Vợ Người Du Hành Thời Gian

CHƯƠNG 28: ALBA, LỜI GIỚI THIỆU



Thứ Tư, 16/11/2011 (Henry 38 tuổi, Clare 40 tuổi)
HENRY: Tôi đang đứng trong phòng tranh chủ nghĩa Siêu Thực ở Viện Nghệ thuật Chicago trong tương lai. Tôi ăn mặc không được hoàn hảo; tất cả những gì tôi có thể kiếm được là một chiếc áo choàng mùa đông dài màu đen lấy từ phòng gửi áo khoác và quần từ tủ đồ của bảo vệ. Tôi đã tìm cách kiếm được một đôi giày, mà vốn luôn là thứ khó kiếm nhất. Tôi quyết định sẽ thó một chiếc ví, mua áo phông trong cửa hàng của bảo tàng, đi ăn trưa, ngắm tranh, rồi sẽ chuồn ra khỏi tòa nhà, vào trong thế giới của những cửa hàng và khách sạn. Tôi không biết mình đang ở thời gian nào. Ngoài kia, quần áo và đầu tóc không quá khác so với năm 2001. Tôi vừa phấn khích vì sự tạm trú ngắn ngủi này, vừa thấy phiền vì trong hiện tại của tôi, Clare sắp sửa sinh Alba bất kì lúc nào, và hiển nhiên tôi rất muốn có mặt trong thời khắc đó, nhưng mặt khác đây là một trong những lần du hành vào tương lai tốt đẹp đến bất bình thường. Tôi cảm thấy khỏe khoắn và rất thực, rất tốt. Vậy nên tôi đứng im lặng trong căn phòng tối với những chiếc hộp của Joseph Cornell được rọi sáng và ngắm nhóm học sinh đang đi theo một hướng dẫn viên, tay chúng cầm ghế và ngồi lên ngoan ngoãn khi bà ấy bảo chúng ổn định.
Tôi quan sát nhóm học sinh. Hướng dẫn viên, vẫn như thông thường, là một phụ nữ chải chuốt tuổi ngũ tuần với tóc vàng thường và khuôn mặt căng đét. Giáo viên, một cô gái trẻ vui tính tô son màu xanh nhạt, đứng sau đám học sinh, sẵn sàng chặn đứng đứa trẻ nào muốn gây náo loạn. Đám học sinh mới là những người khiến tôi hứng thú. Chúng chỉ chừng mười tuổi, tôi đoán khoảng lớp năm. Đây là học sinh trường Công Giáo nên chúng đều mặc quần áo giống nhau, sọc xanh cho các nữ sinh và xanh nước biển cho nam sinh. Chúng tỏ ra chăm chú và lễ phép, nhưng không hứng thú. Thật tệ. Tôi nghĩ Cornell sẽ rất hợp với lũ trẻ. Nhân viên hướng dẫn có vẻ nghĩ rằng chúng nhỏ hơn tuổi thực của chúng, bà ấy nói chuyện với chúng như thể chúng là những đứa trẻ mới chập chững biết đi. Cô bé ngồi hàng cuối có vẻ chăm chú hơn số còn lại. Tôi không thể nhìn thấy mặt cô bé. Cô bé có mái tóc đen dài quăn tít và bộ váy màu xanh con công, tách biệt cô bé khỏi đám bạn còn lại. Cứ mỗi lần hướng dẫn viên hỏi gì là tay cô bé lại giơ lên, nhưng bà hướng dẫn viên không bao giờ gọi cô bé. Tôi có thể thấy cô bé đang bắt đầu cảm thấy buồn chán.
Nhân viên hướng dẫn đang nói về những chiếc hộp Chuồng Chim của Cornell. Mỗi hộp là một sự trống trải vắng lặng, và nhiều trong số chúng có phần bên trong được sơn trắng, có cành chim đậu và những cái lỗ mà một cái nhà chim phải có. Một số hộp có các bức ảnh của những con chim trong đó. Chúng là những tác phẩm giản dị nhất, mộc mạc nhất của ông ấy, không có cái kì quái của Bộ Bong Bóng Xà Phòng hay cái lãng mạn của những chiếc hộp Khách Sạn.
