Tốc Độ Tư Duy

PHẦN 5 – NHỮNG TỒ CHỨC ĐẶC BIỆT – Chương XIX: NO HEALTH CARE SYSTEM IS AN ISLAND Liên Kết Các Hệ Thống Chăm Sóc Sức Khỏe



Các tổ chức chăm sóc sức khỏe dành ngân sách lớn cho các hệ thống chẩn đoán đặc trị nhưng lại chi rất ít để xây dựng hệ thống lưu chuyển thông tin. Trong hệ thống làm việc của ^các tổ chức này, chi phí giấy tờ chiếm đến 30% tổng chi phí chăm sóc sức khỏe. Các phương thức thiết lập luồng lưu chuyển và chuẩn mực thông tin vẽ nên tiềm năng về việc xây dựng những hệ thống chăm sóc sức khỏe kết hợp nhằm cải tiến chất lượng chản trị và chăm sóc bệnh nhân thông qua toàn bộ quy trình chăm sóc tại bệnh viện, theo dõi sau điều trị, và phân tích xu hướng lâu dài. Chúng ta có thể thấy trong chương này các ví dụ minh họa cụ thể của Acadian Ambulance, Air Med Service, Sentara Health System, Children’s Hospital ở Seattle và Không Quân Hoa Kỳ.

“Phương pháp chăm sóc tốt không thể thay thế cho việc chẩn đoán chính xác.

ALFRED SLOAN

Cách đây vài năm một nhân viên mới vào làm ở hãng Microsoft buộc phải quay trở về tiểu bang của mình vì mẹ của anh bị mắc chứng đột quỵ.

Khi đã bình phục trở lại và đủ sức khỏe ra viện, bà Jones (xin được tạm gọi như vậy) đã ở với em gái của mình trong khi chờ đợi con trai thu xếp xong xuôi mọi việc để chuyển bà về miền Tây Bắc sống gần với anh ta. Tuy đã bình phục đáng kể nhưng bà Jones không bao giờ có thể sống một mình như trước đây nữa, và tình trạng sức khỏe tốt của bà giờ đây phải phụ thuộc vào các đợt điều trị nội trú tại bệnh viện để được điều trị các chứng bệnh ngày càng phức tạp hơn.

Việc khám chữa bệnh trong 2 năm vừa qua trong cuộc đời bà Jones đã nêu bật được những điểm mạnh nhất cũng như yếu nhất của nền y tế Hoa Kỳ. Bà đã được 3 bệnh viện khác nhau với hơn 12 bác sĩ ở 2 tiểu bang chăm sóc sức khỏe chu đáo trong điều kiện phát triển của khoa học kỹ thuật vượt bậc. Khi sức khỏe chu đáo trong điều kiện phát triển của khoa học kỹ thuật vượt bậc. Khi sức khỏe của bà suy sụp, gia đình thuộc tầng lớp trung lưu của bà đã được hỗ trợ bởi nhiều điều kiện thuận lợi với sự chăm sóc tốt hơn. Tổ chức Medicare (Chương trình của chính phủ Mỹ về việc chăm sóc người già) và bảo hiểm cho bản thân và gia đình bà sự yên tâm. Rất nhiều bác sĩ, y tá và điều dưỡng của bà đều có tay nghề và tất cả đều tử tế với bà như nhau. Bà Jones đã giữ được vẻ đường hoàng cho đến phút cuối, khi bà ra đi trong giấc ngủ của mình.

Tuy nhiên nền y tế Hoa Kỳ vẫn chưa đạt đến mức hoàn thiện. Khi bà Jones rời khỏi bệnh viện đầu tiên đến ở nhà người em cách đó 30 dặm, sự nhầm lẫn trong việc trao đổi giữa các bác sĩ đã dẫn đến sai sót trong việc điều trị thuốc cho bà: người ta đã cho bà đơn thuốc ở liều tối đa thay vì phải giảm dần. Cho đến khi bà đến miền Tây Bắc, phản ứng phụ của lượng thuốc quá liều đã khiến bà phải nhập viện ngay lập tức. Vì không có bệnh án nên các bác sĩ ở đây đã phải tiến hành lại một vài xét nghiệm đắt tiền. Sự cố tương tự đã xảy ra khi bà thay đổi bệnh viện một năm sau đó. Ba tuần cuối cùng của bà ở bệnh viện, tuy không tiến hành bất kỳ một ca phẫu thuật nào nhưng đã tiêu tốn 25.000 USD.

Những vấn đề tương tự như thế này đã xảy ra ngay cả khi gia đình giúp đỡ bà Jones lựa chọn các dịch vụ xã hội và chăm sóc sức khỏe. Con trai và con dâu của bà đã phải mất hàng giờ thay phiên nhau xếp hàng chờ đợi. Và phải mất một năm họ mới có thể thuyết phục được bệnh viện chấm dứt việc tính phí những dịch vụ đã được thanh toán hoàn toàn trước đó.

Vì rất nhiều bệnh viện, bác sĩ, phòng khám, nhà thuốc, dịch vụ chăm sóc sức khỏe cũng như những tổ chức cơ quan tư nhân và nhà nước đều có liên quan nên số lượng giấy tờ là một con số thật sự gây kinh ngạc. Con trai bà Jones cho biết: “Trong suốt thời gian mẹ tôi điều trị, giấy tờ cứ chất chồng lên với tốc độ mỗi tháng lại dày thêm chính xác là 1 inch.”

Trong những chuyến công tác của mình anh ta đã phải mang theo một tập đựng tài liệu gồm những giấy tờ có liên quan đến việc chăm sóc sức khỏe hiện thời của mẹ mình. Anh đã chịu khó cẩn thận sắp xếp lại các hóa đơn bằng cách dùng ghi chú màu: màu xanh lục cho hóa đơn đã được nộp cho Medicare; màu vàng nếu hóa đơn đã được thông qua tổ chức Medicare và được nộp cho một công ty bảo hiểm tư nhân; màu đỏ nếu hóa đơn bị trả về do sai sót; và màu xanh nếu hóa đơn đã được hoàn toàn thông qua hệ thống và anh đã sẵn sàng viết chi phiếu cho bản quyết toán.

Hãy thử xem xét số người mà công việc giấy tờ này cần đáp ứng. Cứ mỗi bác sĩ và y tá điều trị cho bà Jones thì cần phải có hàng chục người làm hóa đơn trong rất nhiều tổ chức khác nhau như bệnh viện, văn phòng bác sĩ, nhà thuốc, cơ quan xã hội, tổ chức Medicar, công ty bảo hiểm. Giống như một chiến dịch quân sự lạc hậu, cứ mỗi người lính trên chiến trường thì lại có đến 20 người ở hậu phương chăm lo hậu cần.

Theo đánh giá và ước tính của đa số chuyên viên thì hàng năm tổ chức chăm sóc sức khỏe Hoa Kỳ đã phải tiêu tốn khoảng 20% – 30% trong tổng số chi phí hàng nghìn tỷ USD vào công việc giấy tờ. Và trong cách bệnh viện con số này còn có thể lên đến 40% – 50%. Người ta cho biết sẽ phải dùng đến khoảng một trăm thứ giấy tờ cho mỗi người trong một tuần ở lại bệnh viện. Ngoài ra còn có khoảng 13% trong tổng số 1 – 2 tỷ đơn yêu cầu được nộp mỗi năm bị gửi trả về do sai sót.

Lượng giấy tờ cũng như sự phức tạp ngày càng tăng cao ngay cả khi nền công nghiệp chăm sóc sức khỏe Hoa Kỳ dịch chuyển sang cơ cấu “chăm sóc có quản lý” trong nỗ lực nhằm làm giảm các chi phí, ngăn ngừa gian lận và bảo đảm cho việc chăm sóc được thích hợp, nhất quán Theo mô hình chăm sóc có quản lý, một tổ chức nào đó, dù là Medicare hoặc một công ty bảo hiểm tư nhân nào đó sẽ giao ước với một nhóm các bác sĩ để cho việc phục vụ y tế được kết quả tốt nhất, đồng thời đưa ra những mức phí cố định, ví dụ như 1.000 USD cho phẫu thuật cắt bỏ ruột thừa, 15 USD cho một mũi thuốc điều trị cảm cúm. Theo cuốn cẩm nang bào hiểm y tể 1998, có hơn 160 triệu người dân Hoa Kỳ đã được đưa vào kế hoạch chăm sóc sức khỏe có quản lý vào đầu năm 1997 theo con số thống kê vào thời điểm đó.

