến giờ anh chàng chưa hề nhìn thấy đến một nửa các loài hoa ở đây.

“Tôi đang cùng qua núi với một hai người bạn…” lão phù thủy nói.

“Hai à? Ta chỉ thấy có một, mà lại là một anh chàng nhỏ bé nữa,” Beorn nói.

“Ồ, thú thực, tôi không muốn đưa nhiều người của chúng tôi vào làm phiền ngài khi chưa biết rõ là ngài có bận không. Nếu ngài cho phép, tôi sẽ gọi.”

“Cứ tiếp tục, cứ gọi đi!”

Thế là Gandalf huýt một hồi sáo dài chói tai, và ngay sau đó Thorin và Dori đã đi vòng ngôi nhà rồi theo con đường trong khu vườn mà đến, đứng cúi đầu thật thấp trước mặt họ.

“Một hoặc ba, ông định nói như vậy, ta hiểu rồi!” Beorn nói. “Song hai người này không phải là người hobbit, họ là những chú lùn!”

“Thorin Oakenshield, xin phục vụ ngài! Dori xin phục vụ ngài!” hai chú lùn nói và lại cúi đầu xuống.

“Ta không cần sự phục vụ của các vị, cảm ơn,” Beorn nói, “song ta cho rằng các vị cần được ta giúp đỡ đấy. Ta không thích những chú lùn lắm; nhưng nếu ông đúng là Thorin (con trai của Thrain, cháu của Thror, ta nghĩ vậy), và các bạn của ông là người đáng trọng, và các vị là kẻ thù của bọn yêu tinh và không định giở trò tinh quái ở vùng đất của ta, thì các vị đang làm gì vậy, nhân tiện ta xin hỏi?”

“Họ đang trên đường tới thăm xứ sở của tổ tiên, mãi tít phía Đông bên kia Rừng U Ám,” Gandalf nói xen vào, “và hoàn toàn do tình cờ mà chúng tôi có mặt ở vùng đất của ngài thôi. Trong khi đang vượt qua Đèo Thượng, nơi này lẽ ra đã đưa chúng tôi tới con đường ở phía Nam xứ sở của ngài, thì chúng tôi bị bọn yêu tinh độc ác tấn công – như tôi vừa toan kể ngài nghe hồi nãy…”

“Vậy thì cứ kể tiếp đi!” Beorn nói, ông ta chẳng bao giờ tỏ ra lịch sự cả.

“Có một trận bão khủng khiếp; mấy gã khổng lồ xuất hiện và liệng đá tảng, còn chúng tôi thì ẩn nấp trong một cái hang ở đầu con đèo, anh chàng hobbit và tôi cùng dăm người bạn nữa…”

“Ông gọi hai là dăm à?”

“Ồ, không. Thực ra là còn hơn hai.”

“Họ ở đâu? Bị giết, bị ăn thịt, hay đã trở về nhà rồi?”

“Ồ, không. Có vẻ như khi tôi huýt sáo ban nãy, họ đã không vào hết. Họ nhút nhát, tôi nghĩ thế. Ngài biết đấy, chúng tôi rất ngại rằng ngài sẽ phải tiếp đãi bọn người khá đông chúng tôi.”

“Cứ tiếp tục đi, huýt sáo lần nữa đi! Dường như ta đã đồng ý mở tiệc khoản đãi rồi đấy, thêm một hai người cũng chẳng khác gì nhiều lắm,” Beorn làu bàu.

Gandalf huýt sáo lần nữa; nhưng Nori và Ori đã có mặt ở đó hầu như trước khi lão ngừng lại, bởi chắc các bạn còn nhớ, trước đó Gandalf đã dặn bọn họ cứ năm phút lại vào từng đôi một.

“Xin chào!” Beorn nói. “Các vị đến khá nhanh đấy – vừa rồi các vị ẩn nấp ở đâu? Nào, các anh chàng hình nộm của ta!”

“Nori xin phục vụ ngài, Ori xin…” hai chú lùn bắt đầu nói; nhưng Beorn đã ngắt lời họ.

“Cảm ơn các vị! Khi cần đến sự giúp đỡ của các vị thì ta sẽ đề nghị. Hãy ngồi xuống đi, để ta tiếp tục nghe câu chuyện này đã, kẻo đến giờ ăn tối vẫn chưa hết chuyện đấy.”

“Chúng tôi vừa thiêm thiếp ngủ,” Gandalf nói tiếp, “thì một kẽ nứt ở cuối hang mở ra; bọn yêu tinh xuất hiện và bắt mất anh chàng hobbit, mấy chú lùn và đàn ngựa của chúng tôi.”

“Đàn ngựa à? Các vị làm nghề gì – một gánh xiếc lưu động à? Hay các vị đang chở rất nhiều hàng hóa? Hay là ông luôn gọi sáu là một đàn?”

“Ồ, không! Thực ra số ngựa nhiều hơn sáu con, bởi chúng tôi gồm hơn sáu người – à mà, hai người nữa đây rồi!” Đúng lúc đó Balin và Dwalin xuất hiện và cúi thật thấp đầu chào đến nỗi râu của họ quét cả xuống sàn đá. Thoạt đầu, con người to lớn ấy chau mày, nhưng họ cố hết sức tỏ ra vô cùng lễ phép, và cứ gật đầu lia lịa, vừa khom lưng vừa cúi đầu và ve vẩy những chiếc mũ trùm trước đầu gối (theo đúng kiểu cách của giống người lùn), cho tới khi ông ta thôi không cau mày nữa mà bật cười khoái trá: nom họ thật khôi hài.

“Gánh hát, đúng thật,” ông nói. “Một gánh hát cừ khôi đấy. Mấy anh chàng vui vẻ của ta vào đi, mà các vị tên gì nhỉ! Ta không cần sự phục vụ của các vị ngay bây giờ, chỉ cần biết tên thôi; và sau đó hãy ngồi xuống và đừng có ve vẩy nữa!”

“Balin và Dwalin,” hai chú lùn nói, không dám tỏ ra bực mình, và ngồi phịch xuống sàn nhà trông có vẻ hơi ngạc nhiên.

“Bây giờ lại kể tiếp đi!” Beorn nói với lão phù thủy.

“Tôi vừa kể đến đâu rồi nhỉ? Ồ, phải rồi – tôi đã không bị bắt. Tôi đã giết một hai gã yêu tinh bằng một tia chớp…”

“Hay lắm!” Beorn lầm bầm. “Thế thì là phù thủy cũng có ích đôi chút đấy”.

