The Hobbit
Chương XIV – LỬA VÀ NƯỚC
Bây giờ nếu các bạn, giống như các chú lùn, mong được biết tin tức về lão rồng Smaug thì các bạn lại phải trở về cái buổi tối từ hai hôm trước khi lão đập nát cánh cửa bí mật rồi bay đi trong cơn giận dữ.
Hầu hết người dân ở thị trấn Hồ Esgaroth đều ở trong nhà, bởi gió lạnh thổi về từ phía Đông mờ tối, song một vài người lại đang dạo chơi trên các bờ kè, ngắm nhìn những vì sao tỏa sáng từ các khoảng nước phẳng lặng trên hồ ngay từ lúc chúng lấp lánh trên bầu trời, bởi họ vẫn thường thích như vậy. Từ thị trấn của họ, Quả Núi Cô Đơn bị những ngọn đồi thấp ở phía cuối hồ che khuất gần hết, suốt từ cái lỗ hổng mà Sông Chảy đổ xuống từ phương Bắc chảy qua. Họ chỉ có thể nhìn thấy cái đỉnh cao của nó khi thời tiết đẹp, mà họ cũng hiếm khi ngắm nhìn nó, bởi ngay cả trong ánh sáng ban mai trông nó cũng đầy vẻ hăm dọa và tăm tối. Lúc này nó đã biến mất, bị xóa sạch trong bóng tối.
Bỗng nhiên đỉnh núi lại thấp thoáng hiện ra; một làn ánh sáng rực khẽ chạm vào nó rồi mờ nhạt dần.
“Nhìn kìa!” một người nói. “Lại là ánh sáng ấy đấy! Mấy người lính canh đêm qua bảo rằng nó cứ lóe lên rồi lại mờ dần suốt từ nửa đêm cho tới rạng đông. Có chuyện gì đang xảy ra ở tít trên đó rồi.”
“Có lẽ ông Vua dưới gầm Quả Núi đang đúc vàng,” một người khác nói. “Đã lâu lắm rồi kể từ khi ngài đi về phương Bắc. Đã đến lúc những bài hát kia lại chứng tỏ mình rồi.”
“Ông Vua nào?” một người khác nói, giọng nghiêm nghị. “Cũng có khả năng đó là lửa của lão rồng kẻ cướp, ông Vua duy nhất dưới gầm Quả Núi mà chúng ta từng biết.”
“Cậu lúc nào cũng tiên đoán toàn những chuyện buồn!” những người khác nói. “Hết lụt lội lại đến cá bị nhiễm độc. Hãy nghĩ đến chuyện gì đó vui vẻ đi!”
Ngay lúc ấy một làn ánh sáng lớn xuất hiện tại vùng thấp giữa những quả đồi, và đầu hồ phía Bắc chuyển thành màu vàng rực. “Ông Vua dưới gầm Quả Núi!” họ reo lên. “Của cải của người vàng như mặt trời, bạc trắng của người nhiều như suối nước, các dòng sông của người là những dòng vàng tuôn chảy! Dòng sông đang biến thành vàng từ Quả Núi!” họ la to, và khắp nơi người ta mở cửa sổ, những bàn chân hối hả chạy tới.
Một lần nữa niềm hứng khởi nhiệt tình lại tràn ngập khắp thị trấn. Song anh chàng có giọng nói nghiêm nghị vội vã chạy đi gặp viên Thị trưởng. “Lão rồng sắp đến rồi, tôi không nói bỡn đâu!” anh ta kêu to. “Hãy phá bỏ cây cầu! Hãy sẵn sàng vũ khí!”
Sau đó bỗng tiếng kèn báo động nổi lên, vang vọng dọc các bờ đá. Tiếng reo mừng ngừng bặt và niềm vui chuyển thành nỗi sợ. Vậy là lão rồng đã không gặp họ trong tình trạng hoàn toàn không chuẩn bị.