“Các cháu nghĩ tại sao ông Cornell lại tạo ra những chiếc hộp này?” Hướng dẫn viên rạng rỡ nhìn lũ trẻ một lượt để tìm câu trả lời, tảng lờ cô bé xanh-con-công, người đang vẫy tay như thể cô bé bị động kinh. Một cậu bé ngồi hàng đầu bẽn lẽn nói rằng chắc hẳn người nghệ sĩ rất thích chim. Điều này vượt quá sức chịu đựng của cô bé. Cô bé đứng dậy, tay vẫn chĩa thẳng lên trời. Bà hướng dẫn viên bất đắc dĩ phải nói, “Sao?”
“Ông ấy đã làm ra những chiếc hộp này vì ông ấy cảm thấy cô đơn. Ông ấy không có ai để yêu. Ông ấy đã làm ra những chiếc hộp này để có thể yêu chúng, và để người khác biết đến sự tồn tại của mình, và vì những con chim là các sinh vật tự do, những chiếc hộp này sẽ là nơi ẩn náu của chúng để chúng cảm thấy an toàn, ông ấy muốn được tự do và an toàn. Những chiếc hộp này dành cho ông ấy để ông ấy có thể trở thành một con chim.” Cô bé ngồi xuống.
Tôi sửng sốt trước câu trả lời của cô bé. Lại có một cô bé mười tuổi đồng cảm được với Joseph Cornell. Cả bà hướng dẫn viên lẫn đám trẻ chẳng biết phản ứng thế nào trước điều này, nhưng cô giáo trẻ, người hiển nhiên đã quen với cách hành xử của cô bé, nói, “Cảm ơn em, Alba. Đó là một hiểu biết rất sâu sắc.” Cô bé quay đầu, mỉm cười cảm kích với cô giáo, và tôi đã có thể nhìn thấy mặt cô bé, tôi đang nhìn con gái mình. Tôi đang đứng ở phòng triển lãm ngay bên cạnh, nên tôi tiến thêm vài bước để nhìn con bé, để gặp con bé, và nó nhìn thấy tôi, khuôn mặt nó bỗng trở nên rạng ngời, và con bé nhảy lên, xô ngã chiếc ghế gấp nhỏ của nó, và trước khi tôi kịp nhận ra, tôi đã đang ôm Alba trong lòng, giữ nó thật chặt, khuỵu gối trước mặt con bé trong vòng tay, con bé không ngừng nói, “Bố ơi!”
Tất cả mọi người há hốc miệng. Cô giáo của con bé vội chạy lại.
Cô ấy nói, “Alba, đây là ai vậy? Xin lỗi ông, ông là ai vậy?”
“Tôi là Henry DeTamble, bố của Alba.”
“Đây là bố của em!”
Cô giáo lộ vẻ lo lắng. “Nhưng bố của Alba đã mất.”
Tôi không nói nên lời. Nhưng Alba, con gái của tôi đã giải cứu tình thế.
“Bố em đã chết”, con bé nói với cô giáo. “Nhưng không tiếp tục chết.”
Tôi lấy lại bình tĩnh. “Rất khó để giải thích…”
“Bố em là CDP”, Alba nói, “giống em”. Điều này có vẻ hoàn toàn hợp lí đối với cô giáo, cho dù tôi chẳng hiểu gì. Cô giáo hơi tái mặt bên dưới lớp trang điểm nhưng có vẻ cảm thông. Alba bóp tay tôi, ý con bé muốn bảo tôi hãy nói gì đi.
“Cô…”
“Cooper.”
“Cô Cooper, liệu tôi có thể gặp riêng Alba vài phút được không? Chỉ để nói chuyện, ở đây. Chúng tôi không được gặp nhau thường xuyên cho lắm.”
