Phong Thủy & Các Cách Hóa Giải
CHƯƠNG III PHẨM CHẤT MỘT KHU, MỘT THỬA ĐẤT
I. QUAN ĐIỂM VỀ PHẨM CHẤT MỘT KHU ĐẤT, MỘT THỬA ĐẤT
Thuật phong thủy đánh giá về một khu đất hay về một thửa đất theo phẩm chất chứ không tính đến kích cỡ to hay nhỏ của khu đất hay thửa đất đó.
Phẩm chất theo nghĩa phong thủy đánh giá là các tác nhân xung quanh và của chính thửa đất đó. Nói cụ thể hơn, đó là quang cảnh của khu đất, của thửa đất ấy.
Quang cảnh gồm có quang cảnh tự nhiên và quang cảnh nhân tạo (do con người tạo nên mà có). Dù đó là quang cảnh tự nhiên hay nhân tạo, nó đều tác động đến khu đất hay thửa đất ấy. Vì vậy, quang cảnh làm nên phẩm chất của khu đất hay của thửa đất. đây ta cũng đừng lầm tưởng quang cảnh với môi trường hay phong cảnh.
Môi trường hay phong cảnh là những phạm trù rộng. Quang cảnh gồm những thực thể rất cụ thể, tác nhân cụ thể, ảnh hưởng cụ thể tới sinh khí và ác khí, tới “điềm lành” và “điềm dữ” đối với khu đất, thửa đất.
QUANG CẢNH THIÊN TẠO VÀ NHÂN TẠO
1. Những quang cảnh thiên tạo có ý nghĩa phong thủy
Quang cảnh thiên tạo, ví dụ:
Sông, ngòi, rạch, lạch, suối nước, thác nước.
Ao, hồ (tự nhiên), đầm, phá, bờ biển, vịnh.
Cây lớn, lùm cây rậm rạp (tự nhiên không do người trồng).
Mạch nước ngầm.
Núi, đồi, đụn, đống có các hình dạng cụ thể.
Đống đá, hòn đá cuội to, đụm đá, cột đá có dạng thể rõ ràng (tự nhiên).
Khe, thung lũng.
Bình nguyên.
Cồn cát, triền cát, đồng cát.
Sa mạc…
2. Các quang cảnh nhân tạo có ảnh hưởng nhiều tới phong thủy
Quang cảnh nhân tạo bao gồm:
Kênh đào, mương, máng nước, nông giang.
Hồ chứa nước, ao đào, đập chứa nước.
Bồn phun nước, bể nước lớn, nhỏ.
Vòi nước.
Giếng đào, giếng khoan nước.
Hệ thống ống nước cấp nước, cống thoát nước thải.
Hệ thống ống dẫn hơi ga đốt.
Vườn, vườn hoa, ruộng bậc thang.
Đường lộ, đường phố, ngõ, ngách, hẻm, đê, đập.
Đường sắt.
Cầu, cống nổi, cống ngầm.
Đường hầm, đường tầu hỏa, tàu điện ngầm.
Các ngả đường giao cắt nhau.
Hầm mỏ.
Cột điện, cột đèn.
Hệ thống cáp điện treo, cáp điện ngầm, cáp viễn thông…
3. Các thực thể công trình kiến trúc ảnh hưởng tới phong thủy
Ví dụ:
Nhà, chung cư, cao ốc, dinh thự, lâu đài, lều quán.
Nhà thờ, đền, chùa, am, miếu, đình, tháp.
Trụ đá, tường ngăn, rào chắn cứng.
Hòn non bộ, núi giả.
Cổng chào, lễ đài, đài thờ.
Đài tưởng niệm, các loại tượng.
4. Các nơi công cộng, công sở đặc hữu có ảnh hưởng tới phong thủy
Ví dụ:
Chợ, trường học, bệnh viện. Khu hành chính, ngân hàng.
Quảng trường.
Pháo đài
Đồn, bốt, điếm canh
Thành quách.
Đồi nhân tạo…
5. Những thực thể, thuộc về kỹ nghệ… có ảnh hưởng tới phong thủy
Ví dụ:
Ống khói.
Tháp cao
Bồn chứa ga, xăng dầu, bồn nước, hệ thống đun nước nóng.
Kho chứa, kho lạnh, khu nhà xác.
Hệ thống quạt phát điện hay bơm nước lớn dựng đơn hay dựng thành hàng dài.
CÁC TÁC NHÂN LÀM MẤT CÂN BẰNG ÂM DƯƠNG
Khu hay một nhà, một kho v.v… cũng có thể làm mất cân bằng Âm Dương
Sự mất cân bằng Âm Dương sẽ làm cho vùng lân cận những tổn hại phong thủy và qua đó làm con người sống ở vùng đó sẽ kém dần sức lực, hay ốm đau, tật bệnh, suy kiệt thể xác.
2. Những tác nhân làm mất cân bằng Âm Dương
– Kho bảo ôn, kho lạnh.
Những nơi này, sức lạnh lấn áp sức nóng. Sức nóng duy trì sự sống. Cái lạnh thì làm ngưng đọng sự sống.
Theo thuyết Âm Dương, sự mất cân bằng nóng (thuộc Dương) và lạnh (thuộc Âm) sẽ ảnh hưởng lớn đến sự sống còn của mọi sinh vật.
– Khu lò nung, lò luyện kim, nồi hơi.
Ngược lại với “khu lạnh” các nơi có những lò nung (vôi, gạch, gốm v.v…), các lò luyện kim (thép, hợp kim) hay các nồi hơi (nơi chứa hơi nóng, đun hơi nóng) để sưởi ấm khu nhà, hay chạy máy móc v.v…
Những thứ kể trên phát ra liên tục sức nóng (thuộc Dương) làm hao tổn khí mát (thuộc Âm). Như vậy Âm Dương bị phá vỡ sự cân bằng. Hậu quả là những ai sống gần đó, sẽ suy kiệt sức lực, đau đầu, bệnh tật liên miên.