“… rồi lẻn vào bên trong trước khi kẽ nứt khép lại. Tôi lần theo hành lang chính, ở đó nhung nhúc yêu tinh. Gã Yêu Tinh Chúa có mặt ở đó cùng với ba bốn mươi tên lính gác có vũ trang. Tôi thầm nghĩ ‘ngay cả khi bọn họ không bị xích với nhau đi nữa thì một tá người làm sao có thể để chống lại số đông như thế?’“

“Một tá! Đây là lần đầu tiên ta nghe nói tám được gọi là một tá đấy. Hay là ông vẫn còn vài hình nộm nữa chưa chui ra khỏi hộp!”

“Ồ, đúng thế, hình như có một cặp nữa đang ở đây – đó là Fili và Kili, tôi nghĩ thế,” Gandalf nói, bởi lúc này hai chú lùn ấy đã xuất hiện, vừa đứng mỉm cười vừa cúi đầu chào.

“Ngần ấy là đủ rồi đấy!” Beorn nói. “Hãy ngồi xuống và giữ yên lặng! Giờ thì kể tiếp đi, Gandalf!”

Thế là Gandalf tiếp tục câu chuyện của mình suốt tới đoạn xảy ra trận chiến đấu trong bóng tối, việc phát hiện ra cái cổng bên dưới, và nỗi kinh hoàng của họ khi thấy anh chàng Baggins bị lạc. “Chúng tôi điểm quân số và không thấy anh chàng hobbit. Chỉ còn lại có mười bốn người chúng tôi.”

“Mười bốn! Đây là lần đầu tiên ta nghe nói mười bớt một còn mười bốn đấy! Ý ông định nói là chín, hoặc giả ông chưa kể hết ta nghe tất cả những cái tên trong đoàn người của ông rồi.”

“Ồ, cố nhiên là ngài chưa nhìn thấy Oin và Gloin. Mà chao ôi! Họ đến đây rồi. Tôi hy vọng ngài sẽ thứ lỗi cho họ vì đã làm phiền.”

“Ồ, cho tất cả bọn họ vào đi! Nhanh lên! Nào, hai vị này, hãy ngồi xuống đi! Nhưng mà Gandalf hãy nghe đây, thậm chí lúc này chúng ta cũng mới chỉ có ông và mười chú lùn cùng cái anh chàng hobbit bị lạc ấy. Vậy là chỉ có mười một (cộng với một người bị lạc) chứ làm gì có mười bốn, trừ phi là cách đếm của giới phù thủy khác với người thường. Song bây giờ cứ kể tiếp câu chuyện đi.” Beorn chỉ biểu lộ cảm xúc của mình

ở mức độ có thể kìm nén được, song ông thật sự đã bắt đầu cảm thấy rất thích thú. Các bạn biết đấy, vào thời xa xưa ông đã từng biết đúng cái vùng núi mà Gandalf đang miêu tả. Ông gật gù và làu bàu khi nghe nói về việc anh chàng hobbit tái xuất hiện và về việc bọn họ trượt xuống trong vụ đá lở và về lũ sói trong rừng.

Khi Gandalf kể đến đoạn họ trèo lên cây và lũ sói phục quanh bên dưới, ông đứng dậy và vừa rảo bước loanh quanh vừa lẩm bẩm, “Giá mà lúc đó ta có mặt ở đấy! Hẳn ta đã cho lũ chúng ăn đòn hơn cả những quả pháo kia rồi!”

“Ồ,” Gandalf nói, rất vui mừng thấy rằng câu chuyện của lão đang gây một ấn tượng tốt đẹp, “tôi đã gắng hết sức mình. Chúng tôi ở đó, trong lúc lũ sói điên cuồng phía dưới và khu rừng bắt đầu cháy bừng bừng ở nhiều chỗ thì bọn yêu tinh từ trên các quả đồi ào xuống và phát hiện ra chúng tôi. Chúng khoái chí la hét và hát những bài hát giễu cợt chúng tôi. Mười lăm chú chim trên năm cây thông…”

“Trời ơi!” Beorn làu bàu, “Đừng có phịa ra là bọn yêu tinh không biết đếm nhé.

Chúng biết đấy. Mười hai không phải là mười lăm và bọn chúng biết chứ.”

“Tôi cũng biết như vậy. Còn có Bifur và Bofur nữa kia. Nãy giờ tôi vẫn chưa dám mạo muội giới thiệu họ, mà họ có mặt cả đây rồi.”

Bifur và Bofur bước vào. “Còn tôi nữa!” Bombur vừa thở hổn hển vừa vênh váo chạy lên từ phía sau. Anh chàng này to béo và cũng đang giận dữ vì bị bỏ lại sau cùng. Anh chàng không chịu đợi năm phút mà lập tức theo hai chú lùn kia.

“Chà, bây giờ có mặt mười lăm người các vị rồi; mà bọn yêu tinh thì biết đếm, ta cho rằng đây là toàn bộ những người đã ở trên cây. Có lẽ giờ đây chúng ta có thể kết thúc câu chuyện này mà không còn bị gián đoạn thêm lần nào nữa.” Khi đó anh chàng Baggins hiểu rằng Gandalf đã tài tình đến dường nào. Những sự gián đoạn quả đã khiến Beorn chú ý hơn đến câu chuyện, và câu chuyện đã khiến ông không lập tức đuổi những chú lùn như những kẻ ăn mày đáng ngờ. Nếu như có thể tránh được thì ông chẳng bao giờ mời ai vào nhà mình. Ông rất ít bạn bè, mà họ lại ở cách đó rất xa; và ông cũng không bao giờ mời hơn hai người trong số đó tới nhà mình một lần. Giờ thì ông có mười lăm kẻ xa lạ đang ngồi dưới hàng hiên nhà mình!

Cho tới lúc lão phù thủy kể xong câu chuyện, rồi kể tới cuộc giải cứu của bầy đại bàng và chuyện họ đã được đưa tới Đồi Carrock như thế nào, thì mặt trời đã lặn sau đỉnh Dãy Núi Mờ Sương, hắt những bóng dài trong sân nhà lão Beorn.

“Một câu chuyện rất hay!” ông nói. “Chuyện hay nhất mà bao lâu rồi ta mới được nghe. Nếu tất cả bọn ăn mày đều kể được một câu chuyện hay như vậy thì chúng có thể thấy ta ân cần hơn đấy. Có thể là các vị bịa ra cả thôi, dĩ nhiên rồi, song nhờ câu chuyện ấy mà các vị vẫn xứng đáng được hưởng một bữa tối. Chúng ta hãy ăn một chút gì nào.”