Sau đó không lâu, tốc độ của lão rồng vút nhanh tới mức họ có thể nhìn thấy lão lao về phía mình như một tia lửa ngày càng lớn và sáng chói hơn, và ngay cả kẻ khờ dại nhất cũng không nghi ngờ rằng những lời tiên đoán kia là sai lầm. Song họ vẫn còn đôi chút thời gian. Mọi thứ thùng, chậu trong thị trấn đều được đổ đầy nước, mọi chiến binh đều được vũ trang, mọi mũi tên và phi tiêu đều sẵn sàng, còn cái cầu bắc vào đất liền thì bị kéo đổ và phá hủy, trước khi lão rồng Smaug khủng khiếp đến gần cùng tiếng gầm rú mỗi lúc một to hơn, và mặt hồ lấp lánh ánh đỏ như lửa dưới đôi cánh vỗ ghê người của lão.
Giữa lúc người ta đang la hét, than khóc và gào thét thì lão đến, lướt tới cây cầu và bị chặn đứng! Cầu đã không còn, mà kẻ thù của lão thì lại ở trên một hòn đảo giữa dòng nước sâu – quá sâu, mờ tối và lạnh lẽo, không hợp sở thích của lão. Nếu lão nhao xuống hồ thì một lượng hơi nước sẽ bốc lên đủ để làm thành màn sương mù che phủ cả vùng đất này suốt mấy ngày; mà cái hồ thì mạnh mẽ hơn lão, nó sẽ khiến lão nguội lạnh trước khi có thể lội qua.
Vừa gầm thét lão vừa lướt trở lại phía trên thị trấn. Một loạt mũi tên đen vọt lên tới tấp như mưa bắn tanh tách trên vẩy rồng và những viên đá quý trên mình lão, rồi phần thân mũi tên bị hơi thở của lão đốt cháy xèo xèo rớt trở lại, đâm bổ xuống hồ. Không một cuộc bắn pháo hoa nào mà các bạn tưởng tượng có thể sánh nổi cảnh tượng đêm ấy. Cùng với tiếng bật dây cung phừng phừng và tiếng kèn đinh tai nhức óc, cơn thịnh nộ của lão rồng bốc cao tột độ, tới mức lão phát điên lên không còn biết gì nữa. Từ trước tới giờ, đã bao năm nay không kẻ nào dám khiêu chiến lão; ngay cả bây giờ lẽ ra họ cũng không dám nếu không có cái anh chàng nói giọng nghiêm nghị kia (tên anh ta là Bard), anh này cứchạy đi chạy lại mà cổ vũ các cung thủ và thúc giục viên Thị trưởng ra lệnh cho họ chiến đấu đến mũi tên cuối cùng.
Lửa phụt ra từ miệng lão rồng. Lão lượn tròn một lát trong khoảng không tít cao trên đầu họ, thắp sáng cả mặt hồ; cây cối bên bờ ánh lên màu đồng và màu máu cùng những cái bóng đen sẫm nhấp nhô nơi chân họ. Sau đó lão lao thẳng xuống qua làn mưa tên, liều lĩnh trong cơn thịnh nộ, chẳng buồn quay hai bên sườn đầy vẩy về phía kẻ thù mà chỉ tìm cách thiêu rụi thị trấn.
Lửa bốc lên từ những mái tranh và các đầu rầm gỗ trong lúc lão ầm ầm lao xuống, lướt qua rồi lại vòng trở lại, dù rằng người ta đã hắt ướt nước lên mọi thứ trước khi lão đến. Một lần nữa hàng trăm bàn tay lại vẩy nước vào bất kỳ chỗ nào bén lửa. Lão rồng lồng lộn quay lại. Một nhát quét đuôi của lão khiến mái Tòa nhà Lớn sụp đổ tan tành. Những ngọn lửa không thể nào dập tắt bốc cao trong đêm. Lão lao xuống một lần rồi lại một lần nữa, và một ngôi nhà rồi lại một ngôi nhà nữa bốc cháy và đổ sụp; vậy mà không một mũi tên nào gây trở ngại cho lão hoặc làm lão đau hơn một con ruồi vùng đầm lầy có thể làm.