Các bác sĩ đã nhận thức sâu sắc và đánh giá cao nhu cầu kiểm soát các chi phí nhưng lại cảm thấy quá mệt mỏi với các quy tắc, điều lệ và bị phán xét bởi vô số những kẻ quan liêu. Họ lo ngại rằng những chọn lựa về y tế của mình đang bị giới hạn và công tác chăm sóc sức khảo bệnh nhân có thể bị ảnh hưởng. Họ cũng đã vô tình làm cho vấn đề trở nên phức tạp, xem hồ sơ bệnh án như những sổ sách kinh doanh và thường do dự khi phải chia sẻ với chúng với các bác sĩ khác đang cạnh tranh với mình. Và phần lớn bọn họ đã phản đối sử dụng máy tính, mặc dù điều họ không muốn đó có thể sẽ làm một rào cản và gánh nặng chi phí cho các hệ thống y tế còn mới mẻ.

Web giúp bạn có trách nhiệm hơn đối với chính sức khỏe của mình

Bản thân cá nhân tôi đã vào web hàng giờ để học và tìm hiểu những vấn đề về sức khỏe có liên quan đến gia đình và bạn bè tôi. Mức độ chi tiết của thông tin về y học trên web đã khiến tôi thật sự ngạc nhiên. Tuy nhiên, đồng thời cũng có không ít những thủ đoạn lang băm lừa bịp về chuyên môn xuất hiện nhan nhản trên mạng Internet, vì thế xin đừng tin tưởng hoàn toàn tuyệt đối vào tất cả những gì mà bạn đã tìm thấy. Việc kiểm tra, đánh giá mức độ đáng tin cậy của những cá nhân và tổ chức cung cấp thông tin trên mạng Internet là một điều cần thiết đối với tất cả mọi người trong chúng ta.

Theo thời gian, với khối lượng dữ liệu lớn luôn luôn sẵn có trên mạng Internet, như thế vô hình chung sẽ tạo điều kiện cho mọi người thu thập những thông tin về y học và tạo cho tất cả một ý thức trách nhiệm hơn đối với những quyết định về chính sức khỏe của mình.

Hamilton Jordan, Tham mưu trưởng của Chủ tịch Carter, đã đôi lần vật lộn với căn bệnh ung thư của mình. Lần đầu tiên khi gần ông gần như đầu hàng căn bệnh, một người bạn đã nói với ông rằng: “Không một ai có nhiều khả năng chống đỡ và chăm sóc sức khỏe cho ông tốt hơn là chính bản thân ông”, và đã thuyết phục Jordan có trách nhiệm hơn với mình. Đối với căn bệnh ung thư trong lần đầu tiên đó, căn bệnh mà ông đã cho rằng mình đã bị mắc phải khi tiếp xúc với môi trường nguy hiểm của chất độc màu da cam trong chiến tranh Việt Nam, Jordan đã đến thư viện lục tìm và nghiên cứu. Mười năm sau, khi chiến đấu với bệnh ung thư tuyến tiền liệt, ông đã sử dụng mạng Internet để trở thành một chuyên gia về bệnh ung thư cũng như đóng vai trò tích cực trong việc điều trị căn bệnh này.

Chủ tích tập đoàn Intel, ông Andy Grove cũng đã từng trải qua kinh nghiệm tương tự khi mắc bệnh ưng thư tuyến tiền liệt vài năm trước. Sau khi lên mạng tìm thông tin sẵn có về phương pháp điều trị y học khác nhau, ông nhanh chóng nhận ra rằng không hề có những nghiên cứu tương đối chắc chắn nào cả. Từ trước đến này các nhà khoa học đều luôn viết nghiên cứu tương đối của chính mình từ những dữ liệu thô!

Jordan, với tiền sử gia đình có bệnh ung thư tuyến tiền liệt, đã chọn phương pháp phẫu thuật. Grove, với một tiền sử và hoàn cảnh khác, đã chọn phương pháp kết hợp giữa liệu pháp xạ trị “bom thông minh – smart bomb” với phương pháp tổng quát. Điều quan trọng là cùng với những lời khuyên y học hữu hiệu cũng như nghiên cứu của chính mình, cả hai người đàn ông trên đây đều đã đưa ra những quyết định đầy hiểu biết đối với bản thân.

Tuy vậy, mạng Internet không chỉ dừng lại ở mức độ cung cấp các thông tin về y học. Nó tạo điều kiện và môi trường cho các bệnh nhân có cùng bệnh trạng được giao tiếp với nhau, cùng chia sẻ kinh nghiệm và bớt cảm giác cô đơn của mình. Cộng đồng của các bệnh nhân là ở trên toàn thế giới, và những diên đàn trên mạng chính là phương thức dễ dàng nhất mà họ có thể dựa vào đó để kết nối cùng nhau.

Trung tâm nghiên cứu bệnh ung thư Fred Hutchinson ở Seattle hiện đang tiến hành thử nghiệm với một phương pháp tiếp cận mới nhằm tạo ra một cộng đồng Internet. Trung tâm sử dụng thực tế ảo để tạo ra cảm giác như đang hiện diện, đang có mặt tại đó cho các bệnh nhân và gia đình của họ. Kinh nghiệm ảo ra đời nhằm tạo ra một giá trị khác thường trước khi một bệnh nhân vào trung tâm, mang đến cảm giác thoải mái hơn, thân thuộc hơn cho bệnh nhân. Bệnh nhân cũng như gia đình của anh ta có thể tham quan trung tâm thông qua mạng Internet và dễ dàng thực hiện một cuộc viếng thăm ảo ba chiều xuyên suốt toàn trung tâm. Ngoài ra họ còn có thể tham dự vào những bài trình bày về nhiều đề tại khác nhau và thăm hỏi, trò chuyện thân mật cùng những bệnh nhân, gia đình khác ở các khu vực công cộng. Sau cùng, một thành viên trong giám đốc có thể hẹn gặp và tán gẫu trên mạng với một thành viên cán bộ nào đó mà anh ta vừa mới quen. Những kinh nghiệm ảo này không thay thế mà làm tăng thêm sự tiếp xúc, giao thiệp giữa những cá nhân trực diện với nhau.

Thật kỳ lạ, việc chăm sóc có quản lý không được nhiều bác sĩ ưa chuộng hóa ra lại là động lực cơ bản mở rộng các hệ thống thông tin phục vụ cho việc chăm sóc bệnh nhân và phản hồi việc kiểm soát công tác chăm sóc bệnh nhân đến các bác sĩ. Khi đã có đầy đủ thông tin có ích về phương diện lâm sàng, các bác sĩ sẽ thấy được lợi ích và sẽ yêu cầu nhiều hơn. Trong khi đó bệnh nhân cũng đang nhận ra rằng ngày càng có nhiều thông tin dành cho họ trên web và những thông tin đó cũng đã mang đến cho họ ý thức cũng như có trách nhiệm hơn đối với sức khỏe của mình.

Những lợi ích trong lâm sàng cũng đã khuyến khích các quan chức điều hành (CEO) hướng tới xây dựng các hệ thống thông tin tốt hơn và họ thường phải đương đầu với sự phản đối của ban giám đốc, những người thường xuyên tập trung vào vấn đề cắt giảm chi phí từ những sự sáp nhập diễn ra trong nhiều năm qua.

Cho đến thời điểm này, các tổ chức chăm sóc sức khỏe cũng chỉ mới áp dụng khoảng 2% đến 3% tổng thu nhập hàng năm của mình vào công nghệ thông tin, so với ngành ngân hàng là 15%. Mặc dù chăm sóc sức khỏe là một lãnh vực công nghệ cao nhưng công nghệ đã được hướng đến những hệ thống chẩn đoán độc lập, mà không phải là sự lưu chuyển thông tin.

Thường thì những ứng dụng thông tin đang sử dụng không được thiết kế để cùng làm việc với những ứng dụng thông tin khác cho dù tất cả các ngành có liên quan đến chăm sóc sức khỏe như thí nghiệm, dược phẩm, X quang, ngân hàng máu, các thiết bị kiểm tra y tế, điện tâm đồ và những hệ thống thanh toán đều phải chia sẻ dữ liệu. Những ngành này đã phải xây dựng các giao diện đặc biệt giữa những trình ứng dụng. Một tổ chức chăm sóc sức khỏe điển hình có thể có hàng trăm giao diện ở khác nhau. Sự phức tạp này là một trong những lý do khiến cho một tổ chức chăm sóc sức khỏe phải mất đến 2 năm mới mua được một hệ thống mới và phải mất 2 năm khác để cài đặt nó – quá chậm so với bất kỳ tiêu chuẩn nào.