“Vâng, xin cảm ơn!” cả bọn họ đồng thanh nói. “Cảm ơn ngài rất nhiều!”Bên trong hành lang lúc này khá tối. Beorn vỗ tay một cái, bốn chú ngựa bạch nhỏ đẹp đẽ lúc cúc chạy vào cùng dăm con chó to mình dài lông xám. Beorn nói với chúng điều gì đó bằng một ngôn ngữ kỳ cục giống như âm thanh của loài vật được chuyển thành tiếng nói. Chúng lại chạy ra ngoài và chẳng mấy chốc đã quay lại với, miệng ngậm bó đuốc, rồi chúng châm đuốc vào lò sưởi và cắm lên các giá đỡ thâm thấp trên các cây cột của hành lang quanh lò sưởi trung tâm. Lũ chó có thể đứng bằng hai chân sau khi chúng muốn, và dùng hai chân trước bưng đồ vật. Chúng nhanh chóng mang ra ván mễ từ những bức tường bên cạnh rồi đem kê gần bếp lò.

Rồi có tiếng kêu be-be-be! và vài con cừu trắng như tuyết theo sau một con cừu đực đen như than bước vào. Một con mang tấm khăn trải bàn trắng có thêu hình động vật

ở diềm; những con khác mang trên tấm lưng rộng của mình khay đựng bát đĩa, dao và thìa gỗ, các thứ này được lũ chó nhanh chóng đem bày trên mấy cái bàn kê trên mễ. Bàn nào cũng rất thấp, thấp đến mức ngay cả Bilbo cũng có thể ngồi vào thật thoải mái. Một chú ngựa nhỏ đẩy hai chiếc tràng kỷ thấp phủ nệm cói rộng rãi, chân ghế ngắn mập, dành cho Gandalf và Thorin, còn ở đầu kia bàn chú ta kê một chiếc ghế bành lớn màu đen của Beorn, cũng thấp và được phủ nệm như vậy (ông ngồi trên đó, hai chân duỗi dài dưới gầm bàn). Trong hành lang của mình, ông chỉ có mấy chiếc ghế này, và có lẽ ông đã cho đóng chúng thấp như bàn để thuận tiện cho những con vật tuyệt vời kia hầu hạ ông. Những người còn lại ngồi ở đâu? Họ không bị bỏ quên đâu. Mấy chú ngựa nhỏ khác vừa bước vào vừa lăn theo những đoạn thân cây hình tang trống đã được bào nhẵn đánh bóng, và thấp đến mức Bilbo có thể ngồi lên; thế là chẳng mấy chốc tất cả bọn họ đã ngồi vào bàn của Beorn, đã rất nhiều năm hành lang này chưa từng thấy một cuộc hội họp nào như vậy.

Tại đó họ đã ăn một bữa ăn khuya, hay bữa tối gì đó, mà họ chưa từng được hưởng kể từ khi rời Ngôi Nhà Ấm Cúng Cuối Cùng ở phía Tây và chào tạm biệt Elrond. Ánh lửa từ những bó đuốc và từ lò sưởi bập bùng quanh họ, còn ở trên bàn thì đặt hai cây nến cao bằng sáp ong màu đỏ. Suốt trong lúc họ ăn, bằng một giọng trầm sang sảng, Beorn kể chuyện về vùng hoang vu phía bên này dãy núi, và đặc biệt là về khu rừng tăm tối nguy hiểm trải dài trước mặt họ suốt từ phía Bắc tới phía Nam, cách họ một ngày đi ngựa và chặn đường sang phía Đông của họ tới Rừng U Ám khủng khiếp.

Các chú lùn vừa chú ý lắng nghe vừa lắc lắc râu, vì họ biết rằng chẳng bao lâu nữa họ sẽ phải mạo hiểm vào khu rừng ấy, và rằng sau dãy núi vừa rồi thì đây là nơi nguy hiểm tệ hại nhất mà họ phải vượt qua trước khi tới thành trì của lão rồng. Khi ăn xong bữa tối, họ bắt đầu kể những câu chuyện của riêng mình, song Beorn có vẻ như đang buồn ngủ nên chẳng để tai nghe. Họ nói nhiều nhất về vàng bạc, châu báu và về việc chế tác các đồ vật của nghề thợ rèn, mà Beorn lại không tỏ ra quan tâm đến những thứ như vậy; chẳng có món đồ nào bằng vàng hay bạc trong hành lang của ông, và ngoài mấy con dao ra thì chỉ có vài món đồ bằng kim loại mà thôi.

Họ ngồi ở bàn rất lâu với những chiếc bát gỗ đầy rượu mật ong. Bên ngoài đêm đã về khuya. Đống lửa ở giữa hành lang được tiếp thêm củi còn những bó đuốc thì tắt đi, và họ vẫn ngồi đó trong ánh lửa nhảy múa, phía sau là những cột nhà cao vút, mờ tối ở trên đỉnh, giống như những cây rừng. Dù có phải ma thuật hay không, Bilbo như nghe thấy một âm thanh giống tiếng gió giữa các cành cây lao xao trong đám rui mè, và tiếng cú kêu. Chẳng mấy chốc anh chàng bắt đầu ngủ gà ngủ gật và những giọng nói

dường như trở nên xa xăm cho tới khi anh chàng giật mình tỉnh giấc.

Trước đó cánh cửa lớn đã cọt kẹt mở ra và đóng sầm lại. Beorn không còn ở đó. Các chú lùn đang ngồi khoanh chân trên sàn hành lang quanh lò sưởi và bắt đầu hát. Một vài đoạn giống như thế này, nhưng còn nhiều đoạn khác nữa, và tiếng hát của họ cứ thế vang lên một lúc lâu:

Gió thổi trên Bãi thạch thảo héo khô,

mà cây rừng không hề rung rinh lá:

nơi đó ngày đêm bóng đen bao phủ,

và những loài hiểm độc bên dưới lặng lẽ lần mò.

Từ trên núi gió đổ về lạnh lẽo,

giống thủy triều, gió gào thét lan xa;

rừng than van và cành cây rên rỉ,

lá rụng đầy trên mặt đất mùn.

Gió thổi từ phía Tây sang Đông;

trong khu rừng gió hoàn toàn câm lặng,

qua bãi lầy gió rít róng thét gào

tiếng sáo vù vù thả sức cuốn bay.

Cỏ lao xao, những chùm lá mềm rạp xuống,

đám lau sậy xạc xào – gió cứ ào qua

xôn xao mặt hồ dưới bầu trời lãnh đạm

nơi các đám mây đuổi nhau bị xé tan tành.

Gió thổi qua Quả Núi Cô Đơn trơ trọi

và lướt nhanh trên hang ổ lão rồng:

nơi đó nằm trơ những tảng đá mòn đen kịt

và khói bay mờ mịt khắp không trung.