Những người đàn ông đã bắt đầu nhảy xuống nước từ mọi phía. Phụ nữ và trẻ em bị dồn lên những chiếc thuyền nặng trĩu ở khu chợ dưới nước. Người ta quẳng vũ khí xuống. Ở cái nơi mà trước đó không lâu cất lên những bài ca xưa về niềm hạnh phúc sắp đến của giống người lùn giờ chỉ còn lại đau buồn và than khóc. Lúc này thì người ta nguyền rủa họ. Bản thân viên Thị trưởng cũng đang chạy tới cái thuyền lớn mạ vàng, hy vọng sẽ chèo thoát thân trong cảnh hỗn loạn. Chẳng mấy chốc toàn bộ thị trấn sẽ vắng ngắt và bị thiêu rụi tới tận mặt nước hồ.
Đó là hy vọng của lão rồng. Bọn chúng cứ lên thuyền hết đi, lão cũng chẳng bận tâm. Lúc ấy lão có thể chơi cái trò săn bắt thú vị, rồi thì đến khi đói khát chúng cũng phải dừng lại một chỗ thôi. Cứ mặc chúng tìm cách vào đất liền, còn lão sẽ sẵn sàng.
Chẳng bao lâu nữa lão sẽ đốt cháy hết các khu rừng dọc bờ hồ, làm héo mọi cánh đồng và bãi chăn thả gia súc. Ngay lúc này lão đang khoái cái trò trêu-chọc-thị-trấn hơn bất kỳ trò nào lão từng chơi suốt nhiều năm trước.
Song vẫn còn một toán cung thủ không rời vị trí giữa những ngôi nhà đang cháy. Thủ lĩnh của họ là Bard, anh chàng có giọng nói và vẻ mặt nghiêm nghị, người mà trước đó đã bị bạn bè buộc tội toàn tiên đoán chuyện buồn như lũ lụt và cá bị nhiễm độc, dù rằng họ biết rõ giá trị và lòng dũng cảm của anh. Anh là hậu duệ của dòng họ Girion, Chúa tể Thung Lũng; vợ con anh từ lâu đã xuôi theo Sông Chảy trốn khỏi cảnh đổ nát. Lúc này anh sử dụng cây cung bằng gỗ thủy tùng và đã bắn hết cả tên, chỉ còn một mũi. Những ngọn lửa ở gần anh. Các bạn anh đang rời bỏ anh. Anh giương cây cung lần cuối.
Bỗng từ trong bóng tối một cái gì đó vỗ cánh bay đến vai anh. Anh giật mình – nhưng đó chỉ là một con chim hét già. Không một chút sợ sệt, nó đậu gần lại anh và đem đến cho anh những tin tức. Thật tuyệt là anh hiểu được ngôn ngữ của nó, cũng nhờ anh thuộc dòng giống của Thung Lũng.
“Khoan đã! Khoan đã!” nó nói với anh. “Trăng sắp lên rồi. Hãy nhằm cái hõm bên ngực trái của lão khi lão bay và lộn mình trên đầu anh ấy!” Và trong lúc Bard đang ngạc nhiên dừng lại thì con chim hét kể cho anh các tin tức tít trên Quả Núi và tất cả những gì nó đã được nghe.
Sau đó Bard kéo dây cung đến tận mang tai. Lão rồng đang lượn vòng trở lại, bay rất thấp, và lúc lão tới thì mặt trăng đã lên khỏi bờ phía Đông tỏa ánh bạc xuống đôi cánh to lớn của lão.
“Mũi tên ơi!” chàng cung thủ nói. “Hỡi mũi tên đen! Ta đã để dành ngươi cho lần bắn cuối cùng. Ngươi chưa bao giờ làm ta thất vọng và ta bao giờ cũng tìm lại ngươi. Ta đã nhận ngươi từ cha ta và cha ta đã nhận ngươi từ thuở xa xưa. Nếu ngươi xuất thân từ các xưởng rèn của vị vua đích thực dưới gầm Quả Núi thì ngay lúc này hãy xuất phát và hãy phóng thật trúng!”