– Khu nhà xác:
Khu nhà chứa xác chết là nơi đầy “ác khí” về mặt phong thủy. Nó bao gồm “Âm Vượng” theo tâm linh; theo y học “sát khí” do khí độc mang bệnh tật từ các xác chết thoát ra v.v…
Tất cả các thứ đó đều thuộc “Ác khí” theo quan điểm phong thủy hay khoa học. Nó đồng thời làm mất đi sự cân bằng Âm Dương của cả khu vực.
3. Các ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe
Dễ bị bệnh tật bất ngờ.
Tâm trạng bi quan triền miên.
Tính tình u buồn.
– Tình cảm luôn bị xáo động, dần dần lãnh cảm.
Tóm lại, các thứ làm mất cân bằng Âm Dương đều gọi là tác nhân của phong thủy không có lợi cho khu đất và thửa đất.
Chất lượng khu đất, thửa đất là xét đến những thực thể thiên tạo hay nhân tạo trong các lĩnh vực du lịch, xã hội, sinh hoạt, kiến trúc, kỹ thuật, quân sự… gây nên những giá trị phong thủy tốt hay xấu, ảnh hưởng tới đời sống con người ở các khu vực đất đó.
IV. TÁC NHÂN LÀM THAY ĐỔI HƯỚNG KHÍ VÀ SỰ CÂN BẰNG ÂM DƯƠNG
1. Tác động thay đổi hướng khí
Làm thay đổi hướng khí hoặc để điều chỉnh hướng khí hoặc phản chiếu hướng khí để làm thay đổi giá trị phong thủy là tấm gương phẳng hay các mặt phẳng bóng sáng khác.
Để làm thay đổi hướng khí, nhà phong thủy dùng tấm gương phẳng hướng “sinh khí” vào vị trí mà nhà phong thuỷ thấy cần thiết.
Điều chỉnh hướng khí được thực hiện qua một chiếc gương cố định nhằm tạo ra một tia phản chiếu xiên qua một vị trí cố định. Ví dụ giường kê, bàn đặt không đúng đường chéo với cửa ra vào ta đặt một chiếc gương chính ở vào một vị trí cố định sao cho tại giường nằm, bàn làm việc, ta chỉ liếc qua gương đã thấy được cửa ra vào.
Để phản lại ác khí, nhà phong thủy cũng dùng tấm gương đặt trực diện với những thứ tạo ra ác khí, nhằm tránh luồng ác khí xâm nhập vào nhà.
Gương phản chiếu này là tấm gương phẳng; ta có thể đặt ở nhiều vị trí ở ngoài, ở trong căn hộ để phản chiếu lại vật tạo ra ác khí, ác vật v.v…
Ví dụ, ta có thể đặt một gương phẳng chân tường, trước nhà để phản chiếu một góc cạnh của nhà phía trước.
Ta cũng có thể đặt ở sau cửa sổ để phản lại ác khí của một cây to trước cửa sổ.
Ta cũng có thể treo một chiếc gương phẳng trên một cánh cửa nào đó trong nhà để phản chiếu những sai sót về phong thủy.
2. Gương phẳng giúp khắc phục thiếu sót của ngôi nhà
Trong một ngôi nhà xây bị thiếu hụt một góc nào đó, ta dựng tấm gương phẳng để bổ khuyết.
Nhà bị hẹp một chiều nào đó, tấm gương phẳng sẽ giúp mở rộng kích thước ảo, nó làm cho ta cảm giác dài hay rộng thêm.
Vậy gương phẳng hay các mặt phẳng sáng bóng là tác nhân gây hại, đồng thời nó cũng là công cụ hữu dụng cho phép phong thủy sửa chữa các sai lệch.
PHONG THỦY VỚI CÁC THUYẾT – LÝ
Phong thủy với thuyết Âm Dương
Thuyết Âm Dương Trung Hoa đã là chỗ dựa cho những luận giải của thuật phong thủy. Các nhà nghiên cứu lý thuyết phong thủy cũng như các nhà thực hành phong thủy (các thầy địa lý) Trung Hoa trước tiên và sau đó là tất cả các nhà phong thủy Á châu đều cảm nhận trước một thực thể của một khu đất hay một thửa đất. Họ cũng dựa vào thuyết Âm Dương để đề xướng các phép sửa chữa những sai lệch của nhiều vấn đề về phong thủy.
Sự mất cân bằng Âm Dương làm cho mọi vật trong tự nhiên rối loạn. Âm Dương duy trì sự sống nhờ nó bổ sung cho nhau. Trong Dương có Âm và trong Âm có Dương. Hai siêu lực điều phối và thông suốt trong tự nhiên. Dịch lý biểu hiện tượng của Âm Dương bằng lưỡng nghi – Trắng và đen. Nhất nguyên vũ trụ sinh ra lưỡng nghi. Lưỡng nghi bắt đầu phân chia ra cấp ba là tứ tượng: nước, lửa, đất, khí. Quan điểm này ngay cả những nền văn minh cổ đại Inca, Phi châu, Trung Cận Đông cũng đã đề cập tới cái gọi là “Tứ Linh”: Đất, nước, lửa, khí – Phương Bắc, phương Nam, phương Đông và phương Tây… Tất cả gộp vào nghĩa tứ (bốn) cái gốc trong mọi sự biến thể sinh diệt, sống chết. Cái gốc là từ sự hợp đồng hay chia tách của Âm Dương.
(Sẽ trình bày thuyết này ở phần sau)
Tượng của Âm Dương
2. Phong thủy với thuyết Ngũ Hành
Ngũ Hành là một thuyết được các nhà trí giả Trung Hoa đề xướng từ thời vài nghìn năm trước Công nguyên.
Thuật phong thủy vận dụng rất nhiều về kiến thức Ngũ Hành. Bất cứ một dạng thể nào của thế giới vật chất và các thực thể sống… đều quy thuộc về một Hành trong Ngũ Hành:
Ngũ Hành gồm: Kim, Thủy, Mộc, Hỏa, Thổ thành một vòng sinh liên hoàn không dứt.