“Tôi… chúng tôi đang đi dã ngoại… với cả lớp… tôi không thể để ông tách cháu ra khỏi đoàn, và tôi không thực sự biết liệu ông có phải là ông DeTamble hay không…”
“Hãy gọi cho mẹ”, Alba nói. Con bé chạy lại cặp của mình và lôi ra một chiếc điện thoại di động. Nó bấm số và tôi nghe tiếng chuông reo, có người nhấc máy ở đầu bên kia và Alba nói, “Mẹ?… Con đang ở Viện Nghệ thuật… Không, con vẫn ổn… Mẹ ơi, bố đang ở đây! Mẹ hãy bảo cô Cooper đây thực sự là bố nhé?… Dạ, được ạ, chào mẹ!” Con bé đưa điện thoại cho tôi. Tôi ngập ngừng, lấy lại bình tĩnh.
“Clare?” Có tiếng thở vội vã. “Clare?”
“Henry! Ôi Chúa ơi, em không thể tin được. Hãy về nhà đi!”
“Anh sẽ cố…”
“Anh đến từ năm nào?”
“2001. Ngay trước khi Alba ra đời.” Tôi mỉm cười với Alba. Con bé đang tựa vào tôi, nắm tay tôi.
“Có lẽ em nên đến đó.”
“Như vậy sẽ nhanh hơn. Em có thể nói với cô giáo rằng anh thực sự là anh không?”
“Dĩ nhiên rồi. Anh sẽ đứng đâu đợi?”
“Trước những con sư tử. Hãy đến nhanh hết mức có thể. Anh không còn ở lại lâu.”
“Em yêu anh.”
“Anh yêu em, Clare.” Tôi ngập ngừng, rồi đưa điện thoại cho cô Cooper. Cô ấy và Clare trao đổi nhanh, Clare thuyết phục cô ấy để tôi đưa Alba tới cổng bảo tàng, nơi Clare sẽ gặp chúng tôi. Tôi cảm ơn cô Cooper, người đã rất đáng mến trước tình huống kì quái này. Tôi và Alba bước đi tay trong tay ra khỏi gian Morton, xuống những bậc cầu thang xoắn ốc và đi vào gian đồ gốm Trung Quốc. Tâm trí tôi đang hỗn loạn với những câu hỏi không biết phải bắt đầu từ đâu.
Alba nói, “Cảm ơn bố về những đoạn băng video, mẹ đã đưa nó cho con vào ngày sinh nhật.” Đoạn băng nào? “Con có thể mở ổ Yale và Master rồi, giờ con đang tập mở Walters.”
Ổ khóa. Con bé đang tập cạy khóa. “Tuyệt lắm. Hãy tiếp tục thực hành. Alba này.”
“Dạ?”
“CDP là gì?”
“Người dịch chuyển thời gian 1.” Chúng tôi ngồi lên chiếc ghế băng trước mặt con rồng bằng sứ đời Đường. Alba ngồi đối diện với tôi, tay đặt trên đùi. Con bé giống hệt tôi hồi mười tuổi. Tôi không thể tin chuyện này một chút nào. Alba thậm chí còn chưa ra đời mà giờ đã ngồi đây, lớn khôn như Athena sinh ra từ trán Zeus. Tôi cúi xuống ngang bằng con bé. “Con biết không, đây là lần đầu tiên bố gặp con.”
Alba mỉm cười. “Bố khỏe không?” Con bé là đứa trẻ điềm tĩnh nhất mà tôi từng gặp. Tôi chăm chú nhìn nó: Clare ở đâu trong đứa trẻ này? “Chúng ta có hay gặp nhau không?”
Con bé suy nghĩ. “Không nhiều ạ. Đã hơn một năm rồi. Con đã gặp bố vài lần khi con tám tuổi.”
“Bố mất khi con bao nhiêu tuổi?” Tôi nín thở. “Năm.” Chúa ơi. Tôi không thể đối mặt với chuyện này.
“Con xin lỗi! Con không nên nói ra điều đó?” Alba hối hận. Tôi ôm con bé vào lòng. “Không sao đâu. Là bố đã hỏi mà, phải không?” Tôi hít một hơi dài. “Mẹ con khỏe chứ?”
“Bình thường ạ. Mẹ lúc nào cũng buồn.” Điều này đâm xé ruột gan tôi. Tôi thấy mình không muốn biết thêm chuyện gì nữa.
“Còn con? Trường lớp thế nào? Con đang được học gì?”