Gió rời vạn vật và vút bay đi

giữa trời đêm mênh mông như biển cả.

Trăng căng buồm ra khơi trong gió mạnh,

những vì sao nhen ánh lửa bập bùng.

Bilbo lại bắt đầu ngủ gật. Bỗng nhiên Gandalf đứng dậy.

“Đã đến lúc chúng ta đi ngủ rồi đấy,” lão nói, “chúng ta, chứ ta không nghĩ bao gồm cả Beorn đâu. Ở hành lang này chúng ta có thể nghỉ ngơi an toàn, song ta cảnh báo để tất cả các vị đừng quên những gì Beorn nói trước khi bỏ đi: các vị không được ra ngoài cho tới khi mặt trời mọc, nếu không thì nguy hiểm đấy.”

Bilbo thấy mấy chiếc giường đã được dọn sẵn dọc hành lang trên một thứ bệ nổi giữa những cây cột và bức tường bao. Anh chàng được dành một tấm nệm cỏ nhỏ và những chiếc chăn len. Anh chàng chui vào chăn khoan khoái, dù lúc đó đang là tiết hạ. Lò sưởi cháy lom đom và anh chàng ngủ thiếp đi. Tuy nhiên anh chàng lại tỉnh giấc trong đêm: lửa trong lò sưởi lúc này đã tàn, chỉ còn dăm cục than hồng; mấy chú lùn và Gandalf đang ngủ, cứ nghe tiếng thở của họ thì biết; một đốm sáng trắng in trên sàn hành lang, do vầng trăng trên cao ghé dòm qua lỗ thông khói ở mái nhà để lại.

Bên ngoài có tiếng gầm gừ, và một âm thanh giống như tiếng một con vật to lớn nào đó đang cào cửa. Bilbo băn khoăn không biết tiếng động đó là gì, liệu đó có thể là do Beorn với hình dạng do ma thuật mà có gây ra không, và liệu ông ta có bước vào trong bộ dạng gấu mà giết họ không. Anh chàng chui đầu sâu dưới những tấm chăn và cuối cùng lại ngủ thiếp đi dù đang rất sợ hãi.

Lúc anh chàng tỉnh dậy thì trời đã sáng bảnh mắt. Một chú lùn vấp phải Bilbo trong góc khuất chỗ anh chàng nằm và lộn nhào đánh bịch một cái từ trên bệ xuống sàn. Đó là Bofur, và chú ta còn đang càu nhàu về chuyện ấy thì Bilbo mở mắt ra.

“Dậy đi, đồ đại lãn!” chú ta nói, “không thì sẽ hết cả phần điểm tâm của cậu đấy.”

Bilbo bật ngay dậy. “Điểm tâm!” anh chàng kêu lên. “Đồ điểm tâm đâu nhỉ?”“Hầu hết đã ở trong bụng bọn ta rồi,” mấy chú lùn khác vừa trả lời vừa đi loanh quanh trong hành lang; “nhưng phần còn lại thì ở ngoài hiên kia kìa. Bọn ta đã đi khắp nơi tìm kiếm Beorn suốt từ lúc mặt trời mọc mà chẳng thấy tung tích của ông ấy ở đâu hết, dù vừa ra khỏi hành lang bọn ta đã thấy bữa điểm tâm dọn sẵn rồi.”

“Gandalf ở đâu nhỉ?” Bilbo vừa hỏi vừa nhanh chóng bỏ đi tìm cái gì đó để ăn.

“Ồ, ông ấy ra ngoài quanh quẩn đâu đó,” họ bảo anh chàng. Nhưng ngày hôm đó, suốt cho tới khi trời tối Bilbo chẳng thấy tăm hơi lão phù thủy đâu. Đúng lúc mặt trời sắp lặn thì lão bước vào hành lang, nơi anh chàng hobbit cùng mấy chú lùn đang ăn tối, do các con vật tuyệt vời của Beorn phục dịch, cũng như đã được phục dịch như vậy suốt cả ngày hôm đó. Còn về Beorn, họ không nhìn thấy và cũng chẳng nghe thấy ông từ đêm hôm trước, và họ bắt đầu hoang mang.

“Chủ nhà của chúng ta đâu rồi, còn ông đã đi đâu suốt cả ngày vậy?” cả bọn họ đều kêu lên.“Mỗi lần chỉ hỏi một câu thôi – mà sau bữa ăn tối mới được hỏi. Suốt từ bữa điểm tâm đến giờ ta chưa được miếng nào vào bụng đâu đấy.”

Cuối cùng Gandalf cũng đẩy đĩa và bình của mình đi – lão đã ăn cả hai ổ bánh mì (với hàng đống bơ, mật ong và kem đặc) và uống ít nhất cũng đến một lít rượu mật ong – rồi lão lấy tẩu ra hút. “Ta sẽ trả lời câu hỏi thứ hai trước,” lão nói, “nhưng mà trời ơi! Nơi này thật tuyệt vời cho những vòng khói đấy!” Quả thật suốt một lúc lâu họ không moi được tin tức gì của lão, lão quá bận rộn thả những vòng khói cho chúng luồn lách quanh các cây cột trong hành lang, biến đổi chúng thành đủ loại hình thù màu sắc, và cuối cùng cho chúng đuổi nhau qua lỗ hổng trên mái nhà. Hẳn là nhìn từ bên ngoài thì chúng rất kỳ lạ, cứ từng vòng theo nhau phụt lên không trung, nào màu lục, màu lam, màu đỏ, màu xám bạc, màu vàng, màu trắng; nào vòng to, vòng nhỏ; nào vòng nhỏ luồn lách qua vòng to, kết hợp với nhau thành hình số tám, rồi bay vút về phía xa như một đàn chim.

“Cả ngày hôm nay ta do theo những vết chân gấu,” cuối cùng lão nói. “Đêm qua hẳn đã có một cuộc họp thường kỳ của bầy gấu ở bên ngoài nhà này. Ta sớm nhận ra Beorn không thể nào tạo ra tất cả những dấu chân ấy: có quá nhiều vết chân, mà kích cỡ cũng lại khác nhau. Ta phải nói là đã có gấu nhỏ, gấu lớn, gấu bình thường và những con gấu khổng lồ, tất cả nhảy múa ở bên ngoài suốt từ lúc trời tối cho đến gần sáng. Chúng đến hầu như từ khắp các ngả, trừ từ phía Tây bên kia dòng sông, hướng Dãy Núi. Chỉ có một bộ vết chân đi vào phía Dãy Núi – không có vết chân nào đi ra, chỉ có những vết chân từ đây đi vào mà thôi. Ta lần theo những dấu chân này tới Đồi