Và Thủy, Hỏa, Kim, Mộc, Thổ thành một vòng khắc chế cũng liên hoàn tuần tự không ngừng.
Thuật Phong thủy áp dụng Ngũ Hành để chỉ ra tính chất của một khu đất hay một thửa đất. Từ cách nhận định như vậy, thuật phong thủy đề xướng vào các môi trường một khu đất hay một điểm đất. Nhà địa lý khuyên nên ứng xử thế nào để ta có thể thu hoạch được những cái lợi mà tính chất môi trường đem lại.
Ngũ Hành có các tượng nhằm cụ thể hóa khi ta quan sát. (Thuyết Ngũ Hành sẽ trình ở phần sau để tham khảo)
Tượng của Ngũ Hành Thủy, Mộc, Hỏa, Thổ, Kim
A. THUYẾT ÂM DƯƠNG
I. ĐÔI NÉT VỀ THUYẾT ÂM DƯƠNG
1. Đôi nét
Học thuyết Âm Dương ra đời từ Trung Quốc cổ xưa. Nó đã trở thành một quan niệm triết học của cả một thời gian dài vài ba nghìn năm. Đến nay, thời đại mà triết học duy vật biện chứng thịnh hành cùng với các trường phái triết học khác thì thuyết Âm dương vẫn được nhiều học giả Trung Quốc, nơi khởi nguồn của thuyết này, ứng dụng trong nghiên cứu các môn dự đoán học như các ngài: Thiệu Vĩ Hoa, Lương Dịch Minh, Mã Trung Tôn v.v…
Trung Quốc các sách về dự đoán vẫn được mọi người đón nhận và hoan nghênh như dự đoán theo tứ trụ, chu dịch với dự đoán học, thiên địa nhân (Đàm thiên thuyết địa luận nhân). Đặc biệt là Kinh dịch đã được hẳn một viện nghiên cứu ứng dụng đảm trách. Kinh dịch được châu Âu nghiên cứu chuyên sâu. Các tác phẩm trên đều dựa trên thuyết Âm dương và thuyết Ngũ hành.
2. Các quan niệm
Theo các học giả Trung Quốc thì thuyết Âm Dương vẫn là cái gốc để suy luận, là nền tảng của sự ra đời nhiều môn. Nó được luận giải nhiều hiện tượng, nhiều chuyên ngành với những thực tế ứng dụng hiệu quả như: dự báo, đông y, hình sự, quân sự, thế biến, địa biến, thiên biến v.v…
Thuyết Âm Dương cho thấy sự hình thành và biến hóa của mọi vật, phát triển của tất thảy đều do sự vận động của hai khí Âm và Dương. Thuyết này quy tụ các quy luật âm dương thống nhất và đối lập, sinh và huỷ đi cùng nhập và tách của âm dương. Nó thật đơn giản mà sâu xa, kỳ bí.
3. Ứng dụng thuyết Âm dương
Thuyết Âm dương không chỉ được ứng dụng rộng rãi ở quê hương ra đời của nó hơn hai nghìn năm trước Công nguyên và trường tồn đến ngày nay sau hơn hai nghìn năm, nó còn được lan truyền khắp Á châu sang Âu châu và ngay cả Mỹ châu, Úc châu… Cũng nghiên cứu.
Thật kỳ lạ, nếu cứ suy xét kỹ càng thì nhiều hiện tượng của giới tự nhiên đều trở nên dễ hiểu, dễ lý giải mà không cần phải có học thức cao siêu gì. Một người dân bình thường cũng dễ dàng trả lời trước một hiện tượng nào đó. Ví dụ giải thích về sự chết là “thoát dương rồi – lạnh rồi” tức sự tách giữa khí âm và khí dương đã xảy ra. Và như vậy là đã xảy ra quá trình huỷ. Sự sống có sinh và có huỷ, sinh là quá trình kết hợp âm và dương, huỷ là quá trình tách ra của âm và dương.
4. Sự mất cân bằng Âm Dương và hậu quả
Sự mất cân bằng âm dương tạo ra biến loạn. Ví như trong cơ thể người khi có sự cân bằng âm dương con người sẽ khoẻ mạnh, bệnh tật khó xâm phạm, Lục phủ ngũ tạng yên ổn. Tam bảo (tinh, khí, thần) sẽ hùng mạnh, khi sự cân bằng bị suy giảm làm cho các chuyển hoá cơ bản nhất bị rối loạn thì sức đề kháng yếu đi, bệnh tật có cơ hội phát sinh xâm phạm trong cơ thể.
Trời đất mất cân bằng âm dương thì: hoặc mưa nhiều gây lũ lụt, gió bão, sấm chớp, hoặc nắng lắm gây khô kiệt tạo hạn hán, hoả hoạn khô héo v.v…
Vì thế mà ông Thiệu Vĩ Hoa (TQ), một dự đoán gia tài ba của thế kỷ 20 – 21 nay vẫn thường nói thuyết Âm dương là do tầng lớp lao động sáng tạo ra rằng: “Học thuyết Âm dương là nhân dân lao động Trung Quốc thông qua sự quan sát các hiện tượng, sự vật mà chia mọi vật trong vũ trụ thành hai loại Âm Dương. Từ đó xây dựng nên tư tưởng duy vật biện chứng pháp sơ lược….”.
NGUỒN GỐC RA ĐỜI CỦA THUYẾT ÂM DƯƠNG
Nguồn gốc
Theo các học giả Trung Quốc thì thuyết Âm dương đã được hình thành từ thời Hoàng Đế (năm 2879 – 253 trước công nguyên) tương đương thời 18 đời vua Hùng – Lạc Long Quân và Hùng vương của Việt Nam.