Lão rồng một lần nữa lại nhào xuống thấp hơn bao giờ hết, và lúc lão lộn mình lao xuống, cái bụng lão lấp loáng, những tia sáng rực rỡ của các viên ngọc sáng lên dưới ánh trăng – nhưng có một vùng lại không như thế. Cây cung lớn bật dây. Mũi tên đen vút nhanh từ sợi dây, tìm thẳng đến chỗ lõm ở mé trái lồng ngực lão, nơi chân trước lão dang rộng. Phập, mũi tên cắm vào đó và mất hút, ngập lút cả thân, đà bay của nó thật quá mạnh. Với một tiếng thét khiến người nghe phải điếc tai, cây cối phải đổ nhào và đá phải nứt vỡ, lão rồng Smaug lao vọt lên không trung, lộn nhào rồi từ trên cao đâm sầm xuống thành một đống thảm hại.
Lão rơi ngay giữa thị trấn. Những cơn giãy giụa cuối cùng của lão đập vụn thị trấn thành tàn lửa và tro bụi. Sóng hồ gầm thét xô bờ. Một tầng hơi nước khổng lồ bốc lên, trắng xóa trong cảnh tối tăm bất chợt dưới trăng. Một tiếng rít vang lên tiếng máu chảy cuồn cuộn, và rồi yên lặng. Đó là kết cục của lão rồng Smaug và của thị trấn Esgaroth, nhưng không phải của anh chàng Bard.
Vầng trăng đang tròn dần mỗi lúc một lên cao, và gió lạnh thổi ào ào. Gió xoắn màn khói trắng thành những cột cong cong và những đám mây hối hả rồi thổi chúng về phía Tây khiến chúng tan thành những mảnh tả tơi trên các đầm lầy trước Rừng U Ám. Lúc này có thể thấy những con thuyền rải rác trên mặt hồ, và xuôi theo chiều gió văng vẳng tiếng người dân Esgaroth than thở về thị trấn, về tài sản bị mất và về những ngôi nhà đổ nát. Song họ thật sự cũng có nhiều điều để mà cảm kích, nếu như họ nghĩ về thực tế đó, tuy rằng khó có thể chờ đợi họ nghĩ như vậy ngay lúc này: ba phần tư số thị dân ít nhất cũng đã trốn thoát và còn sống; các khu rừng, cánh đồng, bãi chăn thả và gia súc của họ không bị thiệt hại; còn lão rồng thì đã chết. Những điều đó có ý nghĩa gì thì quả thực họ vẫn chưa nhận thức ra.
Họ tụ tập thành những đám đông sầu não trên bờ hồ phía Tây, run rẩy trong gió lạnh, buông những lời phàn nàn đầu tiên và trút cơn giận dữ lên đầu viên Thị trưởng vì ông này đã rời bỏ thị trấn quá sớm trong lúc một số người vẫn còn sẵn lòng bảo vệ nó.
“Ông ta có thể có đầu óc kinh doanh giỏi – đặc biệt là việc kinh doanh của cá nhân mình,” một vài người lẩm bẩm, “song ông ta chẳng được tích sự gì khi có bất kỳ chuyện nghiêm trọng nào xảy ra!” Và họ ca ngợi lòng dũng cảm của Bard và phát tên cuối cùng mạnh mẽ của anh. “Giá mà anh ấy không bị giết,” tất cả bọn họ đều nói, “chúng ta sẽ tôn anh ấy làm vua. Bard Người Bắn Rồng của dòng họ Girion! Than ôi, anh ấy đã mất rồi!”
Và ngay giữa lúc họ đang trò chuyện, một dáng người cao lớn từ trong bóng tối bước ra. Người anh ta ướt sũng, mái tóc đen đẫm nước xõa xuống mặt và hai bờ vai, và đôi mắt anh ta sáng mãnh liệt.
“Bard không chết đâu!” anh ta kêu to. “Anh ấy đã nhảy xuống hồ ở Esgaroth lúc kẻ thù bị giết. Tôi là Bard của dòng họ Girion đây, tôi là người đã giết lão rồng đây!”
“Vua Bard! Vua Bard!” họ reo lên; song viên Thị trưởng nghiến hai hàm răng đang run lập cập.