Carrock. Tại đó những dấu chân biến vào dòng sông, mà nước thì quá sâu và chảy xiết nên ta không thể sang bờ bên kia được. Như các vị còn nhớ, đi từ bờ bên này tới Đồi Carrock qua quãng sông nông thì khá dễ dàng, nhưng bờ bên kia là một vách đá dựng đứng trên một dòng nước xoáy. Ta đã phải cuốc bộ hàng dặm đường mới tìm được một quãng sông rộng nhưng khá nông để lội và bơi qua, rồi lại phải đi ngược trở lại hàng dặm đường để tìm lại những vết chân kia. Khi đó thì đã quá muộn nên ta không thể lần theo xa hơn nữa. Những vết chân ấy tiến thẳng về phía rừng thông trên triền phía Đông của Dãy Núi Mù Sương, nơi mà chúng ta đã có một buổi liên hoan thú vị với lũ Sài Lang vào đêm hôm kia ấy. Và giờ thì ta nghĩ mình cũng đã trả lời câu hỏi thứ nhất của các vị rồi,” Gandalf ngừng lời, và lão ngồi yên lặng một lúc lâu.

Bilbo cho rằng mình hiểu ý lão phù thủy định nói gì. “Chúng ta sẽ làm gì,” anh chàng kêu lên, “nếu như ông ấy dẫn cả lũ Sài Lang và bọn yêu tinh đến tận đây? Tất cả chúng ta sẽ bị bắt và bị giết! Tôi tưởng ông đã bảo rằng ông ấy không phải là bạn của chúng kia mà.”

“Ta quả đã bảo thế. Đừng có mà ngớ ngẩn! Cậu đi ngủ đi thì hơn, trí khôn của cậu đang buồn ngủ đấy.”

Anh chàng hobbit cảm thấy khá thất vọng, và bởi dường như chẳng có việc gì để mà làm, anh chàng đi ngủ thật; và trong lúc các chú lùn còn đang ca hát, anh chàng ngủ thiếp đi, đầu óc nông cạn của anh chàng vẫn còn băn khoăn về Beorn cho tới khi mơ thấy hàng trăm con gấu đen đang nhảy những điệu vũ chậm chạp và nặng nề quanh sân sau dưới ánh trăng. Thế là anh chàng tỉnh giấc khi mọi người còn đang ngủ, và lại nghe thấy những tiếng sột soạt, xô đẩy, khụt khịt và gầm gừ như lần trước.

Sáng hôm sau tất cả bọn họ được Beorn đích thân đánh thức. “Thế là tất cả các vị vẫn còn ở đây!” ông nói. Ông nhấc anh chàng hobbit lên và cười to: “Vẫn chưa bị lũ Sài Lang, bọn yêu tinh hoặc bầy gấu độc ác ăn thịt”; rồi ông ấn mạnh vào áo gi lê của anh chàng Baggins một cách rất cợt nhả. “Chú thỏ con này đang béo đẹp ra nhờ bánh mì và mật ong đây,” ông tủm tỉm cười. “Hãy đi ăn thêm chút nữa đi!”

Thế là tất cả bọn họ cùng đi ăn điểm tâm với ông. Beorn bỗng trở nên rất vui nhộn; thật ra ông dường như vô cùng hóm hỉnh và khiến bọn họ cười vang bằng những câu chuyện khôi hài; bọn họ không phải băn khoăn nhiều về việc ông đã đi đâu về hoặc vì sao ông lại tử tế với họ đến vậy, bởi đích thân ông đã kể cho họ nghe. Ông đã sang bên kia sông rồi nhanh chóng đi ngược lên dãy núi – qua chuyện này các bạn có thể biết là dù thế nào thì ông cũng có thể di chuyển rất nhanh trong lốt gấu. Tại khoảng rừng thưa bị cháy rụi của lũ sói ông đã sớm phát hiện ra rằng một phần câu chuyện

của họ là đúng sự thực; mà ông còn phát hiện ra nhiều hơn thế: ông tóm được một gã Sài Lang và một tên yêu tinh đang lang thang trong rừng. Từ hai gã này ông đã có được thông tin: bọn yêu tinh tuần tra cùng lũ Sài Lang vẫn còn đang lùng sục tìm các chú lùn và chúng đang giận sôi lên vì cái chết của gã Yêu Tinh Chúa, vì cái mũi bị bỏng rộp của gã sói đầu đàn và vì nhiều thủ hạ chủ chốt của gã bị ngọn lửa của lão phù thủy thiêu chết. Khi bị ông ép, chúng đã kể ông nghe rất nhiều, song ông đoán rằng còn điều độc ác hơn những gì đã xảy ra này, và rằng một cuộc tấn công lớn của toàn bộ đội quân yêu tinh cùng lũ đồng minh chó sói vào các vùng đất khuất trong bóng núi có thể chẳng bao lâu nữa sẽ được tiến hành để tìm các chú lùn, hoặc để trả thù những con người và sinh vật sinh sống ở đó, và những ai mà chúng cho là đang chứa chấp họ.

“Thật là một câu chuyện hay, câu chuyện của các vị ấy,” Beorn nói, “nhưng bây giờ thì ta còn thích nó hơn bởi vì ta chắc chắn câu chuyện đó có thật. Các vị phải thứ lỗi cho ta vì đã không tin lời các vị. Nếu sinh sống gần bìa Rừng U Ám, các vị sẽ không tin lời một ai mà các vị không biết rõ như anh em mình đâu. Vì thế, ta chỉ có thể nói rằng ta đã vội vã trở về nhà nhanh hết mức để thấy các vị vẫn an toàn, và để giúp đỡ các vị bất kỳ điều gì có thể. Sau vụ này ta sẽ có thiện cảm hơn với các chú lùn đấy. Họ đã giết gã Yêu Tinh Chúa, đã giết gã Yêu Tinh Chúa!” ông khoái trá cười vang.

“Ngài đã làm gì với tên yêu tinh và gã Sài Lang nọ?” Bilbo bỗng hỏi.

“Ra mà xem!” Beorn nói, và họ theo ông đi vòng quanh ngôi nhà. Cái đầu yêu tinh được bêu bên ngoài cổng và bộ da sói được đóng đinh trên một thân cây ngay gần đó. Beorn là một địch thủ dữ tợn. Nhưng lúc này ông là bạn họ, và Gandalf cho rằng nên khôn ngoan mà kể cho ông nghe toàn bộ câu chuyện của họ và lý do của chuyến đi để có thể tranh thủ được tối đa sự giúp đỡ của ông.