Minh chứng cho điều này, các nhà khoa học Trung Quốc đã dẫn ra trong kinh dịch với sự xuát hiện hào dương (-) và hào âm (- -). Mà trong Bát Quái thì hào Âm và hào Dương đã được nói đến trong sách cổ “Liên Sơn” đời nhà Hạ. Và nữa, trong sách “kinh Sơn Hải” có câu: “Phục Hy (tức vua phục Hy trước vua Thần Nông, Trung Quốc) được Hà Đồ”. Do đó người Hạ gọi “Liên Sơn”.
Sau thời Hoàng đế đầu nhà Hạ, nhà Thương gọi là “Quy Tàng” trong “Liên sơn” có Hà Đồ, sách “bát quái liên sơn” đời nhà Hạ là do hai hào âm và dương cơ bản nhất cấu thành.
2. Những luận cứ
Từ những luận cứ trên mà các học giả Trung Quốc từ cổ chí kim đều thống nhất thuyết Âm dương được hình thành từ đời nhà Hạ là có căn cứ vững chắc.
Về vấn đề thống nhất thuyết Âm dương như thế nào và xác minh nó ra sao là việc của chính các học giả Trung Quốc, ở nơi mà nó ra đời, bàn thảo tiếp. Chúng ta chỉ đề cập để tham khảo mà thôi.
III. NỘI DUNG CỦA THUYẾT ÂM DƯƠNG
Thuyết Âm dương đề cập tới năm quy luật chính: Âm dương thuộc tính, âm dương đối lập, âm dương là gốc của nhau, âm dương biến hoá và âm dương vận hành.
Năm nội dung cơ bản trở thành thuyết Âm dương là cơ sở triết lý của nhiều môn, ngành. Nó soi rọi thêm phương hướng suy luận và phương pháp nghiên cứu mang tính khoa học.
1. Thuộc tính Âm và Dương
Tiêu chuẩn để phân biệt thuộc tính âm, dương trong sự vật và hiện tượng.
Dương là sự biểu lộ của trời (càn – thiên) là nam, cha, vua chúa, bề trên, sang trọng (trời sang đất hèn) ban ngày, ánh sáng, sức nóng, năng lượng, sức mạnh mang tính dương, mầu trắng, sự chuyển động mạnh mẽ, bằng phẳng, náo nhiệt, hưng phấn… Thuộc tính mạnh.
Âm: biểu lộ (khôn – đất) là nữ, mẹ, yếu, bóng tối, đêm, mặt trăng, mềm mại, thụ động, lạnh, tính trầm, màu đen… thuộc tính yếu mềm.
Âm, dương là một hệ thống “nhị nguyên” mang những thuộc tính trái ngược nhau nhưng lại bổ trợ nhau trong đối lập.
2. Âm Dương đối lập
Bên trong vạn vật hiện tượng đều đồng thời tồn tại hai thuộc tính âm và dương đối lập nhau tạo nên sự cân bằng bổ trợ thúc đẩy sự hình thành, phát triển và cũng đồng thời tàng chứa sự mất cân bằng giúp sự đối lập phát triển để đi tới sự phân tách – quá trình phân huỷ.
Trong bát quái, âm và dương được biểu hiện bằng hai màu đối nghịch: trắng, đen để thể hiện âm và dương “nhị nguyên” và lại quấn vào nhau để nói lên sự hoà hợp, hỗ trợ đồng thời phát sinh như quy luật phát triển: Sinh và diệt. Vì vậy trong “chu dịch càn tại đô” viết rằng: “càn, khôn là căn bản của âm dương, là tổ tông của vạn vật…” quy luật âm và dương đối lập và thống nhất xuyên xuốt trong tất cả sự vật và biểu tượng. Không có sự vật biểu tượng nào mà không mang hai thuộc tính âm dương và tàng ẩn quy luật đối lập và thống nhất của nó.
Sự hợp nhất âm dương để sinh và huỷ. Trong sinh có huỷ, trong huỷ có sinh, cái nọ là gốc của cái kia, cái này là nguyên nhân của cái kia. Nó đồng thời tồn tại trong một thể đối lập – Thống nhất.
3. Âm Dương là gốc của nhau
Như đã thấy âm dương trong vạn vật vừa đối lập lại vừa thống nhất, chúng dựa vào nhau để tồn tại, âm và dương luôn lợi dụng nhau để phát triển. Tác động qua lại đó là sự tồn tại, không có âm thì không có dương tồn tại. Nói cách khác nếu không có dương thì âm không thể tồn tại và phát triển và ngược lại.
Trong một hệ thống “nhị nguyên” có thể nói là không có sự thuần dương hay thuần âm. Sự tách bạch âm dương khi đứng riêng lẻ khi đó là “hư không” là quá trình hủy. Tuy vậy không phải là một trạng thái biệt lập lâu dài mà tự nó đang sinh trưởng và thực hiện giai đoạn chuyển hoá. Ta đi đến một quy luật tiếp của thuyết.
4. Âm Dương biến hoá
Âm dương là hai thuộc tính khác biệt trong một thực thể. Nhưng cả âm và dương đều có quy luật biến hoá.
Dưới những điều kiện nhất định thì cái này sẽ chuyển hoá sang bên kia. Ở đây nói sự dịch chuyển mà không biến mất thuộc tính riêng biệt. Song chỉ khi nào âm và dương kết hợp thì mới thúc đẩy sinh thành và phát triển trong “Hệ từ” viết: “… Âm dương hợp đức thì cương nhu thành hình…”
Điều đó nói lên tuy âm và dương đối lập nhưng phải dựa vào nhau và hợp nhất bền vững cân bằng mới cùng tồn tại lâu dài được.
Sự tách biệt tương đối để rồi lại thiết lập sự thống nhất mới, cái gọi là tách biệt chỉ thuần tuý ý niệm để xét thuộc tính, còn thực ra luôn luôn trong cái gọi là Âm vẫn đang tàng ẩn dương và cái gọi là dương vẫn có âm. Đó là sự chuyển hoá; thuần dương và thuần âm chỉ là khái niệm. Trong cha (dương) vẫn tàng âm mới thành hình người nam. Và trong mẹ – âm vẫn tàng dương (cha, mẹ là thực thể), nếu không có hai thuộc tính đó thì không có thực thể. Không nên hiểu sai lệch, nhầm lẫn thuộc tính với thực thể, thuộc tính chỉ một, còn thực thể có cả hai nhưng đã ở thể thống nhất. Chỉ khi nào sự mất cân bằng âm dương trong thực thể thì mới bộc lộ đơn tính có thuần tính rõ ràng, sự chuyển hoá không còn nữa.
