Lựa Chọn Của Trái Tim
PHẦN I – CHƯƠNG 1
Tháng Năm, 1996
“Nhắc lại hộ tớ sao mà tớ lại đồng ý giúp cậu chuyện này.” Matt, mặt đỏ gau, càu nhàu, tiếp tục đẩy cái bồn tắm nước nóng về phía hố vuông mới đào bên mép hiên nhà đằng anh. Chân anh trượt đi, và anh cảm nhận được mồ hôi đang đổ từ trán xuống khóe mắt, cay cay. Trời nóng, quá nóng so với thời tiết bình thường vào đầu tháng Năm. Càng nóng thê thảm hơn với vụ này, chắc chắn. Ngay cả con chó của Travis, con Moby, cũng đang trốn trong bóng râm thở hổn hển, lưỡi thè ra.
Travis Parker, người đang đẩy cái thùng đồ sộ kế bên, cố nhún vai. “Thì bởi cậu tưởng nó sẽ vui,” anh nói. Anh hạ vai và đẩy mạnh; cái bồn tắm nước nóng – phải nặng đến gần hai tạ – nhích thêm được vài phân nữa. Cứ đà này, cái bồn tắm sẽ yên vị, ừm… phải đến tuần sau.
“Thật là vớ vẩn,” Matt nói, dồn toàn bộ sức lực đẩy cái thùng, bụng nghĩ cái họ đang thực sự cần là một đàn la kìa. Cái lưng của anh đang giết anh. Đã có lúc anh hình dung hai tai mình bị thổi bay khỏi đầu vì sức ép, bắn về hai ngả như quả rocket làm bằng chai mà anh với Travis từng phóng hồi còn nhãi ranh.
“Cậu vừa mới nói thế rồi.”
“Và chả vui vẻ gì sất,” Matt càu nhàu.
“Thì cậu cũng vừa nói thế xong.”
“Mà nó chả dễ lắp đâu đấy.”
“Chắc chắn là dễ,” Travis nói. Anh đứng thẳng và chỉ vào dòng chữ trên chiếc thùng. “Thấy chưa? Nói ngay ở đây này, ‘Lắp đặt đơn giản’.” Từ chỗ của nó dưới bóng cây, Moby – một con boxer thuần chủng – sủa như thể đồng tình, và Travis mỉm cười, trông có vẻ quá ư tự đắc.
Matt nhăn nhó, hổn hển. Lúc này anh ghét cái vẻ mặt đó thế. Không hẳn lúc nào cũng vậy. Hầu như anh luôn khoái cái vẻ hăng hái bất tận của ông bạn. Nhưng không phải hôm nay. Dứt khoát không phải là hôm nay.
Matt với lấy chiếc khăn tay trong túi quần sau. Nó đẫm mồ hôi, đương nhiên là đã để lại những vệt kỳ lạ trên mông quần. Anh lau mặt rồi xoắn mạnh vắt cái khăn. Mồ hôi rỉ ra từ đó như vòi nước bị rò xuống giày anh. Anh nhìn nó chằm chằm như bị thôi miên, trước khi cảm thấy mồ hôi thấm qua lớp vải mỏng, cho những ngón chân một cảm giác dễ chịu, nhơn nhớt. Ồ, chẳng phải là rất thú vị sao?
“Theo như tớ nhớ, cậu bảo rằng Joe và Laird sẽ đến đây giúp chúng ta thực hiện cái ‘kế hoạch nho nhỏ’ này của cậu, rằng Megan và Allison sẽ làm bánh kẹp, chúng ta sẽ nhậu nhẹt, và – đúng thế đấy, rằng lắp đặt cái này chỉ mất vài giờ là cùng.”
“Thì họ đang đến mà,” Travis nói.
“Cậu nói thế cách đây bốn tiếng rồi đấy.”
“Chắc họ đến muộn chút thôi.”
“Cũng có khi cậu chưa từng gọi cho họ.”
“Dĩ nhiên là tớ đã gọi rồi. Vả lại họ còn mang theo lũ nhóc nữa. Cam đoan đấy.”