Đây là những gì ông hứa sẽ giúp họ. Ông sẽ cấp ngựa nhỏ cho từng người trong bọn họ, và một con ngựa cho Gandalf, để họ tiếp tục cuộc hành trình tới khu rừng, và ông sẽ chất thực phẩm lên lưng ngựa để họ đủ dùng hàng tuần lễ, tất cả đều sẽ được đóng gói để có thể mang theo thật dễ dàng – nào là quả hạch, bột mì, những vại hoa quả khô được gắn xi, nào là những hũ đất nung màu đỏ đựng mật ong và bánh được nướng hai lần để giữ được lâu mà chỉ ăn một chút họ cũng có thể đi được một quãng đường dài. Cách làm loại bánh này là một trong những bí quyết của ông; trong bánh có mật ong, cũng như trong hầu hết các món ăn của ông, khiến chúng ăn rất ngon miệng tuy có gây khát nước. Ông bảo họ sẽ không cần phải mang theo nước khi còn ở bên này khu rừng bởi có nhiều sông suối dọc đường đi. “Nhưng con đường qua Rừng U Ám thì tối tăm, nguy hiểm và khó đi đấy,” ông nói. “Không dễ gì kiếm được nước,

thức ăn cũng vậy. Thời gian này chưa phải mùa quả hạch (dù rằng thật ra trước khi các vị tới phía bên kia khu rừng thì mùa ấy đã đến rồi lại đi từ lâu), mà quả hạch thì hầu như là thứ quả duy nhất mọc ở đó có thể ăn được. Trong khu rừng ấy cỏ cây muông thú hoang dại đều bí hiểm, kỳ lạ và độc ác. Ta sẽ cấp cho các vị bầu da thú để mang nước, và ta sẽ cho các vị vài bộ cung tên. Nhưng ta không chắc các vị có thể kiếm được bất kỳ cái gì đủ lành trong Rừng U Ám để mà ăn hoặc uống. Ta biết ở đó có một dòng suối nước đen chảy xiết qua lối mòn. Các vị không nên uống và cũng không nên tắm suối; bởi ta nghe nói dòng suối ấy chở bùa mê, rất có thể nó sẽ làm các vị buồn ngủ và quên lãng. Và trong bóng tối lờ mờ ở nơi đó ta không cho rằng các vị sẽ bắn được bất kỳ thứ gì, dù lành hay độc, mà không phải đi ra khỏi đường mòn. Các vị KHÔNG ĐƯỢC ĐI CHỆCH ĐƯỜNG MÒN vì bất kỳ lý do nào.

“Ta chỉ có thể khuyên các vị ngần ấy điều. Qua bìa rừng rồi thì ta không thể giúp các vị nhiều đâu. Các vị phải dựa vào vận may và lòng can đảm của mình cùng số lương thực mà ta gửi các vị thôi. Khi các vị đến cửa rừng, ta phải đề nghị các vị trả lại hết ngựa cho ta. Song ta chúc tất cả các vị thành công, và nhà của ta mở rộng cửa, nếu một khi nào đó các vị lại trở về trên con đường này.”

Họ cảm ơn ông, dĩ nhiên, bằng những cái cúi đầu và lướt mũ trùm sát đất, kèm rất nhiều câu “Xin phục vụ ngài, chủ nhân của những hành lang gỗ rộng lớn!” Nhưng khi nghe lời cảnh báo đầy căng thẳng của ông, họ bỗng nhụt bớt hăng hái và tất cả đều cảm thấy cuộc phiêu lưu này nguy hiểm hơn họ tưởng rất nhiều, và rằng trong suốt thời gian đó, ngay cả khi họ vượt qua hết thảy những gian nguy, thì lão rồng vẫn đang chờ họ ở cuối con đường.

Suốt buổi sáng hôm ấy họ bận rộn chuẩn bị. Không lâu sau buổi trưa, họ cùng ăn với Beorn lần cuối, và sau bữa ăn họ nhảy lên lưng ngựa của ông, rồi vừa luôn miệng chào tạm biệt vừa phóng nhanh qua cổng nhà ông.

Ngay khi rời khỏi bờ giậu cao ở mé Đông các khu đất được rào kín của ông, họ rẽ sang hướng Bắc rồi sau đó lại chếch hướng Tây Bắc. Theo lời khuyên của ông, họ không đi về phía con đường chính dẫn vào rừng ở phía Nam vùng đất của ông nữa. Nếu họ vượt qua đèo thì con đường mòn hẳn đã dẫn họ tới một dòng suối chảy xuống từ dãy núi, nối liền với dòng Sông Cái cách Đồi Carrock hàng dặm về phía Nam. Tại đó có một quãng sông hơi cạn mà nếu như có ngựa họ sẽ vượt qua được, và sau đó là một đường nhỏ dẫn tới bìa rừng và tới đầu con đường cũ dẫn vào rừng. Song Beorn đã cảnh báo họ rằng thời gian này lũ yêu tinh thường hay đi đường đó, trong khi bản thân con đường rừng này, ông nghe nói, cũng mọc đầy cỏ dại ở đầu phía Đông và dẫn tới những đầm lầy không thể vượt qua mà vốn dĩ từ lâu đã không còn đường đi lối lại

nữa. Lối ra ở phía Đông thì xưa nay vẫn nằm xa tít về phía Nam Quả Núi Cô Đơn, nên khi đã vượt qua rừng họ sẽ vẫn phải đi bộ một quãng đường dài đầy gian khổ về phía Bắc. Ở mạn Bắc Đồi Carrock rìa Rừng U Ám trải dài đến gần bờ dòng Sông Cái, và cho dù tại đó Dãy Núi cũng gần hơn, Beorn vẫn khuyên họ đi lối này; bởi tại một nơi cách đó vài ngày đi ngựa theo hướng chính Bắc từ Đồi Carrock là lối vào một con đường nhỏ ít người biết đến xuyên qua Rừng U Ám hầu như dẫn thẳng về Quả Núi Cô Đơn.

“Bọn yêu tinh,” Beorn đã nói, “sẽ không dám vượt qua Sông Cái suốt một trăm dặm về phía Bắc Đồi Carrock, mà cũng chẳng dám đến gần nhà của ta – ngôi nhà được bảo vệ tốt về ban đêm! – nhưng ta cần phải phóng ngựa thật nhanh; bởi nếu bọn chúng sắp mở cuộc tấn công thì chúng sẽ vượt sông xuống phía Nam và sục sạo khắp bìa rừng để chặn đường các vị, mà lũ Sài Lang lại chạy nhanh hơn bầy ngựa nhỏ kia. Tuy nhiên các vị cứ đi về hướng Bắc thì an toàn hơn, dù như thế có vẻ như các vị quay trở lại gần pháo đài của chúng hơn; bởi đó là điều mà chúng không ngờ nhất, và chúng sẽ phải hành quân xa hơn để bắt các vị. Các vị hãy lên đường ngay bây giờ càng nhanh càng tốt!”