Ngày nay tình hình đang trở nên khả quan hơn. Chính phủ Hoa Kỳ đã thông qua một qui định yêu cầu xác định một mức chuẩn đối với các giao dịch quản trị và giao dịch tài chánh điện tử, gồm cả những tập hồ sơ bệnh nhân được soạn thảo bằng máy tính. Nhiều tổ chức khác đang tiến hành thiết lập các tiêu chuẩn công nghệ trên toàn quốc về sự tương tác, hỗ trợ giữa các ứng dụng y tế với nhau. Tổ chức Microsoft Healthcare Users Group (Những người sử dụng trình ứng dụng chăm sóc sức khỏe của Microsoft), gọi tắt là MS-HUG, đang tiến hành tạo ra những ứng dụng y học sử dụng công nghệ thành phần chuẩn của Windows và công nghệ Internet mới để “kết nối và cùng hợp tác” với nhau.

Việc kiểm soát thông tin tốt hơn trong những tổ chức y tế sẽ trở thành một nhu cầu thiết yếu trong tương lai. Đã có một vài tổ chức chăm sóc sức khỏe nhận ra rằng nhu cầu của bệnh nhân của mình là một điều không thể đợi chờ được và chính vì thế những tổ chức đó thể hiện một vai trò tiên phong mạnh mẽ. Họ đã chứng minh rằng một hệ thống thông tin kỹ thuật số có thể đem đến những đóng góp vô giá đối với mọi lĩnh vực chăm sóc sức khỏe bệnh nhân: từ dịch vụ cấp cứ cho đến việc điều trị tại bệnh viện, theo dõi sức khỏe bệnh nhân và phân tích khuynh hướng lâu dài.

ĐÁP ỨNG KỊP THỜI TRONG NHỮNG TRƯỜNG HỢP KHẨN CẤP

Có hơn 80 dịch vụ xe cứu thương và sở cứu hỏa ở 6 quốc gia đang thực hiện công tác cấp cứu với các hệ thống xây dựng trên máy tính. Được hỗ trợ bởi các vệ tinh GPS (Hệ Thống Định Vị Toàn cầu), những hệ thống này định vị xe cứu thương gần nhà bệnh nhân nhất và vạch ra con đường nhanh nhất để đến đó. Hai công ty dịch vụ cấp cứu lớn nhất ở Hoa Kỳ là American Medical Réponse (AMR) và Rural/Metro Ambulance Service, sử dụng máy tính để hỗ trợ cho các nhà điều vận trong việc bố trí một cách hợp lý nhất các xe cứu thương còn lại trong trường hợp đã có vài chiếc đã được điều trước đó.

Công ty Rural/Metro ở San Diego có thể dự tính được bao nhiêu tổng số 500 thiết bị chữa cháy của mình và những loại xe nào cần huy động đến đám cháy. Ví dụ, xe tải chở thang có thể sẽ được điều đến một đám cháy ở tầng cao, hoặc thiết bị chuyên dùng nào sẽ cần đến cho một đám cháy nhà máy, xí nghiệp. Sở cứu hỏa Denver sử dụng một hệ thống xây dựng trên máy tính để hiển thị sơ đồ tầng của các tòa nhà quan trọng cũng như những vị trí có vòi nước máy và để báo cho lính cứu hỏa biết về những người tàn tật đang ở cạnh đám cháy cần được sơ tán.

Có lẽ không có công ty cung cấp dịch vụ khản cấp nào ở Hoa Kỳ tận dụng được công nghệ máy tính nhiều hơn là “Acadian Ambulance and Air Med Services” ở Laíayette, Louisiana, là công ty đang xây dựng một dòng thông tin toàn diện quanh hệ thống Tri Tech Software Systems Visi CAD cho phần mềm Fire/EMS. (CAD ở đây có nghĩa là computer-aided dispatch – điều phối với sự hỗ trợ của máy tính, không phải là computer-aided design – thiết kế trên máy tính). Với 1.200 nhân viên và doanh thu là 90 triệu USD, Accdian là công ty xe cấp cứu độc lập lớn nhất tại Hoa Kỳ. Từ một trung tâm điều phối duy nhất ở Latayette, Acadian phục vụ và đáp ứng nhu cầu cho 26 quận trải dài trên diện tích 17.000 dặm vuông gồm các thành phố, thị xã, các cánh đồng mía, lúa và nhánh sông ở khu vực phía nam tiểu bang. Một ngày trung bình Acadian giải quyết khoảng 500 – 600 cuộc gọi yêu cầu xe cứu thương và trực thăng y tế.

Những người sử dụng hệ thống phần mềm trả lời yêu cầu cứu dựa trên máy tính cho biết hệ thống này thường giảm từ 60 đến 90 giây thời gian đáp lại khẩn cấp các cuộc gọi cấp cứu qua số điện thoại 911. Đối với một công việc mà trong đó khoảng cách giữa sự sống và cái chết chỉ được tính theo từng giây từng phút thì đây quả là một tiến bộ rất quan trọng. Nhưng giá trị lớn nhất chính là cách thức mà chỉ một hệ thống duy nhất đó nhưng lại có thể cho phép những kỹ thuật viên y tế cấp cứu giúp đỡ cho người bị thương hoặc bị bệnh cả khi các kỹ thuật viên đó đang trên đường đi và sau khi họ đã có mặt tại hiện trường. Khi xe cứu thương đang trên đường đi, phần mềm sẽ xuất hiện một loạt câu hỏi dành cho điều phối viên để hỏi người gọi đến về tình huống khản cấp đó. Điều phối viên sẽ tải những câu trả lời về cho nhóm thực hiện công tác cứu hộ khi họ đang trên đường đi và khuyên bảo, dặn dờ người gọi đến thực hiện những thao tác kỹ thuật sơ cứu thích hợp đầu tiên trong khi chờ nhân viên cứu hộ đến.

Ngoài ra hệ thống còn nhắc nhở điều phối viên hỏi thăm về những chướng ngại tiềm ẩn khác có thể xảy ra cho nhóm cứu hộ tại hiện trường.

Một hệ thống mấy tính bảng viết trên xe cứu thương vận hành trên những chiếc máy tính xách tay hiệu Fujitsu sẽ giúp bảo đảm cho kỹ thuật viên y tế cấp cứu của Acadian thực hiện theo những bước điều trị tiêu chuẩn. Máy tính sẽ hiển thị một giản đồ cơ thể con người được chia thành bảy vùng khác nhau. Kỹ thuật viên y tế cấp cứu sẽ gõ nhẹ vào giản đồ tại vùng cơ thể bệnh nhân đang có vấn đề nghi ngờ. Căn cứ vào việc đó có phải là một trạng thái thuộc về nội khoa như ngưng tim hoặc một chấn thương như vết thương bị đâm thủng mà máy tính sẽ đưa ra những chỉ dẫn điều trị khác nhau.

Thay thế cho những bản báo cáo bằng giấy mà nhóm cứu hộ đã từng sử dụng trước đây, hệ thống máy tính bảng viết giờ đây còn có thể hỗ trợ cho các nhân viên cứu hộ khi đang ngồi trong xe cứu thương vẫn có thể nhanh chóng lập hồ sơ bệnh án mới. Hệ thống sẽ gợi ý để tạo ra những thông tin chuẩn, chuyển đổi tên bệnh viện từ viết tay thành dạng văn bản, và tự động hoàn tất các trường địa chỉ bệnh viện. Nếu nạn nhân là một thành viên có đăng ký chương trình hàng tháng của Acadian thì hệ thống máy tính bảng viết sẽ định vị biểu đồ với những thông tin y tế từ bản báo cáo đã được nhập vào ổ cứng của laptop.

Điều trị tĩnh mạch (IV) và một số thủ tục khác yêu cầu bác sĩ phải ký tên khi xe cứu thương đến bệnh viện. Bác sĩ sẽ ký tên bằng một loại bút điện tử trên màn hình máy tính. Nếu có một phương pháp điều trị mới được nhập vào sau đó, máy sẽ yêu cầu một chữ ký khác của bác sĩ, bảo đảm sự cân nhắc về y tế cho tất cả cấc thủ tục.

Khi bản báo cáo đã được hoàn tất, nó sẽ được tải lên thông qua truy cập từ xa vào mạng của Acadian. Công nghệ mã hóa sẽ bảo mật thông tin về bệnh nhân. Hệ thống máy tính bảng viết mỗi ngày sẽ nhắc nhở nhân viên y tế về những hồ sơ chưa được hoàn tất. Nếu có hồ sơ chưa được hoàn tất và được tải lên trong vòng 5 ngày, một “báo cáo trễ” sẽ được tự động gửi qua hệ thống thư điện tử đến giám sát viên của nhóm nhân viên y tế đó.

Hệ thống máy tính bảng viết nâng mức độ chính xác của các bản báo cáo từ 60% lên 90%.