“Thế khi nào?”
“Sớm thôi.”
“Hừ,” Matt đáp. Anh nhồi lại cái khăn vào túi quần. “Và nhân tiện – giả dụ họ không đến sớm, thế quái nào mà cậu nghĩ hai ta có thể hạ nổi cái của nợ này vào đúng chỗ?”
Travis gạt bỏ khúc mắc bằng một cái phẩy tay khi anh quay lại với chiếc thùng. “Bọn mình giải quyết được tốt. Cứ xem chúng ta đã làm khá thế nào đủ biết. Chúng ta đã đi được nửa đường rồi.”
Matt lại nhăn nhó. Hôm nay là thứ Bảy – thứ Bảy! Ngày để anh thư giãn và giải trí, cơ hội để anh thoát khỏi mớ công việc căng thẳng, những giờ phút nghỉ ngơi anh kiếm được sau năm ngày ở ngân hàng, cái thứ ngày anh cần phải có. Anh là một nhân viên cho vay tín dụng, vì Chúa! Anh có nhiệm vụ làm giấy tờ sổ sách, chứ không phải đẩy bồn tắm nước nóng! Lẽ ra anh đã có thể xem đội Braves đấu với đội Dodgers! Anh đã có thể đi đánh golf! Anh đã có thể tới bãi biển! Anh đã có thể ngủ nướng cùng Liz trước khi đến nhà bố mẹ cô như thường lệ vào hầu hết các ngày thứ Bảy, thay vì thức dậy từ lúc tờ mờ sáng và thực hiện cái công việc chân tay suốt tám tiếng liên tục dưới ánh mặt trời miền Nam oi bức thế này…
Anh ngừng lại. Anh đang lừa phỉnh ai vậy? Nếu anh không ở đây, anh dứt khoát đang phải mất cả ngày ở chỗ bố mẹ Liz, mà điều này, thành thật mà nói, là lý do chính khiến anh đồng ý với lời đề nghị của Travis. Nhưng đấy không phải vấn đề. Vấn đề là, anh không đáng phải thế này. Thật sự là không.
“Tớ không đáng phải thế này,” anh nói. “Thật sự là không.”
Travis dường như không nghe thấy bạn. Hai tay anh để sẵn trên thùng, và anh đã vào vị trí. “Cậu sẵn sàng chưa?”
Matt hạ vai xuống, cảm thấy đau đớn. Hai chân anh đang run. Run bắn! Anh biết sáng nay mình sẽ bị đau nghiêm trọng mà, đau kiểu xứng đáng với một liều thuốc giảm đau gấp đôi! Không giống Travis, anh không tài nào tới phòng tập bốn ngày một tuần, hoặc chơi quần vợt, hoặc chạy bộ, hoặc lặn ngụp tại Aruba, hoặc lướt sóng ở Bali, hoặc trượt tuyết tại Vali, hay bất kỳ cái gì khác mà ông bạn vẫn làm nổi. “Chả vui vẻ gì sất, cậu biết chưa?”
Travis hấp háy mắt. “Cậu vừa mới nói rồi, nhớ chứ?”
“Chà!” Joe bình phẩm, nhướng một bên mày khi đi quanh cái bồn nước nóng. Khi ấy mặt trời bắt đầu lặn, từng luồng ánh sáng vàng óng phản chiếu lên từ vịnh biển. Đằng xa, một con diệc vỗ cánh vút lên khỏi những đám cây, duyên dáng bay là là mặt biển, làm phân tán luồng ánh sáng. Joe và Megan, Laird và Allison mới đến vài phút trước cùng lũ trẻ, Travis đang dẫn họ đi tham quan nhà. “Trông tuyệt thật! Hai cậu làm hết chỗ này trong ngày hôm nay đấy à?”
Travis gật đầu, cầm lon bia của mình. “Cũng không đến nỗi tệ,” anh nói. “Tớ nghĩ ngay cả Matt cũng khoái nó rồi.”
Joe liếc Matt đang nằm sóng soài trên chiếc ghế xếp bên hiên nhà, một chiếc khăn lạnh trên trán. Ngay cả cái bụng của anh – Matt luôn thuộc típ mập mạp – dường như cũng xẹp xuống.