Hỏa vương là do thủy suy hay do thủy quá suy so với “mức cân bằng” mà hỏa trở nên vượng, như vậy trong trường hợp này phải hiểu hỏa vượng xảy ra trong 2 trường hợp: Hỏa thực vượng do một lý do nào đó, điều kiện sung nạp nào đó làm hỏa tăng lên quá mức phá vỡ thế cân bằng đã có. Trường hợp thứ hai Âm suy – không còn giữ được “mức cân bằng” cần thiết bởi một lý do, bởi một điều kiện nào đó làm cho Hỏa được coi là Vượng – Giả Vượng. Song theo quy luật đối lập hợp nhất và quy luật chuyển hóa Âm dương “mức cân bằng tương đối” lại được thiết lập lại. Hai quy luật này không xảy ra trong một thực thể thì sẽ là tiền đề của quá trình “hủy” để thiết lập một sự cân bằng mới trong một thực thể mới.
Cần phải hiểu tính quy luật chỉ mang tính chất chi phối và tất yếu chứ nó không phải là một yếu tố chi phối thực sự.
Âm và Dương là hai thuộc tính khác biệt nhau nhưng lại có thể chuyển hóa lẫn nhau. Âm cực sinh Dương; Dương cực sinh Âm, “luôn luôn sinh” là “biến” và “chuyển”. Sự chuyển hóa Âm Dương lẫn nhau là quy luật phát triển tất yếu của sự vật. Và như vậy nếu mọi thứ đều tuân thủ theo quy luật cân bằng phát triển thì luôn tạo ra sự phát triển hài hòa, giúp sự tồn tại lâu bền. Nếu có sự lệch lạc, mất cân đối sẽ tạo ra sự không bền vững.
5. Âm Dương vận hành
Âm Dương vận hành nghĩa là nó luôn ở thế động. Đó là một quy luật.
Âm Dương ở bất cứ một thực thể nào nó vẫn luôn vận động và như vậy sự cân bằng ở trong thực thể là cân bằng động. Có như vậy nó mới thúc đẩy sự phát triển và mới là quy luật của sự phát triển. Thế cân bằng cũ bị phá vỡ theo quy luật vận hành Âm Dương thì thế cân bằng mới được thiết lập ngay. Nó phù hợp quy luật biến hóa của Âm Dương. Nhờ sự không ngừng chuyển hóa tự nhiên mà vũ trụ và sự vật, hiện tượng luôn thay đổi, luôn vận động. Sự sinh và huỷ, thay thế nhanh là không ngừng. Đó là sự vận động của Âm Dương. Hết ngày lại đêm, hết sáng lại tối. Nóng đi lạnh đến… cứ thế không ngừng chuyển đổi. Âm mạnh lên thì Dương yếu và Dương yếu thì Âm mạnh. Nhưng Âm và Dương tương hợp cho nên đi đến một thế cân bằng mới nhờ quy luật vận hành mà Âm và Dương luôn tìm đến một cân bằng để hòa quyện giúp sinh trưởng và phát triển không ngừng.
Nếu Âm Dương không có quy luật vận hành thì mọi thực thể sẽ giữ nguyên trạng thái ban đầu sẽ không có cái cũ và cái mới. Nhờ quy luật vận hành của Âm Dương mà cái mới sinh rất hay thế cái cũ. Sự phá vỡ cân bằng cũ nhanh hay chóng là tùy vào khả năng duy trì của thực thể. Tuyệt nhiên nó không theo muốn áp đặt. Từ quy luật luôn vận hành của Âm Dương mà không có gì có thể vĩnh cửu. Trường tồn thì có, chứ vĩnh cửu thì không!
Tất cả sự vật, hiện tượng đến con người, vũ trụ cũng không nằm ngoài quy luật này của thuyết Âm Dương.
B. THUYẾT NGŨ HÀNH
I. VÀI Ý KIẾN VỀ THUYẾT NGŨ HÀNH
Sau thuyết Âm Dương, thuyết Ngũ Hành kế tiếp ra đời. Thuyết Ngũ Hành ra đời giải thích thêm sự vật, hiện tượng một cách rõ ràng hơn, hợp lý hơn với quy luật sinh khắc vô thường.
Mọi biến đổi, phát triển của thực thể được thuyết này lý giải và là cơ sở nhận thức hiện tượng, sự vật của người cổ xưa Trung Hoa. Tư tưởng triết học của họ soi sáng nhiều ngành trong nghiên cứu và ứng dụng, thuyết Âm dương là nguyên lý và thuyết Ngũ hành là quy tắc. Dựa vào hai thuyết đó, người ta lý giải các hiện tượng tự nhiên, xã hội và con người, qua đó nhiều môn ngành có phương hướng phát triển, mở rộng. Trong thực tế ở Trung Quốc, từ đời nhà Chu qua thời Chiến Quốc đến nhà Hán v.v… nhiều môn, ngành như đông y, chiêm bốc, dịch lý, thuật số… phát triển trên cơ sở, lý thuyết và quy tắc Âm Dương và Ngũ Hành. Qua các ứng dụng đó cho thấy giá trị thực tiễn của Ngũ hành. Ngày nay lý thuyết và quy tắc Âm Dương và Ngũ Hành vẫn ngự tại; làm cơ sở lý giải và ứng dụng, mặc dù sự có mặt của các trường phái triết học khác nhau: Triết học duy vật biện chứng, triết học duy tâm, duy lý v.v… thì âm dương, ngũ hành vẫn chiếm một vị thế khó phủ định. Nhất là trong Đông y, nó vẫn là cơ sở nhận thức cơ bản để cứu chữa bệnh tật cho con người. Hai vế lo của con người là: bệnh tật và tai họa, thì thuyết Âm Dương và thuyết Ngũ Hành đã và đang làm cơ sở lý luận và ứng dụng rộng rãi. Nó thiết thực và hữu dụng để xử lý hai mối lo đó của con người hiện đại.