Sau cùng thì Acadian đã có kế hoạch thống nhất những hệ thống thông tin của mình, do đó những dữ liệu được các kỹ thuật viên y tế cấp cứu nhập lúc ban đầu sẽ trực tiếp được đưa vào tính toán và thời gian kỹ thuật viên y tế cấp cứu nhập và máy tính bảng viết sẽ liên tục nhập vào bảng lương. Một cơ sở hạ tầng tương tự sẽ tự động điều phối công tác đào tạo, cấp giấy phép cho kỹ thuật viên y tế cấp cứu, thủ tục OSHA và những vấn đề tương tự; tự động đáp ứng yêu cầu về xe căn cứ vào nhu cầu sử dụng; và hỗ trợ bảo dưỡng khoa học hơn các loại xe, cũng chính là thiết bị đắt tiền nhất mà Acadian sở hữu.

Tuy nhiên những tiến bộ trong hoạt động này chỉ là một phần nhỏ của câu chuyện. Tập hợp dữ liệu của Acadian đang giúp công ty trở nên khéo léo, nhanh nhạy hơn trong công tác điều trị cho bệnh nhân. Kỹ thuật viên y tế cấp cứu phải đối phó với những tình huống khó khăn phải quyết định nên tiêm tĩnh mạch tại hiện trường và hoãn việc đưa bệnh nhân đến bệnh viện hay phải đưa bệnh nhân đến bệnh viện trước, mặc dù việc di chuyển của xe có thể sẽ khiến cho việc tiến hành tiêm tĩnh mạch khó hơn. Bằng cách phân tích dữ liệu thu thập được trên những máy tính bảng viết mới, Acadian đã biết được rằng tỷ lệ thành công theo 2 cách là như nhau. Công ty quyết định thực hiện tiêm tĩnh mạch trên dường như một thủ tục tiêu chuẩn và tiết kiệm thời gian trên đường đi.

Phân tích dữ liệu nhập từ bảng viết cũng cho phép Acadian thực hiện đào tạo đặc biệt cho các kỹ thuật viên y tế cấp cứu, những người gặp phải tỷ lệ thành công thấp trong khi tiến hành tiêm tĩnh mạch hoặc biện pháp luồn ống vào khí quản để giúp bệnh nhân hô hấp.

Với những bản báo cáo hàng ngày như trước đây, việc phân tích những vấn đề như thế này là điều không tưởng. Ngay cả với những người đứng đầu êkíp khi xem xét lại các phiếu cũng cảm thấy khó khăn khi tìm cách thông tin cần thiết. Mỗi ngày có từ 500 đến 600 phiếu được xếp chồng chất lên mà chỉ có tác dụng như những hồ sơ bệnh ấn của các trường hợp cá nhân chứ không thể sử dụng để phân tích khuynh hướng, sắp tới đây, Acadian sẽ có đủ dữ liệu nội bộ để có thể nhận thức và đáp ứng được hầu hết bất kỳ khuynh hướng y tế nào. Công ty sẽ không phải chờ đợi những nghiên cứu dài hạn của quốc gia nữa.

Acadian và những dịch vụ cấp cứu khác cũng đang tiếp tục thực hiện bước kế tiếp, đó là chuyển giao dữ liệu kỹ thuật số theo cùng với bệnh nhân, ở Birmingham, Alabama, 10 bệnh viện ở địa phương đã bắt đầu sử dụng TraumaNet, một chương trình phần mềm hỗ trợ nhân viên y tế truyền dữ liệu cơ bản của bệnh nhân từ xe cứu thương theo đường điện tử. Dữ liệu sẽ đến Trung tâm Truyền thông Trauma (chấn thương), hướng dẫn xe cứu thương đến bất kỳ bệnh viện nào có khả năng điều trị cấp cứu thích hợp và gửi dữ liệu của bệnh nhân đến bệnh viện, nhờ đó bệnh viện có thể chuẩn bị cho bệnh nhân đang trên đường nhập viện. Sau cùng, mục tiêu là sử dụng hệ thống kỹ thuật số để cung cấp một bức tranh tổng hợp về tình trạng của bệnh nhân ngay khi được xe cứu thương đưa vào cánh cửa phòng cấp cứu.

HOÀN TẤT BỆNH ÁN KỸ THUẬT SỐ CHO BỆNH NHÂN

Trong bệnh viện, khi hệ thống thông tin cung cấp nhiều thông tin hơn về bệnh án cho nhân viên y tế, nắm được những chuyển biến về sức khỏe bệnh nhân hàng ngày và giải phóng các bác sĩ, y tá khỏi công việc giấy tờ quá lớn để họ có thể tập trung thời gian vào việc chăm sóc bệnh nhân thì bệnh nhân chính là người được lợi từ những hệ thống thông tin này. Chúng tôi xin được nêu một thí dụ điển hình về việc một bệnh viện đã bằng cách nào để có thể tích hợp toàn bộ thông tin về bệnh nhân của mình, đó là Bệnh viện Nhi đồng và Trung tâm Y tế khu vực ở bang Seattle. Bệnh viện Nhi đồng là một bệnh viện nhi khoa hoạt động phi lợi nhuận với 208 giường bệnh và liên kết với trường Đại học Y Khoa Washington. Bệnh viện có 180 bác sĩ và 100 bác sĩ nội trú, cùng với 240 bác sĩ nội trú khác luân phiên đến từ những chương trình khác. Kết hợp với hơn 50 phòng khám chữa bệnh đặc biệt dành cho bệnh nhân ngoại trú ở Alaska, Idaho, Motana, Washington, và Wyoming, Bệnh viện Nhi đồng cũng đã nhận được nhiều ca nhi đến từ 5 tiểu bang trên.

Khi bệnh nhân nhập viện, toàn bộ thông tin nhận dạng sẽ được nhập vào máy tính một lần và được lưu trữ trong cơ sở dữ liệu trung tâm. Hơn 1.500 máy tính được trang bị khắp nơi trong bệnh viện, trên mọi tầng lầu, trong mọi khoa điều trị và được đặt cạnh giường bệnh nhân. Mỗi khi có ai đó trong bệnh viện trao đổi với bệnh nhân, toàn bộ thông tin về bệnh nhân cũng sẽ được nhập vào cùng một cơ sở dữ liệu. Bất kỳ nhân viên y tế nào, ngay cả bác sĩ lâm sàng ở một trong những phòng khám chữa bệnh ngoại trú và phòng khám chuyên môn ở xa Bệnh Viện Nhi đồng cũng đều có thể truy cập những thông tin này. Nếu một y tá cần thông báo cho bác sĩ biết về tình trạng của bệnh nhân thì cô ta có thể có gọi loa để nhắn tin cho bác sĩ, và bác sĩ đó có thể truy cập vào một máy tính bất kỳ nào đó trong bệnh viện hoặc từ xa thông qua kết nối dial-up (quay số) để xem xét tình trạng bệnh nhân.

Tất cả những cuộc điều trị, xét nghiệm, cấp thuốc cũng như thủ tục, quy trình điều trị tại bệnh viện Nhi đồng đều được nhập vào CareVISION, một hệ thống quản lý thông tin bệnh nhân của Tập đoàn HealthVISION. Tập tin CareVISION sẽ cung cấp cho bệnh viện một bộ hồ sơ kỹ thuật số rất đầy đủ của bệnh nhân và những phương thức mà bệnh viện đã tiến hành để điều trị cho bệnh nhân đó. Được phát triển trong sự công tác với các bác sĩ lâm sàng của Bệnh viện Nhi đồng, các bác sĩ đã phối hợp với nhân viên công nghệ thông tin như một bộ phận của nhóm thực thi dự án, hệ thống CareVISION có thể nắm bắt và ghi lại toàn bộ dữ liệu liên tục như số làn mà y tá đi thăm bệnh nhân, chăm sóc hoặc tắm rửa cho bệnh nhân. Bác sĩ có thể click vào tên của một bệnh nhân nào đó để xem qua bệnh án hoặc cũng có thể tham khảo chi tiết hơn nếu cần. Tất cả những bản báo cáo trong phòng thí nghiệm cũng như những thông tin khác trước đây đã từng nằm trong mớ giấy tờ 100-trang- mỗi tuần cho mỗi bệnh nhân giờ đây đã được lưu trữ theo công nghệ kỹ thuật số trong cơ sở dữ liệu. Mọi thứ đều được lưu trữ bằng điện tử, vì thế bệnh viện đã có được một bức tranh toàn cảnh khá đầy đủ và luôn sẵn sàng mọi lúc mọi nơi mỗi khi tiếp xúc với bệnh nhân.