“Girion là Chúa tể Thung Lũng, đâu phải là vua của thị trấn Esgaroth,” ông ta nói.
“Tại thị trấn Hồ trước nay chúng ta vẫn bầu ra các thị trưởng trong số những người già và thông thái; và không cam chịu sự cai trị của những kẻ võ biền. Hãy để ‘Vua Bard’ trở về với vương quốc của anh ta – Thung Lũng giờ đây đã được giải phóng nhờ lòng dũng cảm của anh ta rồi, và không có gì ngăn cản anh ta trở về cả. Bất kỳ ai muốn đều có thể đi theo anh ta, nếu như họ thích những tảng đá lạnh ngắt dưới bóng Quả Núi hơn bờ hồ xanh biếc. Người khôn ngoan sẽ ở lại đây cùng chung hy vọng xây dựng lại thị trấn, và sớm muộn rồi cũng sẽ lại được hưởng cảnh thanh bình thịnh vượng.”
“Chúng tôi sẽ theo Vua Bard!” những người ở gần nhất hét lên trả lời. “Chúng tôi đã chán ngấy mấy ông già và những kẻ chỉ thích đếm tiền rồi!” Còn đám người ở xa hơn thì đồng thanh hô vang: “Ủng hộ chàng Cung Thủ, đả đảo bọn tham tiền,” cho tới khi tiếng hò hét vang dội dọc bờ hồ.
“Ta không phải là người đánh giá thấp chàng cung thủ Bard,” viên Thị trưởng thận trọng nói (bởi lúc này Bard đứng rất gần ông ta). “Đêm nay anh ấy đã giành được một vị trí nổi bật trong danh sách những người có đóng góp lớn cho thị trấn; và anh ấy xứng đáng với rất nhiều bài ca bất hủ. Song, vì sao, hỡi dân chúng?” – và đến đây viên Thị trưởng đứng dậy, nói rất to và rõ ràng – “Vì sao ta lại phải nhận tất cả những lời trách móc của các người? Vì lỗi gì mà ta phải bị phế truất? Ai đã khuấy động để lão rồng thức giấc, cho phép ta hỏi? Ai đã nhận những món quà hậu hĩnh và sự giúp đỡ dồi dào của chúng ta và khiến chúng ta tin những bài ca xưa có thể trở thành hiện thực? Ai đã lợi dụng tình cảm ủy mị và những tưởng tượng tức cười của chúng ta? Bọn họ đã gửi thứ vàng gì theo dòng sông để thưởng công cho chúng ta? Lửa rồng và cảnh hoang tàn! Chúng ta sẽ phải đòi ai bồi thường thiệt hại cho chúng ta, và đòi ai phải giúp đỡ các quả phụ và trẻ mồ côi của chúng ta đây?”
Như các bạn thấy, viên Thị trưởng đã thể hiện quan điểm của mình một cách có mục đích. Những lời ông ta nói dẫn đến kết quả là lúc này dân chúng hoàn toàn quên mất
ý định lập một ông vua mới và chuyển cơn giận dữ của mình về phía Thorin cùng các bạn của chú. Từ khắp tứ phía người ta hét lên những lời cáu kỉnh và cay độc; và một vài người trong số những kẻ đã hát to nhất những bài ca xưa lúc này lại đang lớn tiếng kêu rằng các chú lùn đã cố ý đánh thức lão rồng dậy để hại họ.
“Rõ là những kẻ ngốc!” Bard nói, “Sao lại phí lời và nổi giận với những người bất hạnh ấy kia chứ? Chắc chắn là họ đã chết cháy rồi, trước khi lão rồng Smaug tới chỗ chúng ta.” Sau đó, thậm chí trong lúc đang nói, tận sâu trong lòng anh vẫn nghĩ đến cái kho báu huyền thoại của Quả Núi còn nằm đó không người canh gác và vô chủ kia, và anh bỗng lặng thinh. Anh nghĩ đến những lời của viên Thị trưởng, đến Thung Lũng được tái thiết đầy những quả chuông vàng, nếu như anh có thể kiếm được những
người thích hợp.