Vì vậy mà lúc này họ lặng lẽ ruổi ngựa, phi nước đại mỗi khi mặt đất dưới chân biến thành những thảm cỏ mịn màng, với dãy núi mờ mịt phía tay trái, và xa xa là bóng dáng của dòng sông cùng cây cối bên bờ cứ mỗi lúc một thêm gần. Khi họ khởi hành, mặt trời chỉ vừa mới ngả về Tây, và suốt từ đó cho đến tối nắng vàng trải khắp nơi trên vùng đất họ đi. Thực khó lòng mà nghĩ đến bọn yêu tinh đang đuổi theo phía sau, và khi đã bỏ xa ngôi nhà của Beorn nhiều dặm đường thì họ lại bắt đầu trò chuyện, ca hát và quên đi con đường rừng tối tăm trải dài phía trước. Nhưng vào lúc chiều tối khi ánh ngày bắt đầu nhập nhoạng và các đỉnh núi hiện lên đầy hăm dọa trong ánh hoàng hôn thì họ hạ trại và cử một người canh gác, còn hầu hết bọn họ ngủ không yên vì những giấc mơ đầy tiếng hú của lũ sói đang săn đuổi và tiếng la hét của bọn yêu tinh.

“Bọn yêu tinh,” Beorn đã nói, “sẽ không dám vượt qua Sông Cái suốt một trăm dặm về phía Bắc Đồi Carrock, mà cũng chẳng dám đến gần nhà của ta – ngôi nhà được bảo vệ tốt về ban đêm! – nhưng ta cần phải phóng ngựa thật nhanh; bởi nếu bọn chúng sắp mở cuộc tấn công thì chúng sẽ vượt sông xuống phía Nam và sục sạo khắp bìa rừng để chặn đường các vị, mà lũ Sài Lang lại chạy nhanh hơn bầy ngựa nhỏ kia. Tuy nhiên các vị cứ đi về hướng Bắc thì an toàn hơn, dù như thế có vẻ như các vị quay trở lại gần pháo đài của chúng hơn; bởi đó là điều mà chúng không ngờ nhất, và chúng sẽ phải hành quân xa hơn để bắt các vị. Các vị hãy lên đường ngay bây giờ càng nhanh càng tốt!”

Vì vậy mà lúc này họ lặng lẽ ruổi ngựa, phi nước đại mỗi khi mặt đất dưới chân biến thành những thảm cỏ mịn màng, với dãy núi mờ mịt phía tay trái, và xa xa là bóng dáng của dòng sông cùng cây cối bên bờ cứ mỗi lúc một thêm gần. Khi họ khởi hành, mặt trời chỉ vừa mới ngả về Tây, và suốt từ đó cho đến tối nắng vàng trải khắp nơi trên vùng đất họ đi. Thực khó lòng mà nghĩ đến bọn yêu tinh đang đuổi theo phía sau, và khi đã bỏ xa ngôi nhà của Beorn nhiều dặm đường thì họ lại bắt đầu trò chuyện, ca hát và quên đi con đường rừng tối tăm trải dài phía trước. Nhưng vào lúc chiều tối khi ánh ngày bắt đầu nhập nhoạng và các đỉnh núi hiện lên đầy hăm dọa trong ánh hoàng hôn thì họ hạ trại và cử một người canh gác, còn hầu hết bọn họ ngủ không yên vì những giấc mơ đầy tiếng hú của lũ sói đang săn đuổi và tiếng la hét của bọn yêu tinh.

“Chà, Rừng U Ám đây rồi!” Gandalf nói. “Khu rừng lớn nhất trong các khu rừng ở thế giới phương Bắc. Ta hy vọng là các vị đều thích dáng vẻ bề ngoài của nó. Bây giờ các vị phải gửi trả những chú ngựa con tuyệt vời mà các vị đã mượn thôi.”

Các chú lùn những muốn càu nhàu phản đối việc này, nhưng lão phù thủy bảo rằng họ là những gã khờ. “Beorn không ở xa đây lắm như các vị tưởng đâu, mà dù sao thì các vị cũng phải giữ lời hứa, bởi ông ấy là một người hay thù hận ghê lắm. Cậu Baggins tinh mắt hơn các vị, chắc rằng hằng đêm các vị đã không nhìn thấy một con gấu to tướng vẫn đồng hành với chúng ta hoặc ngồi ở tít xa dưới ánh trăng mà quan sát lều trại của chúng ta. Không phải chỉ để bảo vệ và dẫn đường cho các vị, mà còn để mắt đến những chú ngựa nhỏ kia nữa. Beorn có thể là bạn các vị, nhưng ông ấy lại yêu mến những con vật của mình như con cái vậy. Các vị không hiểu được ông ấy đã tốt bụng biết chừng nào khi để những người lùn cưỡi lên chúng mà phóng xa và nhanh đến vậy đâu, và cũng chẳng hiểu chuyện gì sẽ xảy ra với các vị nếu các vị cố đem chúng vào trong khu rừng này đâu.”

“Thế còn con ngựa ông đang cưỡi thì sao?” Thorin nói. “Sao không thấy ông nói gì tới việc trả lại?”

“Ta không nói, bởi ta sẽ không trả.”

“Thế lời hứa của ông thì thế nào?”

“Ta sẽ lo liệu việc này. Ta sẽ không trả con ngựa này, ta sẽ cưỡi nó!”

Khi ấy họ biết Gandalf sắp bỏ mặc họ ngay tại bìa Rừng U Ám, và họ tuyệt vọng.

Nhưng họ có nói gì thì lão cũng không chịu đổi ý.

“Chúng ta đã bàn kỹ việc này từ trước rồi, khi mà chúng ta đặt chân lên Đồi Carrock ấy,” lão nói. “Bàn cãi nữa mà làm gì. Như ta đã nói với các vị, ta có chút việc cấp bách

ở mãi tận phía Nam; mà hiện ta đã bị trễ rồi, vì phải mất thời gian với các vị đấy. Chúng ta có thể sẽ gặp lại nhau trước khi mọi việc kết thúc, và dĩ nhiên cũng có thể không gặp nhau nữa. Điều đó phụ thuộc vào vận may của các vị, lòng can đảm và sự sáng suốt của các vị; và ta sẽ cử cậu Baggins đi cùng các vị. Từ trước ta đã bảo các vị rằng cậu ta có nhiều phẩm chất hơn là các vị tưởng, và chẳng bao lâu nữa các vị sẽ thấy điều đó thôi. Vậy thì hãy hăng hái lên nào Bilbo và đừng có rầu rĩ thế. Hãy hăng hái lên nào Thorin cùng các bạn! Rốt cuộc thì đây là cuộc viễn hành của các vị. Hãy nghĩ đến kho báu ở hồi kết, và hãy quên khu rừng cùng lão rồng, dù sao đi nữa thì chúng ta còn ở bên nhau cho đến sáng ngày mai mà!”