Alba cười rạng rỡ. “Con không học nhiều ở trường, nhưng con đang đọc về tất cả các nhạc cụ thuở khai sinh, về Ai Cập, mẹ và con đang đọc Chúa tể của những chiếc nhẫn, và con đang học điệu tăng-gô của Astor Piazzolla.”
Ở tuổi lên mười? Trời đất quỷ thần ơi. “Còn vĩ cầm thì sao? Ai dạy con?”
“Ông nội.” Trong khoảnh khắc tôi đã tưởng con bé muốn ám chỉ ông nội của tôi, và rồi tôi nhận ra nó muốn nói đến bố tôi. Điều này thật tuyệt. Nếu bố chịu dành thời gian cho Alba, chắc hẳn nó phải chơi rất khá.
“Con chơi có giỏi không?” Một câu hỏi bất lịch sự làm sao.
“Có. Con rất giỏi.”
“Tạ ơn Chúa. Bố đã chẳng có năng khiếu âm nhạc một chút nào”.
“Đó là những gì ông nội vẫn thường nói.” Con bé khúc khích cười.”Nhưng bố thích âm nhạc.”
“Bố yêu âm nhạc. Bố chỉ không thể tự chơi nó.”
“Con đã nghe bà ngoại hát. Bà thật tuyệt vời.”
“Con đã nghe đĩa nào?”
“Con đã gặp bà trực tiếp. Ở rạp hát Lyric. Bà đã hát Aida.”
Bố em là CDP, giống em. Ôi, chết tiệt. “Con cũng du hành thời gian?”
“Dĩ nhiên rồi ạ.” Alba mỉm cười hạnh phúc. “Mẹ luôn nói con và bố giống hệt nhau. Bác sĩ Kendrick nói con rất phi thường.”
“Tại sao lại như vậy?”
“Đôi khi con có thể chọn thời gian và địa điểm con muốn đến.” Alba có vẻ tự hào với bản thân; tôi ghen tị với con bé.
“Con có thể không đi nếu con không muốn?”
“Không ạ”, con bé có vẻ ngượng ngùng. “Nhưng con thích du hành. Ý con là, đôi khi nó bất tiện, nhưng nó khá thú vị, bố biết mà?” Phải. Tôi biết.
“Nếu con có thể đi đến nơi con muốn, hãy đến thăm bố.”
“Con đã thử. Có lần con đã nhìn thấy bố trên đường; bố đang đi với một người phụ nữ tóc vàng. Bố có vẻ đang bận.” Alba đỏ mặt và đột nhiên hình ảnh Clare hiện lên nhìn tôi len lén chỉ trong một phần triệu giây.
“Đó là Ingrid. Bố đã hẹn hò với cô ấy trước khi gặp mẹ.” Tôi tự hỏi tôi đang làm gì lúc đó mà đến nỗi Alba phải ngượng ngùng; tôi cảm thấy một nỗi day dứt bùng lên, hối hận vì đã để lại hình ảnh tồi tệ trong tâm trí của cô con gái đáng yêu và trong sáng này. “Chúng ta nên ra ngoài đợi mẹ thôi?” Tiếng rè the thé đã bắt đầu vang lên, tôi chỉ hi vọng Clare sẽ đến kịp trước khi tôi biến mất. Alba và tôi đứng dậy rồi nhanh chóng ra ngoài. Trời đang vào cuối thu, Alba không mang theo áo khoác nên tôi choàng áo của tôi lên cả hai. Tôi tựa người vào phiến đá gra-nít đang đỡ cho một trong những con sư tử, mặt quay về hướng nam, và Alba tựa vào tôi, đút tay vào túi áo choàng, nép mình vào tấm thân trần của tôi, chỉ có đầu con bé ló ra ngoài. Một ngày mưa tầm tã. Giao thông đang chuyển mình bơi lội dọc đại lộ Michigan. Tôi say sưa trong tình yêu tràn ngập mà tôi dành cho đứa trẻ này, người đang nép vào tôi như thể con bé thuộc về tôi, như thể chúng tôi sẽ không bao giờ chia lìa, như thể chúng tôi có tất cả thời gian trên đời này. Tôi bám vào khoảnh khắc này, chiến đấu chống lại sự mệt mỏi và sự triệu hồi của thời gian của chính tôi. Hãy để tôi ở lại, tôi khẩn nài cơ thể của mình, khẩn nài Chúa, Đức Cha Thời Gian, và Santa, cầu xin bất kể ai đang lắng nghe. Hãy để tôi được gặp Clare, rồi tôi sẽ ngoan ngoãn trở về.