“Tớ có thể thấy điều đó, Joe.”
“Nặng không, Matt?”
“Như cỗ quan tài Ai Cập cổ vậy!” Matt rền rĩ. “Cái loại bằng vàng mà phải dùng cần cẩu mới thồ nổi ấy!”
Joe bật cười. “Bọn trẻ vào được chưa?”
“Chưa đâu. Mình vừa đổ nước, một lát sau nước mới nóng lên. Tuy nhiên mặt trời sẽ giúp”.
“Mặt trời sẽ làm nóng nước trong vài phút!” Matt than vãn. “Trong vài giây ấy chứ!”
Joe cười toe toét. Laird và ba người bọn họ đã học cùng nhau từ hồi mẫu giáo.
“Một ngày vất vả, phải không Matt?”
Matt dịch cái khăn và quắc mắt với Joe. “Cậu không hình dung nổi đâu. Và cảm ơn đã đến thật đúng lúc.”
“Travis bảo có mặt ở đây lúc năm giờ. Chứ tớ mà biết các cậu cần giúp, tớ đã đến sớm hơn.”
Matt từ từ dịch cái nhìn chằm chằm sang Travis. Đôi khi anh thực sự ghét ông bạn.
“Tina thế nào rồi?” Travis nói, chuyển hướng đề tài, “Megan gần đây đã ngủ được chưa?”
Megan đang nói chuyện với Allison ở cái bàn xa cuối hiên nhà, và Joe liếc nhanh về phía cô. “Cũng chút chút. Tim đã khỏi ho, con bé ngủ lại được vào ban đêm rồi, nhưng đôi khi tớ nghĩ Megan không hào hứng ngủ lắm thì phải. Ít nhất là từ khi cô ấy làm mẹ. Cô ấy tỉnh dậy ngay cả khi Tina chẳng ho he gì. Như thể chính sự tĩnh lặng đã đánh thức cô ấy vậy.”
“Cô ấy là một người mẹ tốt.” Travis nói. “Cô ấy lúc nào cũng vậy.”
Joe quay sang Matt. “Liz đâu?” anh hỏi.
“Cô ấy sắp tới rồi,” Matt trả lời, giọng phều phào vang lên như thể từ cõi chết. “Hôm nay cô ấy ở bên ngoại.”
“Thật dễ thương,” Joe bình phẩm.
“Biết điều đi. Họ là những người tốt.”
“Hình như tớ nhớ cậu có nói nếu thêm một lần nữa cậu phải ngồi chịu đựng những câu chuyện của ông bố vợ về chứng ung thư tuyến tiền liệt, hoặc nỗi phiền muộn của mẹ vợ về việc thằng Henry lại bị sa thải – dù đó không phải là lỗi của nó – thì cậu đến phải đâm đầu vào lò nướng.”
Matt gắng gượng ngồi dậy. “Tớ chưa bao giờ nói vậy!”
“Có đấy.” Joe nháy mắt khi Liz, vợ Matt, xuất hiện ở gần góc ngôi nhà, bé Ben chập chững đằng trước. “Nhưng khỏi lo. Tớ không hó hé lời nào đâu.”
Ánh mắt Matt căng thẳng phóng từ Liz qua Joe, rồi ngược lại, kiểm tra xem cô đã nghe thấy chưa.
“Xin chào mọi người!” Liz gọi to với cái vẫy tay thân thiện, tay kia dắt bé Ben. Cô hướng thẳng tới Megan và Allison. Ben vùng khỏi tay mẹ và chập chững bước về phía những đứa trẻ khác trên sân.
Joe thấy Matt thở phào nhẹ nhõm. Anh cười toe và hạ thấp giọng. “Vậy là vì… bố mẹ vợ của Matt. Có phải đó là cách cậu thuyết phục cậu ta tới đây không?”
“Có lẽ mình cũng có đề cập đến,” Travis cười tự mãn.
Joe cười phá lên.
“Hai ông tướng đang nói gì thế hả?” Matt gọi to đầy ngờ vực.