Chẳng bao lâu nữa bệnh viện sẽ bổ sung thêm một môđun hỗ trợ việc ra quyết định để kịp thời nhắc nhở các nhân viên y tế về các trục trặc trong điều trị và sao lục. Ví dụ, khi nhập đơn thuốc cho một đứa bé nào đó, bác sĩ sẽ được hệ thống nhắc nhở về loại thuốc nào có phản ứng bất lợi với thuốc mà đứa bé đó đang uống hoặc sẽ được hệ thống nhắc nhở về các loại thuốc mà đứa bé đó dị ứng. Hoặc khi bác sĩ yêu cầu tiến hành chụp X quang, hệ thống sẽ báo rằng “Bệnh nhân vừa được tiến hành chụp X quang ngày hôm qua. Thật sự bác sĩ có cần chụp X quang một lần nữa hay không?”

Cũng như Acadian Ambulance phân tích dữ liệu để nhận biết khuynh hướng và để tiến hành điều trị cấp cứu thích hợp, Bệnh viện nhi đồng sử dụng hệ thống của mình để phát triển những phương pháp điều trị tốt nhất sẽ được tiến hành cho bệnh nhân. Thuật ngữ công nghiệp gọi việc này là “clinical pathways”, có nghĩa là xác định chiều hướng tối ưu cho việc điều trị các chứng bệnh nhất định. Đa số các bệnh viện đều luôn có những clinical pathways trong điều trị các chứng bệnh nào đó, nhưng lại thực hiện trên giấy tờ và thường kết thúc bằng cách xếp chúng ở trên kệ, nơi mà chỉ có một số ít người có thể đọc và sử dụng. Ngay cả khi chúng được đêm ra sử dụng cũng rất khó để thu thập đầy đủ và đánh giá dữ liệu đề cải tiến.

ở Bệnh viện Nhi đồng, dữ liệu được nhập tự động, cho giải pháp theo dõi khuynh hướng và xây dựng những giải pháp tốt hơn. Sau đó các nhóm nhân viên y tế sẽ lập trình cho đường dẫn chuẩn mới vào hệ thống CareVISION và chuyển chúng đến cho các bác sĩ tại nơi họ đang thực hiện điều trị. Khi bác sĩ kê đơn thuốc hay đề ra một phương pháp điều trị nào đó, hệ thống sẽ tiến hành kiểm tra 2 lần để bảo đảm rằng toa thuốc hoàn toàn tương thích với giải pháp của bệnh viện đối với chứng bệnh đó. Hệ thống cũng sẽ nhắc cho các bác sĩ những quy trình thủ tục, mới mà có lẽ sẽ bỏ qua hoặc không chú ý đến.

Khả năng xem xét, phân tích và chọn lọc thông qua dữ liệu để phát triển công tác y tế ngày càng tốt hơn là đặc biệt quan trọng đối với Bệnh viện Nhi đồng trong khả năng của mình như một tổ chức đào tạo. Để giúp đỡ các bác sĩ nội trú và sinh viên, CareVISION sẽ bao gồm những thủ tục, trật tự đã được chọn trước đó theo các nguyên tắc chỉ đạo thực hiện điều trị tốt nhất hiện thời của bệnh viện. Nếu bác sĩ nội trú không quen với trật tự cố định thì hệ thống có thể gửi thư điện tử cung cấp thông tin về kiến thức và kinh nghiệm cho bác sĩ đó để tham khảo sau này. Những tài liệu tham khảo trên mạng sẽ gồm những dữ liệu mới nhất giải thích về mặt khả thi và không khả thi, về chi phí và hiệu quả của các phương pháp điều trị khác nhau. Nếu bác sĩ nội trú sắp đặt trật tự không thích hợp, CareVISIOn sẽ không duyệt trật tự đó, đồng thời gửi thông tin bổ sung đến bác sĩ nội trú đó như một lời giải thích tại sao trật tự bị ngưng lại, và cũng có thể sẽ báo cho bác sĩ chịu trách nhiệm hướng dẫn những lãnh vực mà bác sĩ nội trú đó cần được đào tạo thêm.

Việc thống nhất hệ thống mới với hệ thống làm hóa đơn thanh toán tại Bệnh viện Nhi đồng bảo đảm cho sự đầu tư của bệnh viện trong công nghệ hiện hành, và hệ thống mới đáp ứng tiêu chuẩn về an toàn cũng như nguyên tắc bảo mật bệnh nhân rất nghiêm ngặt. Hệ thống giúp cho việc hoàn trả được dễ dàng hơn vì mọi tài liệu chi tiết luôn sẵn sàng được cung cấp cho các nhà cung cấp dịch vụ bảo hiểm. Vì hệ thống nắm giữ toàn bộ dữ liệu chăm sóc bệnh nhân đã được số hóa nên bệnh viện có thể thực hiện các công việc kiểm toán viết những bản báo cáo quản lý chi tiết.

Do hệ thống hoạt động theo tiêu chuẩn nên Bệnh viện Nhi đồng sẽ có thể điều chỉnh hoặc nâng cấp nó theo bất kỳ phương diện nào. Bệnh viện Nhi đồng cũng đã hoạch định việc đưa hình ảnh kỹ thuật số vào chính hệ thống của mình để các bác sĩ có thể xem xét, theo dõi tình trạng bệnh nhân cho dù đang ở bất kỳ nơi đâu.

Dù biết rằng việc vận hành một hệ thống thông tin tầm cỡ thế giới chuyên chăm sóc sức khỏe cho bệnh nhân sẽ làm tiêu tốn rất nhiều thời gian, tiền bạc nhưng Bệnh viện Nhi đồng cũng nhận ra rằng nếu không tiến hành chuyển đổi sang một hệ thống kỹ thuật số thì chi phí và rủi ro sẽ còn lớn hơn gấp nhiều lần. John Dwight, trưởng phòng thông tin của Bệnh viện Nhi đồng cho biết: “Vâng, nó đắt thật đấy và cũng không hề đơn giản như ban đầu. Cũng phải mất thời gian để quen dần nhưng chúng ta không có sự chọn lựa nào khác. Đơn giản chỉ vì bệnh viện sẽ không thể tiếp tục tồn tại trong thế giới chăm sóc sức khỏe ngày hôm nay nếu không đầu tư vào những hệ thống thông tin kỹ thuật số hỗ trợ việc theo dõi và phân tích dữ liệu chăm sóc bệnh nhân. Chúng tôi chỉ có hai lựa chọn: hoặc là phải làm tốt hơn để theo sát việc điều trị, hoặc là phải chịu thất bại”.

CHĂM SÓC SỨC KHỎE LIÊN TỤC

Công nghệ web và máy tính có lợi đối với việc chăm sóc bệnh nhân không chỉ trong các bệnh viện mà còn trong điều trị lâm sàng hàng ngày. Sentara Health System ở Noríolk, Virginia, nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe ở miền Nam Virginia và miền Bắc North Carolina, đang sử dụng mạng Internet để tạo điều kiện cho các bác sĩ giữ liên lạc với bệnh nhân của mình cho dù bệnh nhân đang nội trú tại bệnh viện hoặc đang được tiếp tục điều trị tại nhà.

Sentara đã tạo ra một trình ứng dụng dựa trên mạng nội bộ có tên gọi là SpinWeb phổ biến mạng của mình cho 2.000 bác sĩ và 5.000 nhân viên văn phòng có quyền truy cập ngay vào hồ sơ bệnh án cũng như các hệ thống thông tin trong bệnh viện khác qua web. Bác sĩ có thể kết nối vào các máy chủ của Sentara từ văn phòng hoặc từ nhà của mình để kiểm tra hiện trạng sức khỏe bệnh nhân, đọc các bản báo cáo từ phòng thí nghiệm, những tóm tắt khi bệnh nhân xuất viện và những thông tin khác của bệnh nhân, các tài liệu tham khảo y tế và thông tin bảo hiểm. Bác sĩ phẫu thuật có thể liên hệ trong đêm trước khi cuộc phẫu thuật được tiến hành để kiểm tra về tình trạng bệnh nhân. SpinWeb cũng hỗ trợ bác sĩ xem xét, soạn thảo và ký tên điện tử vào hồ sơ bệnh nhân qua máy tính từ một vị trí ở xa. Thư điện tử cũng giúp cho các bác sĩ trao đổi với nhau cũng như hỗ trợ giao tiếp giữa Sentara với các bác sĩ.

Những khả năng này giúp cho bác sĩ khỏi phải đến bệnh viện, thường là từ một khu vực nông thôn, khi chỉ cần điều trị bệnh nhân theo định kỳ, đổng thời trút đi gánh nặng quản trị trên giấy tờ.