Cuối cùng anh lại lên tiếng, “Bây giờ không phải là lúc để nói những lời giận dữ, thưa ông Thị trưởng, hoặc để xem xét những kế hoạch thay đổi quan trọng. Có việc cần phải làm. Tôi vẫn phục vụ ông – dù rằng một thời gian sau tôi có thể suy nghĩ lại về những lời ông vừa nói và sẽ lên phía Bắc cùng với bất kỳ ai sẵn lòng đi theo tôi.”
Sau đó anh rảo bước đi phụ giúp sắp xếp các khu trại cũng như chăm sóc những người ốm yếu và những người bị thương. Nhưng viên Thị trưởng quắc mắt nhìn theo khi anh bỏ đi và cứ ngồi lì trên mặt đất. Ông ta suy nghĩ nhiều nhưng lại rất ít nói, trừ phi cần gọi to để quân lính đem bếp lửa và đồ ăn cho mình.
Lúc này đi đến chỗ nào Bard cũng thấy dân chúng sôi nổi bàn tán về cái kho báu khổng lồ hiện không có ai canh giữ kia. Người ta nói đến khoản bồi thường cho tất cả những thiệt hại mà họ sẽ sớm được nhận, và họ sẽ có của ăn của để thừa thãi để mà sắm những đồ đắt tiền của phương Nam; câu chuyện đó khiến họ phấn chấn lên nhiều trong cảnh ngộ hiện tại. Điều đó cũng tốt thôi, bởi đêm đó thật rét buốt và cơ cực. Chỉ có thể xoay xở chỗ ở tạm cho một số người (viên Thị trưởng được một chỗ) và có rất ít thực phẩm (ngay cả viên Thị trưởng cũng bị thiếu). Đêm đó nhiều người bị ốm vì ướt lạnh và buồn phiền, rồi họ chết, dù trước đó họ đã bình an vô sự thoát khỏi đống đổ nát của thị trấn. Những ngày tiếp theo tình trạng bệnh tật và đói khát càng trầm trọng hơn.
Trong thời gian đó Bard giữ vai trò lãnh đạo, anh sắp đặt công việc theo ý mình, tuy rằng vẫn luôn nhân danh viên Thị trưởng; nhiệm vụ cai quản dân chúng và chỉ đạo công việc chuẩn bị nhà cửa và phòng vệ thật là khó khăn. Hầu hết bọn họ có lẽ đã chết trong cái mùa đông lúc này đang hối hả đến sau mùa thu nếu như không được cứu trợ kịp thời. Nhưng việc cứu trợ đã đến nhanh chóng; bởi Bard đã lập tức phái người đưa tin gấp rút ngược dòng sông tới Rừng U Ám xin viện trợ của Vua Tiên Rừng, và những người đưa tin này đã gặp một đoàn người đang hành quân, mặc dù khi đó mới là ngày thứ ba sau thất bại của lão rồng Smaug.
Trước đó Vua Tiên Rừng đã nhận được tin từ nhóm đưa tin của ông và từ các loài chim yêu mến tộc người của ông nên đã biết nhiều về chuyện xảy ra. Quả thật là giữa các loài có cánh sinh sống trên vùng ven Xứ Hoang Tàn của lão rồng đã có một sự náo động lớn. Không trung dày đặc những đàn chim lượn tròn, và những chú chim đưa tin lướt nhanh thì bay khắp bầu trời. Phía trên các vùng ven Khu Rừng lanh lảnh tiếng chim hót ríu ran. Xa tít phía trên Rừng U Ám, tin tức lan truyền, “lão rồng Smaug chết rồi!” Lá rừng rì rào và những cái tai hoảng hốt vểnh lên nghe. Thậm chí
trước khi Vua Tiên Rừng phóng ngựa lên đường thì tin tức đã lan sang phía Tây tới tận rừng thông trên Dãy Núi Mù Sương rồi; ngài Beorn đã nghe tin ấy trong ngôi nhà gỗ, còn bọn yêu tinh thì đang họp hội đồng trong hang.