“Mẹ kia rồi”, Alba nói. Một chiếc xe màu trắng xa lạ đối với tôi đang phóng về phía chúng tôi. Nó tấp vào ngã tư và Clare nhảy ra, để mặc chiếc xe ở đó cản trở giao thông.
“Henry!” Tôi gắng chạy về phía cô ấy, và ngã xuống bậc tam cấp, tôi với tay về phía Clare. Alba đang ôm tôi và hét lên điều gì đó, Clare chỉ còn cách tôi vài bước chân. Tôi sử dụng chút ý chí cuối cùng để nhìn Clare, người có vẻ thật xa vời, và tôi nói rõ hết mức có thể, “Anh yêu em”, rồi biến mất. Chết tiệt.Chết tiệt.
7giờ 20 phút tối, thứ Sáu, 24/8/2001 (Clare 30 tuổi, Henry 38 tuổi)
CLARE: Tôi đang nằm trên chiếc đi-văng tả tơi trong vườn, sách và tạp chí nằm ngổn ngang xung quanh, cốc nước chanh đặt bên cạnh chỉ còn một nửa đã loãng đi vì những viên đá đã tan chảy. Trời đang bắt đầu mát hơn một chút. Không lâu trước đó trời nóng gần 30°C; giờ những cơn gió mát đang hiu hiu thổi và những con ve đang hát bài ca mùa hè muộn. Mười lăm chiếc máy bay đã vụt qua mặt tôi trên đường đi đến O’Hare từ khoảng không xa xăm bất định. Cái bụng căng tròn của tôi đang lù lù trước mặt, neo tôi lại với vị trí này. Henry đã biến mất từ tám giờ sáng hôm qua và tôi đang bắt đầu lo lắng. Lỡ như tôi trở dạ khi anh ấy không có ở đây? Lỡ như tôi sinh con mà anh ấy vẫn chưa về? Lỡ như anh ấy bị thương? Lỡ như anh ấy đã chết? Lỡ như tôi chết? Những suy nghĩ này đuổi nhau trong đầu tôi như những tấm khăn lông thú mà các quý bà ngày xưa vẫn hay quàng quanh cổ, với cái đuôi che miệng; chúng chạy vòng quanh không thôi cho đến khi tôi không thể chịu đựng thêm một giây phút nào nữa. Thông thường tôi gặm nhấm nỗi lo trong vòng xoáy của các hoạt động; tôi lo lắng cho Henry trong lúc đang dọn dẹp xưởng hay đang giặt chín mẻ quần áo, hay đang kéo ba chồng giấy nặng. Nhưng giờ tôi chỉ nằm đây, mắc kẹt vì cái bụng trong ánh nắng cuối ngày ngoài sân trong lúc Henry đang ở ngoài kia làm những việc chỉ có Chúa mới biết. Ôi, Chúa. Hãy mang anh ấy trở về. Ngay bây giờ.
Nhưng chẳng có gì xảy ra. Ông Panetta lái xe vào hẻm, cửa ga-ra của ông ấy mở ra ầm ĩ rồi đóng lại. Một chiếc xe tải GoodHumor đến rồi đi. Những con đom đóm bắt đầu cuộc hoan lạc của chúng. Vẫn không có Henry.