1. Quan niệm Ngũ Hành trong y lý
Chữa bệnh có y lý (lý luận Đông y) không chỉ đang còn thịnh hành ở Trung Quốc mà hầu hết các lương y, ngay cả một số bác sỹ (Tây y) ở nhiều nước trên thế giới cũng đều coi hai thuyết này là cơ sở nhận thức bệnh học hữu ích. Nó soi sáng phần nào mọi khía cạnh của bệnh lý của con người; làm cơ sở cho phương thuốc điều trị.
2. Quan niệm Ngũ Hành trong y mệnh
Để phòng chữa tai họa, người ta có y mệnh. Đó là sự tìm đến các môn dự báo, dự đoán như: dự báo khí tượng, dự đoán vận hạn đất nước, xã hội, con người trong các thời vận bằng dự đoán học mà hai thuyết Âm Dương và Ngũ
Hành đều có mặt trong Dịch, Lý, Số v.v… Tất cả các môn đó nhằm phần nào biết trước vận hạn: lành, dữ để phòng tránh hay khắc trừ đem lại sự an bình cho con người.
Quy tắc Ngũ Hành tương sinh tương khắc đã chế hóa vạn vật trong nguyên lý Âm Dương biến hóa, đối lập mà thống nhất. Các môn dự đoán đều dựa trên hiện tượng và thực thể cụ thể cho trước, có trước rồi trên cơ sở của nguyên lý Âm Dương và quy tắc của Ngũ Hành mà suy luận dự đoán cho điều sắp xảy tới. Việc giải một “phương trình” để tìm ẩn số “mệnh” ở đây không khác gì giải phương trình để tìm ẩn số trong toán học. Cũng có những dữ kiện đã cho, đã có, đã biết mà đi tìm kết quả nhờ quan hệ giữa chúng. Nhưng để mang tính khoa học thì kết quả của các môn thuật số chỉ là dự đoán. Dự đoán y mệnh càng có cơ sở vững chắc ngoài nguyên lý Âm Dương còn phải cần đến quy tắc của Ngũ Hành. Vì vậy quy tắc Ngũ Hành được thịnh hành là thế.
II. SỰ RA ĐỜI CỦA THUYẾT NGŨ HÀNH
Theo các quan điểm nghiên cứu và những luận cứ mà nhiều nhà khoa học Trung Quốc, nhiều nhà sử học và dân tộc học của đất nước mà nó ra đời vẫn chưa thống nhất về mặt thời gian ra đời của thuyết Ngũ Hành.
Một điều chắc chắn mà tất cả họ đều nhất trí. Đó là thuyết Ngũ Hành có sau thuyết Âm Dương. Thuyết Âm Dương ra đời thời nhà Hạ chưa đủ lý giải hiện tượng. Dịch ra đời từ thời Chu có đề cập đến Âm Dương Ngũ Hành vậy thì nó – thuyết Ngũ Hành có thời khai sinh giữa khoảng hai triều Hạ – Chu. Trong khi quãng thời gian này nằm vào thời Ân Thương 1800T đến 1240T (trước công lịch) của Trung Hoa.
Vấn đề là trong giới học giả Trung Quốc vẫn tồn tại 3 ý kiến trái ngược nhau.
1. Một vài ý kiến
Một số cho rằng thuyết Ngũ Hành ra đời gần như đồng thời với thuyết Âm Dương chỉ sau một chút ít về mặt thời gian.
2. Ý kiến của giới khoa học
Giới sử học lại cho rằng thuyết Ngũ Hành là do Mạnh Tử sáng lập ra. “…
Mạnh Tử là người đầu tiên sáng lập ra Ngũ Hành. Mạnh Tử nói năm trăm năm tất có Vương Giả Hưng (từ Nghiêu Thuấn đến Vu Khang là hơn năm trăm năm)…” sách “Trung Quốc thông sử giản biên của Phạm Văn Lan” (Trung Quốc). Nhưng chính ông lại phủ nhận “… Mạnh Tử không tin Ngũ Hành bác bỏ thuật chiêm bốc dùng ngũ sắc thanh long để định cát hung. Điều đó đủ thấy thời Đông Chu thuyết Ngũ Hành đã thông dụng rồi, đến Trâu Diễn nó càng được thịnh hành…” sách đã dẫn. Luận cứ rằng Mạnh Tử sinh thời Chiến Quốc – Đông Chu liệt quốc. Mà thời này thuyết Ngũ Hành đã được ứng dụng lâu rồi.
Cùng với can – chi, nó được phổ biến trong nhiều môn thuật số chiêm bốc.
3. Nhận xét về các ý kiến
Vậy thì những ý kiến cho rằng thuyết Ngũ Hành ra đời vào thời kỳ nhà Hán do Đổng Trọng Thư đề xướng lại càng không có lý. Vì Hán ra đời sau cả Tần Thủy Hoàng (năm 246T – 210T). Nhà Tần (Thủy Hoàng) lại ra đời cuối Đông Chu.
Trong khi giới triết học và khảo cổ học lại khẳng định Ngũ Hành có trong bộ sách “Thượng Thư” thời chiến quốc (TQ) đã nói: “… Ngũ Hành: Thủy, Hỏa, Mộc, Kim, Thổ: thủy thuận dưới nước, hỏa nóng bốc trên. Mộc cong, thẳng. Kim sắc cắt đứt. Thổ là trồng trọt” theo sách “ảnh hưởng của học thuyết Âm Dương Ngũ Hành với khoa học truyền thống Trung Quốc”.