“Đó sẽ là tin tức cuối cùng mà chúng ta được nghe về Thorin Oakenshield, ta e là như vậy,” ông vua nói. “Lẽ ra chú ta đã phải làm tốt hơn để còn tiếp tục làm khách của ta. Dù sao thì đó cũng là một tin xấu,” ông nói thêm, “nó chẳng có lợi gì cho bất kỳ ai.” Bởi ông cũng đã không quên huyền thoại về của cải của Thror. Vì vậy lúc này nhóm người đưa tin của Bard gặp ông đang hành quân cùng nhiều binh sĩ mang giáo mác, cung tên; và lũ quạ ăn xác thối đã tập hợp dày đặc phía trên ông, bởi chúng nghĩ chiến tranh lại sắp nổ ra, một chuyện đã lâu lắm chưa từng có ở vùng này.
Song khi nhận được những lời cầu xin của Bard, ông vua cảm thấy thương hại, bởi ông là chúa tể của một dân tộc hiền lành và tốt bụng; vì vậy ông chuyển hướng cuộc hành quân, vốn trước đó nhằm về phía Quả Núi, lúc này gấp rút xuôi dòng sông để tới Hồ Dài. Ông không có đủ thuyền bè cho đội quân của mình, nên họ buộc phải theo đường chậm hơn – đường bộ; song cái kho lương thực lớn thì ông gửi đi trước bằng đường thủy. Tuy vậy các tiên rất nhanh chân, và mặc dù vào thời đó họ không quen lắm với các cuộc hành quân và những vùng đất đầy hiểm họa giữa Khu Rừng và vùng Hồ, họ vẫn đi rất nhanh. Chỉ năm ngày sau cái chết của lão rồng, họ đã đặt chân tới bờ hồ và đứng nhìn cảnh đổ nát của thị trấn. Họ được đón tiếp tử tế, ở chừng mực có thể mong đợi trong hoàn cảnh đó, và người dân cùng viên Thị trưởng sẵn sàng thỏa thuận bất kỳ điều gì trong tương lai để đổi lấy sự viện trợ của Vua Tiên Rừng.
Kế hoạch của họ nhanh chóng được vạch ra. Viên Thị trưởng cho phụ nữ, trẻ em, người già và người không đủ sức khỏe ở lại phía sau; còn bản thân ông cùng đi với một số thợ thủ công và nhiều tiên khéo léo; họ hối hả đốn cây và thu thập những cây gỗ được thả trôi sông từ trên Khu Rừng xuống. Sau đó họ bắt tay dựng lều lán bên bờ hồ để làm nơi ở phòng mùa đông sắp đến; và cũng theo chỉ dẫn của viên Thị trưởng, họ bắt đầu lập kế hoạch cho một thị trấn mới được thiết kế thậm chí còn to đẹp hơn trước, nhưng là ở địa điểm khác. Họ di dời về phía Bắc tới nơi cao hơn bờ hồ; bởi suốt từ đó về sau họ cứ kinh sợ cái vùng nước nơi lão rồng nằm xuống. Lão sẽ chẳng bao giờ trở về cái giường bằng vàng của lão nữa, mà cứ nằm đờ ra như đá lạnh, oằn mình dưới đáy quãng nước rộng. Tại đó suốt nhiều thế kỷ, người ta có thể nhìn thấy bộ xương khổng lồ của lão, khi trời lặng gió, giữa đống đổ nát của thị trấn cũ. Song ít người dám đi qua cái nơi đáng nguyền rủa ấy, và chẳng một ai dám lặn xuống vùng nước lạnh run người để tìm lại những viên ngọc quý rời ra từ cái xác mục nát của lão.
Song toàn bộ các binh sĩ còn đủ sức chiến đấu, và hầu hết lực lượng quân đội của Vua
Tiên Rừng, đều chuẩn bị sẵn sàng hành quân tới Quả Núi ở phía Bắc. Chính vì vậy mà mười một ngày sau khi thị trấn bị tàn phá, đoạn đầu đoàn người đã vượt qua các cổng đá ở suối hồ và tiến vào các vùng đất hoang tàn.
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.