Tôi bắt đầu đói. Tôi sẽ chết đói trong khu vườn này vì Henry không có ở đây để nấu bữa tối. Alba đang cựa quậy. Tôi cân nhắc việc đứng dậy và đi vào bếp chuẩn bị gì đó để ăn. Nhưng rồi tôi quyết định làm một việc mà tôi vẫn hay làm mỗi khi Henry không ở bên cạnh để nấu cho tôi. Tôi đứng dậy chậm rãi, và thong dong bước vào trong nhà. Tôi tìm túi xách của mình, bật điện, rồi đi ra ngoài cửa trước và khóa lại. Thật dễ chịu khi được di chuyển. Một lần nữa tôi ngạc nhiên, rồi ngạc nhiên vì thấy mình ngạc nhiên, rằng tôi chỉ to bự ở một phần của cơ thể, như một người phẫu thuật thẩm mỹ bị hỏng, như những phụ nữ của các bộ lạc Âu Phi, những người mà quan điểm về cái đẹp là phải có cổ, môi và dái tai dài cực độ. Tôi giữ thăng bằng cơ thể của mình và Alba, và trong điệu nhảy song sinh của người Xiêm này, chúng tôi đi về phía nhà hàng Thái Opart.
Bên trong nhà hàng mát mẻ và chật kín người. Tôi được dẫn tới chiếc bàn cạnh cửa sổ. Tôi gọi nem cuốn và Pad Thai với đậu phụ, nhạt nhẽo và an toàn. Tôi uống hết cốc sữa. Alba tựa người vào bàng quang của tôi; tôi vào nhà vệ sinh và khi quay lại, thức ăn đã được dọn ra. Tôi ăn. Tôi hình dung ra câu chuyện sẽ nói với Henry nếu anh ấy ở đây. Tôi tự hỏi anh ấy đang đi đâu. Tôi lục tìm trong trí nhớ để so sánh Henry đã biến mất khi đang mặc quần ngày hôm qua có giống với bất kì Henry nào tôi đã gặp lúc còn nhỏ hay không. Thật lãng phí thời gian; tôi sẽ chỉ đợi anh ấy kể cho tôi nghe khi trở về. Có thể anh ấy đã trở về. Tôi phải ngăn mình không lao ra khỏi nhà hàng để đi kiểm chứng. Món ăn tiếp theo được mang tới. Tôi vắt chanh lên mì và xúc vào miệng. Tôi tưởng tượng ra Alba, nhỏ xíu và đỏ hỏn, đang cuộn tròn bên trong tôi và ăn Pad Thai bằng đôi đũa nhỏ mảnh dẻ. Tôi tưởng tượng ra cảnh tôi đang nói chuyện với mái tóc đen dài và đôi mắt xanh. Con bé mỉm cười nói, “Cảm ơn mẹ”. Tôi mỉm cười và đáp lại, “Không có gì, đó là hạnh phúc của mẹ.” Con bé có một con thú nhồi bông nhỏ trong đó, nó đặt tên cho con thú là Alfonzo. Alba đút đậu phụ cho Alfonzo ăn. Tôi dừng bữa. Tôi ngồi đó nghỉ ngơi chốc lát.
Có ai đó ở bàn bên cạnh châm thuốc. Tôi trả tiền và đứng dậy ra về.
Tôi lảo đảo đi qua đại lộ Western. Một chiếc xe chở các thanh niên Puerto Rico đang hét gì đó với tôi nhưng tôi không kịp nghe. Về đến hiên nhà, tôi lần mò tìm chìa khóa và Henry mở bật cửa, nói, “Tạ ơn Chúa”, rồi vung tay ôm chặt lấy tôi.
Chúng tôi hôn nhau. Tôi nhẹ nhõm khi thấy anh ấy trở về đến nỗi mất vài phút tôi mới nhận ra anh ấy cũng cực kì nhẹ nhõm khi thấy tôi trở về.
“Em đã ở đâu vậy?” Henry hỏi.
“Opart. Anh đã ở đâu?”
“Em không để lại lời nhắn, khi anh trở về và không thấy em, anh đã tưởng em đang ở bệnh viện. Nên anh gọi điện, nhưng họ nói em không có ở đó…”
Tôi phá lên cười không ngừng. Henry có vẻ bối rối. Khi cuối cùng cũng có thể dừng lại, tôi bảo anh ấy, “Giờ thì anh đã hiểu cảm giác đó như thế nào.”
Henry mỉm cười. “Anh xin lỗi. Anh không biết em đang ở đâu nên hốt hoảng. Anh tưởng anh đã không kịp chứng kiến Alba ra đời.”
“Anh đã ở đâu?”