“Có gì đâu,” họ đồng thanh.
Lúc sau, mặt trời lặn hẳn và bữa tối đã dùng xong, Moby cuộn người dưới chân Travis. Khi nghe tiếng lũ trẻ đang té nước trong bồn nước nóng, Travis cảm thấy làn sóng mãn nguyện trùm lấy anh. Đây là kiểu buổi tối anh thích thú, dành thời gian bên những tiếng cười sẻ chia, những lời đùa giỡn thân tình. Phút trước Allison đang nói chuyện với Joe, phút sau cô nàng đã quay sang tíu tít với Liz rồi với Laird hoặc Matt; và cứ như vậy, mọi người ngồi quây quần quanh chiếc bàn ngoài trời. Không có sự giả tạo, không có gây ấn tượng, không ai làm ai bẽ mặt. Cuộc đời anh, đôi khi anh nghĩ, tựa như một màn quảng cáo bia, và phần lớn thời gian trong đời, chỉ cần được lướt trên những dòng cảm xúc tốt đẹp là anh đã thấy toại nguyện.
Thỉnh thoảng, một cô vợ đứng lên đi xem lũ trẻ thế nào. Còn Laird, Joe và Matt, vào những lúc thế này, cũng giữ đúng bổn phận phụ huynh của mình, thỉnh thoảng lại quát lên với hy vọng sẽ khiến bọn trẻ trật tự, hoặc để ngăn không cho chúng trêu chọc nhau quá đà hay vô tình làm đau đứa khác. Đúng thế, cứ thỉnh thoảng lại có đứa gào khóc ầm lên, nhưng rồi mọi vấn đề hầu như đều được giải quyết bằng cái thơm nhẹ lên đầu gối bị đau hoặc một cái ôm dịu dàng đến mức nhìn từ xa cũng cảm nhận được nguyên vẹn cảm giác mà bọn trẻ hẳn phải nhận được.
Travis nhìn quanh bàn, hài lòng vì những người bạn thời thơ ấu đã không chỉ trở thành những người chồng, người cha tốt, mà vẫn còn là một phần của cuộc đời anh. Không phải ai cũng được như vậy. Ba mươi hai tuổi, anh biết cuộc đời đôi khi là một canh bạc, và anh đã sống sót bất chấp phần tai nạn hay vấp ngã mà số phận dành cho anh, trong số đó có những tai nạn hẳn đã muốn cơ thể anh bị thương nhiều hơn những gì chúng làm được trên thực tế. Nhưng không chỉ vậy. Cuộc đời là bất khả dự đoán. Những người khác anh biết, khi lớn lên, có người đã chết trong những vụ tai nạn xe hơi, có người lập gia đình rồi ly dị, có người nghiện ngập ma túy hay rượu chè, hay chỉ đơn giản là chuyển đi khỏi cái thị trấn nhỏ bé này, gương mặt của họ đã mờ dần trong ký ức của anh. Khả năng bốn người bọn anh – quen nhau từ hồi mẫu giáo – ở cái tuổi ngoài ba mươi vẫn dành những ngày cuối tuần bên nhau là bao nhiêu? Khá thấp, anh nghĩ. Nhưng không biết vì sao, sau khi cùng nhau trải qua đám mụn tuổi dậy thì, những rắc rối với bọn con gái và áp lực từ cha mẹ, rồi vào bốn trường đại học khác nhau với những mục tiêu sự nghiệp khác nhau, họ đã, từng người một, quay trở lại Beaufort này. Họ giống một gia đình hơn là bạn bè, từ những cách diễn đạt được mã hóa trong nhóm với nhau đến những trải nghiệm chung mà người ngoài không bao giờ có thể hiểu hết.