Như vậy đủ thấy nguồn gốc ra đời của thuyết thì rõ là của Trung Quốc cổ đại. Còn thời gian ra đời của nó thì còn mơ hồ. Đến các học giả Trung Quốc còn tranh biện chưa ngã ngũ. Song việc ứng dụng quy tắc này mặc nhiên tồn tại.
III. NỘI DUNG THUYẾT NGŨ HÀNH
Thuyết Ngũ Hành được ứng dụng với những quy tắc tương sinh tương khắc và phản ngược của tương sinh tương khắc; sự thái quá của từng hành. Nó giúp cho lý giải, ứng dụng phù hợp đối với từng sự việc, hiện tượng của thiên nhiên, xã hội, con người…
1. Đặc tính của Ngũ Hành
Ngũ Hành gồm năm hành: Thủy, Hỏa, Kim, Mộc, Thổ.
Mỗi hành có đặc tính riêng biệt, hình thái và biểu lý phương cách khác nhau.
Hành Thủy có đặc tính hàn lạnh, hướng xuống, thâm trầm, thể hiện màu đen, uyển chuyển…
Hành Hỏa có đặc tính nóng, bốc lên, sung lực, sắc đỏ, không hòa hoãn…
Hành Kim có đặc tính sắc bén, thụ sát, thanh tĩnh, biểu hiện sắc trắng, nhu động…
Hành Mộc đó là tính sinh sôi nảy nở, thẳng ngay, cong dài với sắc khí xanh, dịu êm…
Hành Thổ – đất có tính nuôi dưỡng, che trở, hóa dục với sắc vàng nâu…
Với Ngũ Hành chính là sự so sánh biểu lý. Nó quy tụ những đặc tính cơ bản. Nó tàng ẩn trong sự vật hiện tượng mà từ đó sự so sánh để đi đến một lý giải hợp lý.
Nhờ có Ngũ Hành với đặc trưng biểu lý mà mọi sự vật, hiện tượng có thể quy vào một Hành đặc trưng nào đó. Nhờ thế mà việc nắm bắt các thuộc tính của sự vật, hiện tượng một cách dễ dàng. Nó khái quát hóa thuộc tính. Nó đi từ khó hiểu, trừu tượng đến sự rõ ràng, dễ hiểu dễ biết để nhận biết một thực thể nào đó.
Nói Hành Hỏa thì mơ hồ nhưng nói sắc đỏ, nóng, bốc v.v… thì hiểu ngay.
Đấy là thuộc tính làm cho dễ nhận biết Hành Hỏa.
2. Quy luật sinh khắc của Ngũ Hành
Quy luật tương sinh và tương khắc là hai phạm trù đối lập nhau như Âm và Dương. Gọi là phạm trù vì quy luật tương sinh tương khắc bao hàm rộng lớn của sự sinh trưởng và kiềm chế, diệt, khắc để luôn cố gắng giữ thế cân bằng trong tự nhiên, xã hội cũng như trong con người. Không có tương sinh thì không có tương khắc. Bởi nếu chỉ sinh không thôi thì vạn vật phát triển đến hỗn loạn, rồi tự diệt. Vì vậy phải có sự khắc chế để kìm hãm, chế ngự. Nhờ đó sự phát triển hài hòa được tạo lập. Sự hiện diện hai mặt đối lập: không có cái này thì không có cái kia và ngược lại không có cái kia thì không có cái này. Cứ thế, hai vế dựa vào nhau làm cơ sở cho sự phát triển của vạn vật trên thế gian. Như vậy, trong sinh có khắc; trong khắc có sinh. Sinh khắc không ngừng thì đương nhiên sẽ là sự phát triển không ngừng. Cái này sinh cái kia nhưng lại bị cái kế tiếp khắc chế. Một chuỗi mối liên quan tạo ra sự phát triển cân đối và hài hòa.
Một lúc nào đó quy luật tương sinh và tương khắc bị vi phạm sẽ xảy ra quá sinh và quá khắc.
Quá sinh sẽ dư thừa Quá khắc sẽ bị triệt tiêu
Sự dư thừa dẫn đến nội sinh theo quy luật sinh tồn Âm Dương mà cố gắng trở lại thế cân bằng. Sự triệt tiêu sẽ ra đời thực thể khác tự sinh cũng theo quy luật sinh tồn của tạo hóa.
Tương sinh tương khắc là sự tương đồng sinh khắc để thúc đẩy sự vật phát triển sinh trưởng bình thường giữ sự biến hóa không ngừng. Không có sinh thì sự vật không phát triển. Không có khắc thì không thể duy trì thế cân bằng được.
– Sự sinh khắc trong ngũ hành.
+ Tương sinh là bổ trợ cùng thúc đẩy phát triển và trợ giúp nhau.
Trong tương sinh gồm các quan hệ hành là: Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc.
Như vậy tương sinh là một vòng khép kín tạo sự liên quan tương hỗ cho sự sinh sôi nảy nở là liên hoàn trong tự nhiên theo ý nghĩa biểu lý chứ không phải theo nghĩa thực thể, thô thiển.
Tương khắc là hai Hành có nghĩa chế khắc nhau, khống chế nhau nhằm kìm hãm sự phát triển vô độ. Tương khắc cũng là sự liên hoàn khắc chế: Mộc khắc Thổ. Thổ khắc Thủy. Thủy khắc Hỏa. Hỏa khắc Kim. Kim khắc Mộc.
Như vậy sự khắc chế không phải theo nghĩa cũng chỉ mang ý nghĩa biểu lý hoàn toàn phù hợp chứ thực thể thô thiển mà hiểu vậy.
Mối liên quan biểu lý liên hoàn chứ không gián đoạn. Hiểu một cách giản đơn thực thể là: Cái sinh ra tôi là cha, cái tôi sinh ra là con. Cái ngang hàng với tôi là anh em, ví dụ Thổ Sinh Kim thì Thổ là cha mẹ của Kim, Kim sinh Thủy và Kim khắc Mộc, Kim và Kim cùng loại ngang nhau là anh em.