Henry cười toe toét. “Em sẽ không thể tin nổi đâu. Đợi đã, hãy ngồi xuống nào.”
“Hãy nằm xuống đi. Em mệt quá.”
“Em đã làm gì ngày hôm nay?”
“Nằm vất vưởng khắp nơi.”
“Khổ thân, thảo nào em mệt.” Tôi đi vào phòng ngủ và bật điều hòa lên rồi kéo rèm. Henry biến mất vào trong bếp rồi quay trở ra với hai li đồ uống trên tay. Tôi ngọ nguậy nằm xuống giường rồi nhận lấy li nước gừng. Henry đá giày ra rồi nằm xuống cùng tôi với cốc bia trên tay.
“Kể cho em nghe đi.”
Henry nhướn một bên mày, mở miệng ra rồi lại đóng. “Anh không biết phải bắt đầu từ đâu.”
“Nhanh nào.”
“Phải nói rằng đây là một trong những điều kì cục nhất xảy ra với anh từ trước đến nay.”
“Kì hơn cả anh và em?”
“Phải. Chuyện anh và em là lẽ thường tình của tự nhiên con trai gặp con gái…”
“Kì hơn cả việc nhìn mẹ anh qua đời hết lần này đến lần khác?”
“Đến giờ đó chỉ còn là một việc tồi tệ quen thuộc. Nó là một cơn ác mộng mà anh thường mơ thấy. Còn việc anh vừa trải qua thật không tưởng.” Anh ấy đưa tay vuốt bụng tôi. “Anh đã đi đến tương lai. Anh đã thực sự ở đó, em hiểu không? Hoàn toàn khỏe mạnh và tỉnh táo. Và anh đã gặp cô con gái rượu này của chúng ta.”
“Ôi Chúa ơi. Thật sao? Đáng ghen tị quá đi.”
“Phải. Con bé khoảng mười tuổi. Nó thật tuyệt vời… nó thông minh và có năng khiếu âm nhạc… và rất tự tin, không gì có thể khiến nó lúng túng.”
“Con bé trông như thế nào?”
“Giống anh. Một phiên bản nữ của anh. Ý anh là, con bé rất đáng yêu, nó có đôi mắt của em, nhưng về cơ bản rất giống anh: tóc đen, trắng, có chút tàn nhang, miệng con bé nhỏ hơn của anh khi bằng tuổi nó, và tai nó nhỏ gọn. Con bé có mái tóc xoăn dài, đôi bàn tay giống như của anh với những ngón tay dài, và cao ráo… Nó giống như một con mèo nhỏ.”
Hoàn hảo. Hoàn hảo.
“Anh sợ rằng gen của anh đã truyền lại cho nó. Nhưng tính cách của nó thì giống hệt em. Con bé có phong thái thật đáng kinh ngạc… Anh đã nhìn thấy nó giữa đám học sinh ở Viện Nghệ thuật và nó đang nói về những chiếc hộp Chuồng Chim của Joseph Cornell, nó đã lột tả chính xác những gì Cornell muốn gửi gắm… và bằng cách nào đó, anh có thể biết nó là con của chúng ta. Và con bé nhận ra anh.”
“Dĩ nhiên nó nhận ra.” Có điều tôi phải hỏi, “Con bé có… nó có phải…?”
Henry ngần ngại. “Có”, cuối cùng anh ấy nói. “Đúng vậy.” Cả hai chúng tôi im lặng. Anh ấy đưa tay vuốt má tôi. “Anh biết.”
Tôi muốn khóc lên.
“Clare, con bé có vẻ hạnh phúc. Anh đã hỏi nó… nó nói nó thích du hành thời gian.” Anh ấy mỉm cười. “Con bé nói việc đó rất thú vị!”
Chúng tôi bật cười, lúc đầu có chút buồn bã, nhưng rồi tôi phận ra, và chúng tôi cười như điên dại cho đến khi hai má đau nhức, cho đến khi nước mắt chảy ròng xuống má. Bởi vì, dĩ nhiên rồi, việc đó thú vị. Rất thú vị.
——————————–
1 Nguyên gốc: Chrono-Displaced Person.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.