Đối với những bệnh nhân phải chịu rủi ro cao, ví dụ như những trường hợp bị bệnh tiểu đường, Sentara sẽ tiến hành kiểm tra hàng ngày và hướng dẫn bệnh nhân tự theo dõi bệnh. Ngày nay những nghiên cứu dựa trên nhóm đối tượng cụ thể thường kiểm tra những bệnh nhân này hàng ngày, thỉnh thoảng vài lần trong một ngày, kiểm tra lượng đường trong máu cũng như các chỉ báo quan trọng khác. Sử dụng SpinWeb, bệnh nhân sẽ có thể đăng nhập nhanh vào mạng Internet và nhập các báo cáo hàng ngày của mình vào để gửi đến nhóm nghiên cứu cũng như bác sĩ của mình.

ứng dụng của SpinWeb có thể đưa ra lời khuyên sơ bộ dành cho bệnh nhân. Nếu lượng đường trong máu của bệnh nhân thấp hơn một mức nào đó, SpinWeb sẽ hướng dẫn bệnh nhân đó uống một cốc nước cam. Mặt khác nhóm nghiên cứu và bác sĩ cũng sẽ có thể chăm sóc phòng ngừa bệnh trước cho bệnh nhân dù ở bất cứ nơi nào. SpinWeb còn hỗ trợ Sentara thu thập thông tin về khuynh hướng chung. Trong một trường hợp bệnh tiểu đường nào đó, chương trình sẽ thông báo rõ ràng rằng lượng đường trong máu bệnh nhân sẽ rất cao vào khoảng 4 giờ chiều mỗi ngày, nhắc nhở bác sĩ đưa ra sự thay đổi hợp lý hơn trong chế độ ăn kiêng của bệnh nhân.

Những ứng dụng trên mạng Internet như SpinWeb đang dần mở rộng truy xuất thông tin đến nhiều bác sĩ ở vùng nông thôn và những bệnh nhân đang được Sentara phục vụ. Khi một bệnh nhân được chuyển đến cho một chuyên viên trong thành phố gần đó, bác sĩ ở quê nhà có thể theo sát tình trạng bệnh nhân thông qua những bản báo cáo được gửi trên trang SpinWeb. Nếu một bệnh nhân trên mạng cho bất kỳ nhóm nhân viên y tế nào khác có đủ thảm quyền thích hợp. Thẻ sức khỏe cấp cứu Sentara có ghi số điện thoại hoàn toàn miễn phí để những nhân viên y tế khác có thể gọi là truy cập trang web của Sentara. Chỉ trong vòng vài phút, nhóm nhân viên y tế ở xa sẽ biết được toàn bộ thông tin bệnh án của bệnh nhân như những thông tin mà bác sĩ địa phương đang nắm giữ.

THEO DÕI NHỮNG HIẾM HỌA VÔ HÌNH ĐỐI VỚI SỨC KHỎE

Cùng với việc cải thiện công tác chăm sóc sức khỏe tức thời và liên lạc thường xuyên giữa bác sĩ với bệnh nhân, công nghệ thông tin còn có khả năng đáp ứng cho việc phát triển chăm sóc sức khỏe thông qua những ghi nhận và phân tích triệu chứng mang tính dài hơi, căn bệnh cũng như điều trị. Không quân Hoa Kỳ đã dẫn đầu trong việc ứng dụng tập hợp và phân tích dữ liệu để kiểm tra cũng như bảo vệ lực lượng hải ngoại của mình khỏi những hiểm họa về sức khỏe.

Một số quân nhân Hoa Kỳ trở về từ Chiến tranh Việt Nam và Chiến tranh Vùng Vịnh đã than phiền về những chứng bệnh mà các bác sĩ dành chịu bó tay không thể xác định. Những cựu chiến binh Việt Nam tin rằng bệnh tật của họ là do tiếp xúc với môi trường chất độc màu da cam, một thứ thuốc diệt cỏ do Hoa Kỳ sử dụng nhằm tiêu hủy thảm thực vật. Việc tìm hiểu về nguyên nhân của “Hội chứng Chiến Tranh Vùng Vịnh”õã đưa ra nhiều tình huống từ việc hít phải khói xăng dầu cho đến những phản ứng chậm với vắc-xin và cả khả năng tiếp xúc với vũ khí hóa học của l-rắc. Sự việc lại càng thêm mơ hồ khi có ít nhất một bài nghiên cứu xác nhận rằng con số của những căn bệnh khác thường do các cựu chiến binh Vùng Vịnh báo cáo không cao hơn con số do những người lính không phục vụ trong vùng chiến đấu báo cáo lại. Nếu không theo dõi các triệu chứng từ đầu đến cuối trên chiến trường cũng như sau đó, và không theo sát những khả năng có thể gây ra các triệu chứng thì không một ai có thể khẳng định chắc chắn là những căn bệnh như thế có liên quan đến chiến tranh hay không hoặc do những nguyên nhân nào gây ra.

Sau khi những mối băn khoăn về một căn bệnh có thể do Chiến tranh Vùng Vịnh gây ra trở nên nghiêm trọng vào giữa những năm 1990, Lữ đoàn trưởng Klaus Schater, sĩ quan y tế trưởng cho Bộ Tư lệnh không chiến của Không lực Hoa Kỳ đã đưa ra kết luận: “Tôi sẽ không để cho Chất độc màu da cam hay hội chứng Chiến tranh vùng vịnh xảy đến cho những người lính của mình. Tôi muốn biết điều gì đang diễn ra cho họ”. Tướng Schater đã đến Phòng y tế của Bộ Quốc phòng, Military Health Service (MHS) và yêu cầu được trợ giúp trong việc phát triển một hệ thống hồ sơ lâm sàng kỹ thuật số có thể triển khai dã chiến để tạo điều kiện cho ông thu thập những dữ liệu có liên quan đến sức khoẻ trong những môi trường mà quân của ông đang đi qua. Mặc dù nghĩ rằng một hệ thống như thế thật sự là ý tưởng tuyệt với nhưng MHS cũng đã cho biết tổ chức sẽ phải mất từ 2 đến 3 mới có khả năng hỗ trợ phát triển một hệ thống như vậy.

Thời gian như vậy là quá lâu.

Tướng Schaíer và một sĩ quan chuyên về hệ thống thông tin hàng đầu của ông, trung tá Edward Kline, cùng với một nhóm các chuyên viên kỹ thuật, đã quay về với phần mềm máy tính có sẵn, những chiếc máy tính di động và máy chủ giá rẻ. Mục tiêu là theo dõi và phân tích vấn đề mà quân đội gọi là “bệnh tật từ những chấn thương ngoài cuộc chiến – disease non-battle injuries”, một phạm trù rộng bao trùm những vấn đề về sức khỏe mà không đơn thuần chỉ là những vết thương trong khi giao chiến. Kết quả là một trình ứng dụng ra đời mang tên Desert Care, giúp cho lực lượng không quân chản đoán chính xác những căn bệnh và nhận ra xu hướng của bệnh trên toàn vùng. Trong quá trình theo dõi và chăm sóc sức khỏe cho binh sĩ, Desert Care cũng có thể phát hiện ra những hoạt động của quân đội có khả năng gây nguy hiểm tiềm ẩn cho sức khỏe.

Từ khi bắt đầu cho đến lúc kết thúc, việc phát triển đã mất khoảng 4 tháng và chỉ tốn 200.000 đôla. Ngày nay Desert Care đã được triển khai hoạt động ở vùng Tây Nam Châu Á – Vịnh Ba Tư và Trung Đông – hỗ trợ cho 28.000 quân lính phục vụ trong lực lượng không quân luân phiên nhau ở đó hàng năm. Trong vòng 1 năm Desert Care đã có thể được “thể chể hóa” khắp nơi trong lực lượng không quân, hỗ trợ y tế cho hàng ngàn cá nhân trên hàng chục chiến trường. Quân đội và Hải quân Hoa Kỳ rất quan tâm đến việc đưa Desert Care và binh chủng của họ, và vì thế ảnh hưởng của nó có thể sẽ mở rộng hơn.

BẢO VỆ CHO CÁ NHÂN VÀ TOÀN Bộ LỰC LƯỢNG

Trước khi Desert Care ra đời, bệnh tật của một quân nhân chỉ là một triệu chứng đơn lẻ trong một phạm vị vô hình. Bệnh sẽ được điều trị bằng thuốc, sau đó sẽ được lưu lại trong một hệ thống giấy tờ và sẽ bị lãng trước sự tấn công sinh học hoặc hóa học.