Sáng hôm sau lão vẫn nói những điều ấy. Vì vậy lúc này chẳng có việc gì để làm ngoài việc đổ đầy nước vào những cái bầu bằng da tại một dòng suối trong mà họ tìm được gần cửa rừng, và tháo các món đồ từ trên lưng mấy chú ngựa con xuống. Họ phân phát các gói đồ thật công bằng, dù Bilbo cho là phần của mình nặng quá thể, và chẳng hề thích thú chút nào trước cái viễn cảnh phải cõng trên lưng tất cả những thứ đó mà lê bước suốt bao dặm đường xa.

“Cậu đừng có lo!” Thorin nói. “Nó sẽ nhẹ đi sớm lắm đấy. Ta cho rằng chẳng bao lâu nữa tất cả chúng ta đều mong phần của mình nặng hơn, khi mà đồ ăn bắt đầu cạn dần.”

Cuối cùng họ nói lời tạm biệt với mấy chú ngựa con, và chúng quay đầu trở về nhà. Chúng hoan hỉ lóc cóc chạy đi, chừng như rất vui mừng được vẫy đuôi lại phía bóng tối của Rừng U Ám. Trong lúc chúng chạy đi, Bilbo có thể cam đoan rằng một con vật nào đó giống như con gấu đã rời khỏi bóng tối của cây rừng và lóng ngóng bước nhanh theo chúng.

Lúc này, Gandalf cũng chào tạm biệt. Bilbo ngồi bệt xuống đất, cảm thấy rất buồn và ước ao được ngồi bên lão phù thủy trên con ngựa cao lớn của lão. Anh chàng mới chỉ vào rừng sau bữa điểm tâm (một bữa rất xoàng), mà buổi sáng ở đó dường như cũng tối như ban đêm và rất kỳ bí: “Một thứ cảm giác rình rập và chờ đợi,” anh chàng tự nhủ.

“Tạm biệt!” Gandalf nói với Thorin. “Và tạm biệt tất cả các vị, tạm biệt! Con đường của các vị bây giờ là xuyên thẳng qua rừng. Đừng đi chệch khỏi con đường đó! – nếu không, chắc chắn mười mươi là các vị sẽ chẳng bao giờ tìm lại được nó nữa và chẳng bao giờ ra khỏi được Rừng U Ám; và khi đó ta không nghĩ rằng ta, hoặc bất kỳ ai

khác, sẽ có ngày gặp lại các vị nữa đâu.”

“Chúng tôi có nhất thiết phải đi qua rừng không?” anh chàng hobbit rên rỉ.

“Có, các vị phải đi qua rừng!” lão phù thủy nói, “nếu các vị muốn sang phía bên kia. Các vị hoặc phải đi qua rừng hoặc phải từ bỏ việc tìm kiếm. Ta sẽ không cho phép cậu rút lui vào lúc này đâu, Baggins ạ. Ta lấy làm xấu hổ vì cậu nghĩ đến việc này. Cậu phải giúp ta trông nom tất cả các chú lùn này đấy,” lão cười to.

“Không! Không!” Bilbo nói. “Tôi không định nói thế. Ý tôi là, có con đường vòng nào không?”

“Có đấy, nếu các vị thích bỏ con đường này mà đi khoảng hai trăm dặm về phía Bắc, và gấp đôi ngần ấy về phía Nam. Mà ngay cả khi ấy các vị cũng sẽ không kiếm được một con đường an toàn đâu. Ở vùng này không có con đường an toàn nào hết. Hãy nhớ là lúc này các vị đang ở Rìa Xứ Hoang Vu, và đi đến chỗ nào các vị cũng sẽ có đủ loại trò vui đấy. Trước khi có thể vòng qua Rừng U Ám ở phía Bắc, các vị đã lọt ngay vào giữa những con dốc của Dãy Núi Xám, ở đó đầy rẫy yêu tinh, ác quỷ thuộc loại tệ hại nhất. Trước khi có thể vòng qua dãy núi đó ở phía Nam, các vị sẽ rơi vào xứ sở của lão Thầy Đồng; mà thậm chí cả đến cậu, Bilbo, cũng không cần ta phải kể chuyện về lão phù thủy hắc ám ấy đâu nhỉ. Ta không khuyên các vị đến bất kỳ đâu gần những nơi mà lão có thể quan sát được từ cái tháp tối tăm của lão! Cứ bám theo con đường rừng mà đi, giữ cho tinh thần luôn hăng hái, hy vọng vào điều tốt đẹp nhất, và nếu thật may mắn thì một ngày nào đó các vị có thể ra khỏi khu rừng và nhìn thấy Đầm Lầy Dài trải rộng phía bên dưới, và bên kia những đầm lầy ấy, ở trên cao về phía Đông, là Quả Núi Cô Đơn nơi lão rồng thân mến sống, tuy rằng ta nghĩ lão không mong chờ các vị đâu.”

“Ông nói như đang động viên ấy nhỉ, “Thorin làu bàu. “Tạm biệt! Nếu không cùng đi với chúng tôi, thì ông nên biến khỏi đây mà đừng nói thêm gì nữa!”

“Thế thì tạm biệt, và thật sự tạm biệt đấy!” Gandalf nói, quay ngựa phi xuống phía Tây. Song lão không thể cưỡng nổi thôi thúc muốn nói lời cuối cùng. Trước khi phóng ra khỏi tầm nghe, lão quay đầu lại và đưa hai tay lên miệng mà gọi họ thật to. Họ nghe thấy tiếng lão truyền đến mờ nhạt, “Tạm biệt! Hãy cư xử cho tốt, bảo trọng – và ĐỪNG ĐI CHỆCH KHỎI CON ĐƯỜNG NÀY!”

Sau đó lão phóng ngựa thật nhanh và chẳng mấy chốc đã khuất dạng. “Ôi, tạm biệt, đi nhé!” các chú lùn càu nhàu, càng giận dữ hơn vì họ thật sự choáng váng khi mất lão. Lúc này phần nguy hiểm nhất của chuyến đi chỉ mới bắt đầu. Mỗi người đều vác trên vai túi đồ nặng nề và bầu da đựng nước, phần được chia của mình, rồi quay lưng lại với cái ánh sáng trải rộng trên các vùng đất bên ngoài mà dấn bước vào trong rừng.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.