Và thật kỳ diệu, những người vợ cũng rất hòa hợp với nhau. Họ thuộc những tầng lớp khác nhau, đến từ những vùng khác nhau trên đất nước, nhưng hôn nhân, bổn phận làm mẹ, cùng những câu chuyện phiếm không dứt về cái thị trấn nhỏ nước Mỹ này quá đủ để họ thường xuyên tán gẫu trên điện thoại, gắn bó như những chị em lâu ngày không gặp. Laird là người đầu tiên lập gia đình – anh và Allison lấy nhau vào mùa hè sau khi họ tốt nghiệp trường WakeForest; một năm sau Joe và Megan kết hôn, sau khi đã yêu nhau suốt năm cuối tại trường Bắc Carolina. Matt, sau khi học xong Duke, gặp Liz tại Beaufort này, và họ đã nên vợ chồng một năm sau đó. Travis là phù rể trong cả ba lễ cưới.
Đôi ba điều đã thay đổi trong vài năm trở lại đây, dĩ nhiên, phần lớn bởi các gia đình có thêm thành viên mới. Laird không phải lúc nào cũng rảnh để đi xe đạp leo núi, Joe không thể cùng Travis đi những chuyến trượt tuyết ngẫu hứng tại Colorado như trước, và Matt hầu như đã từ bỏ nỗ lực bon chen với anh trong hầu hết mọi chuyện. Nhưng điều đó cũng ổn thôi. Tất cả bọn họ vẫn có đủ thời gian rỗi, và cùng với ba người họ – khi lên kế hoạch đầy đủ – anh vẫn có thể tận dụng những ngày cuối tuần của mình.
Mải mê suy nghĩ, Travis không nhận ra cuộc trò chuyện đã chùng xuống.
“Tôi có bỏ lỡ điều gì không?”
“Em đang hỏi dạo gần đây anh có nói chuyện với Monica không,” Megan nói, giọng cô cho Travis biết anh đang gặp rắc rối. Tất cả sáu người bọn họ, anh nghĩ, đều quá quan tâm tới cuộc sống tình cảm của anh. Vấn đề của những người đã kết hôn là họ có vẻ tin rằng tất cả những người họ biết cũng nên kết hôn. Từng người phụ nữ Travis hẹn hò bởi vậy đều là đề tài cho những đánh giá tinh tế nhưng khắt khe, đặc biệt là của Megan. Cô lúc nào cũng là người cầm đầu những lúc thế này, luôn cố gắng tìm hiểu điều gì khiến Travis cư xử như vậy trong những vấn đề liên quan tới phụ nữ. Và Travis, dĩ nhiên, không yêu thích gì hơn là chọc tức lại cô nàng.
“Gần đây thì không,” anh nói.
“Vì sao? Cô ấy tốt đấy chứ?”
Cô ta còn hơn một con bé tâm thần nữa, Travis nghĩ. Nhưng chuyện đó không liên quan.
“Cô ấy chia tay với anh rồi, em không nhớ sao?”
“Thì sao? Không có nghĩa là cô ấy không muốn anh gọi điện.”
“Anh nghĩ đó chính xác là điều cô ấy muốn.”
Megan, cùng với Allison và Liz, nhìn anh chòng chọc như thể anh hoàn toàn chỉ là một thằng đần. Còn mấy gã đàn ông, như thường lệ, có vẻ thích thú điều này. Đó là một tiết mục thường xuyên trong những buổi tối của họ.
“Nhưng lúc đó bọn anh đang cãi nhau đúng không?”
“Thì sao?”
“Anh không nghĩ cô ấy đòi chia tay với anh chỉ đơn giản bởi cô ấy giận sao?”
“Anh cũng giận.”
“Vì sao?”
“Cô ấy muốn anh đi gặp bác sĩ trị liệu.”
“Để em đoán nhé – anh nói anh không cần gặp ai hết.”
“Cái ngày anh muốn gặp một tay bác sĩ trị liệu, ấy là ngày em thấy anh tốc váy lên và móc găng tay.”
Joe và Laird cười vang, nhưng lông mày Megan dựng đứng lên. Megan, bọn họ đều biết, gần như ngày nào cũng xem Oprah.
“Anh không nghĩ đàn ông cũng cần bác sĩ trị liệu à?”
“Anh biết mình không cần.”
“Nhưng nói chung?”
“Vì anh không giống mọi người lắm nên anh thực sự không thể nói được.”