Desert Care cũng đã thiết lập nên một cơ sở dữ liệu vô cùng hữu ích trong việc điều trị cho quân nhân khi họ trở về gia đình. Giả sử một quân nhân sẽ đến Trung tâm Y tế Căn cứ Lực lượng không quân Andrews ở Maryland 1 hoặc 2 năm sau khi trở về từ Cô-oét để báo cáo về những cơn choáng váng từng hồi và tình trạng suy nhược của mình. Các bác sĩ sẽ tham khảo dữ liệu và xác định được điều trị gì đã xảy ra trong khu vực mà quân nhân đó đã có mặt trong thời gian tại ngũ. Đã có ai mắc phải những triệu chứng tương tự khi ở Cô-oét hay không? Có những cựu chiến binh khác hiện cũng đang có những triệu chứng tương tự hay không? Quân nhân đó đã được tiêm ngừa vắc-xin bệnh than trước khi được gửi đến Cô- oét hay chưa? Nếu có bất kỳ điều gì liên quan đến những triệu chứng này trước sự tấn công sinh học hoặc hóa học.

Desert Care cũng đã thiết lập nên một cơ sở dữ liệu vô cùng hữu ích trong việc điều trị cho quân nhân khi họ trở về gia đình. Giả sử một quân nhân sẽ đến Trung tâm Y tế Căn cứ Lực lượng không quân Andrews ở Maryland 1 hoặc 2 năm sau khi trở về từ Cô-oét để báo cáo về những cơn choáng váng từng hồi và tình trạng suy nhược của mình. Các bác sĩ sẽ tham khảo dữ liệu và xác định được điều trị gì đã xảy ra trong khu vực mà quân nhân đó đã có mặt trong thời gian tại ngũ. Đã có ai mắc phải những triệu chứng tương tự khi ở Cô-oét hay không? Có những cựu chiến binh khác hiện cũng đang có những triệu chứng tương tự hay không? Quân nhân đó đã được tiêm ngừa vắc-xin bệnh than trước khi được gửi đến Cô- oét hay chưa? Nếu có bất kỳ điều gì liên quan đến những triệu chứng này hoặc có những vấn đề về sức khỏe tương tự trong cùng một khoảng thời gian hay nơi chốn thì Desert Care sẽ tạo cơ hội tốt nhất cho các bác sĩ tìm ra vấn đề.

Tướng Schaíer dự kiến phát triển hệ thống nhanh, mạnh hơn trong việc phát hiện những vấn đề về y học trong toàn vùng. Khi chúng trở nên có giá trị về phương diện thương mại, ông dự tính sẽ giới thiệu các máy xác định AND cầm tay – handheld DNA probes – giúp cho nhân viên y tế chẩn đoán ngay tại chỗ vi khuẩn và vi-rút thông qua các mẫu máu và nước tiểu. Desert Care rồi sẽ trở thành một công cụ điều trị và chẩn đoán trên chiến trường. Bác sĩ quân y và lính cứu thương cũng sẽ được trang bị những máy camera kỹ thuật số và máy chụp những thương tổn vùng da hoặc các triệu chứng khác, và họ sẽ kết hợp những hình ảnh chụp được vào hồ sơ bệnh án điện tử tổng quát hỗ trợ cho việc chản đoán ở nhà hoặc phục vụ cho việc xem xét lại sau này.

Việc theo dõi khuynh hướng sức khỏe lâu dài cho quân nhân phục vụ ở nhiều địa điểm đã tạo một điển hình tốt cho các ứng dụng dân sự. Với các hồ sơ kỹ thuật số chúng ta sẽ có thể nghiên cứu các chứng bệnh trong nhiều thành phần dân số khác nhau nhằm giúp phát hiện ra các trường hợp liên quan về lâu dài trong môi trường, bản chất di truyền, tuổi tác, và giới tính mà không cần phải tiến hành các nghiên cứu chuyên biệt. Có ít nhất một bệnh viện ở vùng miền Trung phía tây Hoa Kỳ đang tiến hành thử nghiệm theo dõi lâu dài mật độ bệnh nhân để xác định những phương pháp điều trị thích hợp nhất trong việc ngăn ngừa những căn bệnh hiểm nghèo hơn.

PHÁT TRIỂN MỘT HỆ THỐNG CHĂM SÓC SỨC KHỎE TOÀN DIỆN

Hãy thử hình dung trong cộng đồng khu vực bạn đang sống có một hệ thống chăm sóc sức khỏe được xây dựng dựa trên những thành phần mà tôi vừa mô tả. Một hệ thống cấp cứu thích ứng, thông minh, nhanh chóng đưa bạn vào bệnh viện, và toàn bộ những thông tin về tiền sử bệnh án cũng như tình trạng sức khỏe hiện thời của bạn ngay lập tức sẽ được đưa vào hệ thống máy tính trong bệnh viện. Bác sĩ sẽ sử dụng màn hình cảm ứng, bàn phím, viết hoặc hệ thống nhận giọng (không còn bao lâu nữa) để chỉ dẫn điều trị cho bạn. Những chỉ dẫn kỹ thuật số sẽ được gửi cấp tốc đến các phòng thí nghiệm và nhà thuốc. Phòng thí nghiệm được bố trí các phương tiện máy tính sẽ cho ra kết quả điện tử. Những bản báo cáo này sẽ được đưa lên mạng để các bác sĩ có thể dễ dàng xem xét ở mọi nơi. Hệ thống báo động sẽ tự động làm việc khi thấy xuất hiện bất kỳ mâu thuẫn tiềm ẩn nào trong điều trị hoặc những sai lệch so với phương pháp điều trị lâm sàng đã được tán thành và chấp thuận. Việc kiểm kê và làm hóa đơn cũng được giải quyết tự động. Những hệ thống xử lý giao dịch sẽ kiểm tra phát hiện những trường hợp gian lận hay lạm dụng và qua thời gian có thể đề ra những biện pháp đối phó thích hợp. Thay vì phải mất một nửa thời gian cho công việc giấy tờ, các bác sĩ và y tá giờ đây hầu như đã tận dụng hết thời gian của mình cho việc điều trị bệnh nhân. Kết quả kiểm tra và hóa đơn sẽ được chuyển đến bạn với ngôn ngữ đơn giản và dễ hiểu. Tất cả thông tin về thuốc và điều trị cho bạn sẽ được đánh giá tự động trong một khoảng thời gian dài để giúp ngăn ngừa những phản ứng bất lợi.

Y học từ xa cải thiện điều trị và phát triển đào tạo


Công nghệ video trên máy tính cũng đang góp phần thay đổi bộ mặt của nền y học. Acadian Ambulance dự tính sẽ kết nối các bác sĩ bằng hệ thống truyền hình vi tính với hơn một trăm chuyên viên y tế cấp cứu sẵn sàng trên những dàn khoan dầu ở Vịnh Mêhicô. Hệ thống thầy thuốc từ xa sẽ hoàn thiện cả về chẩn đoán lẫn điều trị trên mạng, hạn chế nhiều chuyến trực thăng cấp cứu làm hao tổn khoảng từ 4.000 đến 12.000 USD để trả cho các công ty xăng dầu trong mỗi chuyến đi.

Chính phủ Úc đã sử dụng hệ thống thầy thuốc từ xa để mang đến các dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho những vùng xa xôi ở ÚC và ngay cả cho những khu vực khác ở Đông nam Châu Á. Malaysia đang có kế hoạch sử dụng công nghệ truyền hình vi tính như một nền tảng của chương trình “chăm sóc sức khỏe từ xa” trên toàn quốc. Mục tiêu không chỉ là mang đến các dịch vụ chăm sóc sức khỏe đơn thuần mà còn đưa ra những chương trình phòng bệnh suốt đời nhằm giúp người dân tránh được những căn bệnh về tim cũng như những chứng bệnh có liên quan đến cách sống đã trở nên phổ biến ở Tây phương.

Bệnh viện Columbia/HCA ở Hoa Kỳ đang sử dụng video trên mạng Internet để đào tạo y tế cho các bác sĩ, trở thành bệnh viện đầu tiên thực hiện truyền trực tiếp ca mổ tìm trên mạng Internet. Các bác sĩ đã giải thích những kỹ thuật giải phẫu qua hình ảnh video, và việc trình bày tờ chiếu phụ thêm đã cung cấp những chi tiết về chuyên môn. Video có thể được chiếu lại bất kỳ lúc nào, do đó các bác sĩ phẫu thuật tại tất cả những phòng khám chữa bệnh và bệnh viện ở Columbia đều có thể đạt được sự thấu hiểu thông suốt đối với những kỹ thuật cao cấp không phải đã sẵn có dành cho họ.

Mạng Internet cũng đang được sử dụng để truyền đi rộng rãi những hội nghị y tế quan trọng dành cho những ai không thể tham dự trực tiếp. Buổi truyền thông đầu tiên vào mùa xuân năm 1998 đã truyền một lúc 2 hội nghị của đại học Johns Hopkins về chăm sóc sức khỏe lâm sàng và những vấn đề đối với các bệnh nhân bị nhiễm HIV. Hàng ngàn lượt người tham gia trên mạng đã gửi những thông tin phản hồi tích cực, khuyến khích đại học Johns Hopkins lập biểu thời gian truyền video đưa tin những cuộc hội nghị về AIDS – một trong những hội nghị sẽ được truyền thông bằng 3 ngôn ngữ – cũng như những hội nghị khác.