Mối liên hoàn liên tục còn phân ra “quan gửi” và “thê tài” đối với nam thì “thê tài” là vợ và của cải, đối với nữ thì “quan gửi” vừa là quan vừa là chồng, cho nên trong ngũ hành thể hiện quan hệ biểu lý.
Thổ sinh Kim thì Thổ là cha mẹ của Kim, Hoả khắc Kim thì Hỏa là quan gửi của Kim. Kim lại khắc Mộc nên Mộc là thê tài (vợ của) của Kim. Kim lại sinh Thủy, thì Thủy là con cái của kim.
Mối quan hệ biểu lý thứ bậc ấy mà hiểu Kim và kim là ngang vai cùng lứa.
Sự sung khắc đều là “tương”. “Tương” vừa mang ý nghĩa đồng, cùng nhau, sự hỗ trợ qua lại mà có. Chứ riêng lẻ thì không có ý nghĩa gì. “Tương” còn có ý là tương đối. Cái tương sinh hay tương khắc là quy luật tương đối, không phải tuyệt đối giống như quy luật “lượng đổi thì chất đổi” trong triết học duy vật biện chứng. Ở đây quy luật tương sinh tương khắc cũng phải có một lượng nào đó để đạt đến mức mới đạt được khắc và cũng từ đó mới sinh ra cái mới. Ví dụ hành Hỏa muốn khắc được Mộc thì Hỏa phải đủ mạnh mới có tác dụng. Lửa đèn, lửa nến làm sao đốt được rừng rậm (đại mộc lâm) để rồi sinh ra thổ. Cái nghĩa tương đối là như vậy. Hỏa khắc Mộc sinh Thổ. Như vậy Hỏa phải đủ lượng mới làm được việc “khắc” và sinh, vì vậy mà thuyết ngũ hành còn có quy luật phản ngược.
3. Quy luật phản ngược của ngũ hành
Trong ngũ hành có quy luật tương sinh và tương khắc song đấy là mối quan hệ thuận chiều. Đây là nói “Lượng đổi” để “chất đổi” sức mạnh của khắc chế chỉ thực hiện được khi bản thân nó đủ mạnh. Nhưng trong phạm trù sinh khắc rất rộng lớn giữa các hành và trong từng hành ví dụ Hành Thủy có biển, sông, suối, ao, đầm, giếng. Hành Thổ có đại địa thổ, bích thượng thổ v.v… Tức có đất đường cái, đất nền nhà, vách đất v.v…
Đừng nghĩ đơn giản Thổ khắc Thủy là khắc được đâu; mà vách đất thì sẽ bị nước lũ làm rữa cuốn trôi đi mà thôi. Như vậy không phải “mạnh” khắc “yếu” mà cũng xuất hiện cái “yếu” xung khắc ngược lại, suy khắc vượng, “yếu” khắc “mạnh” là thế. đây mạnh yếu, suy vượng chỉ các hành với ý nghĩa biểu lý, nó không hàm chứa nghĩa thô thiển, cái nghĩa biểu lý. Thổ vượng thì Mộc suy chứ không thuần tuý Mộc vượng thì Thổ suy, mà ở đây là Mộc bị Thổ khắc rồi. Thuận và nghịch tương quan. Cũng như vậy theo quy luật khắc chế đảo của ngũ hành ta có: Mộc vượng thì Kim suy. Kim vượng thì Hỏa suy, Hỏa vượng thì Thủy kiệt. Thủy vượng thì Thổ tàn. Thổ vượng thì Mộc úa. Cứ thế vòng phản ngược của ngũ hành cũng liên hoàn giống quy luật tương sinh tương khắc.
4. Quy luật thịnh quá hóa thừa
Thuyết Ngũ Hành còn quy luật thịnh làm thừa, trong ngũ hành thì bất cứ hành nào cũng bị quy luật này chi phối. Sự phát triển cực thịnh sẽ dẫn đến thừa và thừa sẽ đưa đến suy. Như vậy trong thịnh đã tàng ẩn mầm suy vong.
Phàm vật quá rắn thì dễ vỡ, thứ cứng quá thì dễ gẫy v.v… sự thịnh phát quá là thừa mà dư thừa sẽ dẫn đến suy là vậy.
Ngũ hành có quy luật này để làm rõ thêm nghĩa phản ngược nội ứng cơ sở của nghĩa suy khắc vượng. Yếu khắc mạnh.
5. Bàn về quy luật tương sinh tương khắc trong ngũ hành
Ngũ hành tương sinh tương khắc kế tiếp thuyết âm dương làm cho cơ sở luận lý thêm sáng tỏ và việc ứng dụng trở nên có ý nghĩa bao trùm.
Hai thuyết song hành bổ trợ. Lý thuyết âm dương như là gốc là nguyên lý để các quy tắc ngũ Hành có thể phát huy trong nhiều môn, ngành một cách hiệu quả mà người xưa (Trung Hoa) đắc dụng.
Trong thực tế, khi nói đến ngũ hành người ta thường nghĩ ngay quy luật sinh khắc của thuyết này. Chẳng thế mà trong dân gian chỉ hiểu đơn thuần một chiều “sinh” hay chiều “khắc” mà ứng dụng, hay giải thích. Người ta thường quên rằng ngũ hành còn có quy luật phản ngược và thịnh quá hóa dư. Hai quy luật này mới đủ bộ ba để ứng dụng thêm phong phú và lý giải được nhiều vấn đề thực tiễn xẩy ra. Đừng nghĩ là Thủy thì không làm bạn với Thổ vậy Thủy thì không lấy được Hỏa. Phát biểu như vậy là không hiểu thấu lý thuyết ngũ Hành và cũng không phù hợp nhiều hiện tượng thực tiễn hiện có. Nhờ tính hữu dụng của thuyết lý mà nó đã và vẫn được ứng dụng trong nhiều môn, ngành. Nó vẫn cuốn hút sự quan tâm của nhiều học giả đam mê nghiên cứu các môn gọi là “Huyền học”.
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.