Việc theo dõi và tiếp tục chăm sóc sức khỏe cho bạn cũng được đưa vào lịch trình một cách tự động. Bạn có thể tìm thông tin y học trên mạng Internet để có kiến thức, hiểu biết nhiều hơn, gặp gỡ những người chăm sóc sức khỏe qua mạng Internet bằng thư điện tử hoặc hẹn gặp sau đó. Bạn có thể sử dụng thư điện tử để hỏi những câu hỏi thông thường về sức khỏe của mình và nhận được thư báo về các chương trình chăm sóc sức khỏe đang diễn ra, hoặc những dược phẩm sắp hết hạn. Khi bạn thay đổi những kế hoạch về sức khỏe của mình, toàn bộ bệnh án của bệnh sẽ đi theo cùng với bạn thay vì bị mất vài tháng sau đó. Bệnh án của bạn sẽ theo bạn suốt cuộc đời. Bác sĩ sẽ sử dụng bệnh án của bạn để theo dõi xu hướng về huyết áp, lượng cholesterol và những nhân tố khác để tìm ra những biểu hiện bộc lộ một căn bệnh hiểm nghèo nào đó đang phát triển.

Sự phân tích y học có hệ thống của toàn cộng đồng cảnh báo cho các nhà hình về các hệ thống dữ liệu bệnh nhân trong chương này, tất cả đều đã phất triển một cách độc lập, đã cùng bao quát hầu hết các khía cạnh của việc điều trị y học dài hạn cũng như ngắn hạn. Vì tất cả đã được xây dựng dựa trên nền máy tính nên chúng rất dễ để kết nối mà không cần tích hợp các hệ thống đắt tiền. Máy tính giờ đây cũng đang được sử dụng như một chương trình tương tác trực tiếp với các thiết bị chuyên dụng như máy siêu âm, máy nội soi cắt lớp, máy phân tích máu và mô, làm giảm chi phí và có thể tích hợp dữ liệu của chúng. Máy tính có đủ khả năng để xử lý hàng năm ngàn yêu cầu trong mỗi giờ và có thể kết nối vào các hệ thống chương trình phụ trợ sẵn cổ nếu tổ chức sức khỏe cần đến chúng. Tất cả những ứng dụng được mô tả trong chương này, nếu được thực thi như một giải pháp đơn lẻ, sẽ tốn dưới mức 5 triệu đôla (trích từ Tạp chí hình về các hệ thống dữ liệu bệnh nhân trong chương này, tất cả đều đã phất triển một cách độc lập, đã cùng bao quát hầu hết các khía cạnh của việc điều trị y học dài hạn cũng như ngắn hạn. Vì tất cả đã được xây dựng dựa trên nền máy tính nên chúng rất dễ để kết nối mà không cần tích hợp các hệ thống đắt tiền. Máy tính giờ đây cũng đang được sử dụng như một chương trình tương tác trực tiếp với các thiết bị chuyên dụng như máy siêu âm, máy nội soi cắt lớp, máy phân tích máu và mô, làm giảm chi phí và có thể tích hợp dữ liệu của chúng. Máy tính có đủ khả năng để xử lý hàng năm ngàn yêu cầu trong mỗi giờ và có thể kết nối vào các hệ thống chương trình phụ trợ sẵn cổ nếu tổ chức sức khỏe cần đến chúng. Tất cả những ứng dụng được mô tả trong chương này, nếu được thực thi như một giải pháp đơn lẻ, sẽ tốn dưới mức 5 triệu đôla (trích từ Tạp chí

Thuốc và Sức khỏe).

Đây không phải là số không đáng kể, nhưng con số này sẽ ít hơn nếu đem so với số tiền mà hầu hết các tổ chức sức khỏe chi dùng cho những giao dịch trên giấy tờ và các ứng dụng tin học ngày nay. Công việc giấy tờ đã chiếm 20% – 30% trong hơn 1 nghìn tỷ USD tổng thu nhập mỗi năm của nền công nghiệp chăm sóc sức khỏe Hoa Kỳ, tổng chi phí hiện thời lên đến 200-300 tỷ USD hàng năm – nhiều hơn tổng sản lượng quốc gia của nhiều nước gộp lại.

Ngày nay trở ngại lớn nhất trong việc cải tiến các dịch vụ chăm sóc bệnh nhân đó là thiếu những hệ thống thông tin trong văn phòng của các bác sĩ. Chĩ có khoảng 5% phòng mạch của bác sĩ tại Hoa Kỳ là có sử dụng các hệ thống máy tính trong việc khám chữa bệnh lâm sàng. Việc vi tính hóa một văn phòng bác sĩ sẽ tốn khoảng từ 10.000 cho đến 50.000

USD, nhưng các bác sĩ có thể nhanh chóng thu hồi lại các chi phí mà mình đã bỏ ra. Một phòng khám chữa bệnh với 5 bác sĩ tại Hammond, louisiana, đã đầu tư khoảng 50.000 USD để trang bị các hệ thống máy tính phục vụ trong việc nhập dữ liệu thông tin về bệnh nhân cho các bác sĩ một cách dễ dàng; phòng khám đã tiết kiệm được 60.000 USD trong năm đầu tiên.

Các nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe sẽ phải nỗ lực rất nhiều trong việc thay đổi cơ cấu hoạt động của hệ thống chăm sóc sức khỏe thông qua thông tin kỹ thuật số. Ngày nay công nghệ kỹ thuật luôn sẵn sàng mọi lúc mọi nơi. Sự đầu từ vào một cơ sở hạ tầng thông thường và đầu tư vào những công cụ sẽ không chỉ giảm chi phí rất đang kể mà còn mang lại sự điều trị sức khỏe tốt hơn cho tất cả mọi người. Sự thay đổi sẽ được chia làm 2 nhóm: những bệnh nhân am hiểu khăng khăng đòi hỏi phải có thêm nhiều thông tin và sự quan tâm hơn nữa đến sức khỏe của chính họ; và các chuyên gia sức khỏe có hiểu biết về mạng Internet sử dụng những công cụ mới này để mang đến sự chăm sóc tốt hơn cho bệnh nhân. Họ sẽ cùng nhau sử dụng một hệ thống thông tin kỹ thuật số để biến những “hờn đảo” chăm sóc sức khỏe tách biệt thành một “lục địa” thống nhất.

Bài học kinh doanh


  • Thời gian web đã giúp bệnh nhân hiểu rõ hơn và có trách nhiệm hơn đối với tình trạng sức khỏe của chính mình. Thời đại web cũng đã mang đến cho bệnh nhân và bác sĩ phương thức mới để giao tiếp cùng nhau.
  • Chăm sóc sức khỏe được quản lý chặt chẽ đã tạo ra sự thúc đẩy về kinh tế nhằm mở rộng những hệ thống thông tin đến phòng khám chữa bệnh lâm sàng, nhưng lợi ích thật sự của các hệ thống kỹ thuật số chính là việc chăm sóc sức khỏe cho bệnh nhân đã trở nên tốt hơn.
  • Những hệ thống kỹ thuật số đã mang đến cách thức mới để tạo ra một bức tranh toàn cảnh về tình trạng cũng như những nhu cầu của bệnh nhân ở khắp nơi trong toàn bộ chu trình chăm sóc y tế: dịch vụ cấp cứu, chăm sóc tại bệnh viện, duy trì sức khỏe và phân tích xu hướng bệnh trạng.

Chẩn đoán hệ thống thần kinh kỹ thuật số của bạn


  • Bạn có thiết kế các hệ thống y tế của mình với ý tưởng về dòng lưu chuyển dữ liệu liên tục của bệnh nhân từ dịch vụ cấp cự cho đến bệnh viện, bác sĩ hay không?
  • Những hệ thống kỹ thuật số có hỗ trợ cho các chuyên viên của bạn trong việc giảm thiểu thời gian vào công việc giấy tờ, thay vào đó là có thêm nhiều thời gian hơn để chăm sóc bệnh nhân? Những hệ thống kỹ thuật số của bạn có hỗ trợ cho các bác sĩ trong việc đưa ra quyết định của họ hay không?
  • Bạn có thể cung cấp dữ liệu của bệnh nhân cho tổ chức y tế khác một cách dễ dàng hay không nếu bệnh nhân của bạn cần được chăm sóc sức khỏe khi xa nhà?
  • Bạn đang chuẩn bị cho một ngày gần đây trong tương lai khi bệnh nhân yêu cầu được giao tiếp, trao đổi trên web?

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.