Megan ngả người ra ghế. “Em nghĩ có lẽ Monica đánh hơi ra điều gì đấy. Nếu anh hỏi em, em nghĩ anh có vấn đề về cam kết.”
“Vậy thì anh biết chắc sẽ không hỏi em đâu.”
Megan rướn người về phía trước. “Anh từng hẹn hò ai đó lâu nhất là bao lâu? Hai tháng? Bốn tháng?”
Travis ngẫm nghĩ về câu hỏi. “Anh hẹn hò với Olivia được gần một năm.”
“Tớ không nghĩ cô ấy nói về hồi trung học đâu,” Laird xen vào. Đôi khi, nói đùa chứ, mấy ông bạn của anh rất khoái quẳng anh xuống gầm xe buýt.
“Cảm ơn nhé Laird.” Travis nói.
“Bạn bè để mà làm gì?”
“Anh đang chuyển chủ đề đấy,” Megan nhắc nhở anh.
Travis gõ gõ mấy ngón tay lên chân. “Chắc anh phải nói… anh không thể nhớ nổi.”
“Nói cách khác, không đủ lâu để mà nhớ nổi?”
“Thì anh có thể nói gì đây? Anh chưa từng gặp bất kỳ người phụ nữ nào có thể sánh được với bất kỳ ai trong các em.”
Dù bóng tối đang thẫm dần, anh vẫn nhận ra cô nàng đang mát lòng với lời lẽ của mình. Từ lâu anh đã biết mấy lời xu nịnh chính là vũ khí tốt nhất vào những lúc thế này, đặc biệt khi đó thường là những lời chân thật. Megan, Liz và Allison tuyệt vời. Cả ba đều tốt bụng, thủy chung và độ lượng.
“Thôi được, chỉ là để anh biết thôi, em thích cô ấy,” cô nói.
“Ừ, nhưng em thích tất cả những người anh hẹn hò.”
“Không, không phải vậy. Em đâu có thích Leslie.”
Không cô vợ nào thích Leslie. Matt, Laird và Joe thì ngược lại, không hề phiền lòng trước sự có mặt của cô nàng, đặc biệt là khi cô vận bộ bikini. Cô rõ ràng là một người đẹp, và mặc dù cô không phải kiểu người anh sẽ lấy làm vợ, họ cũng đã từng có rất nhiều niềm vui hồi còn yêu nhau.
“Em chỉ nói em nghĩ anh nên gọi cho cô ấy,” cô kiên trì.
“Anh sẽ nghĩ đến chuyện đó,” anh nói, biết mình sẽ không làm vậy. Anh đứng lên khỏi bàn, cố tìm một lối thoát. “Có ai muốn uống thêm bia không?”
Joe và Laird đồng loạt nhấc chai của mình lên; những người khác lắc đầu. Travis đi tới thùng lạnh trước khi do dự bên cửa kính trượt của căn nhà. Anh bước vội vào trong và đổi đĩa CD, lắng nghe giai điệu âm nhạc mới thấm tràn mảnh sân khi anh mang bia trở lại bàn. Lúc đó, Megan, Allison và Liz đã chuyển sang tán phét về Gwen, cô thợ làm tóc cho họ. Gwen luôn có những câu chuyện thú vị, phần lớn là về những sở thích trái phép của cư dân thị trấn này.
Travis lặng lẽ rót bia, nhìn ra mặt nước.
“Cậu đang nghĩ chuyện gì thế?” Laird hỏi.
“Không quan trọng đâu.”
“Là chuyện gì?”
Travis quay về phía anh. “Cậu có để ý vì sao một số màu được dùng cho tên người, còn một số thì không không?”
“Cậu đang nói đến cái gì?”
“Đen và Trắng. Như ông White (Trắng), ông chủ cửa hàng lốp xe. Và thầy Black (Đen), thầy giáo lớp ba của chúng ta. Hoặc ngay cả ông Green (Xanh lá) trong trò chơi Manh mối. Nhưng cậu chưa từng nghe thấy ai tên là ông Orange (Cam) hay là ông Yellow (Vàng). Có vẻ như một số màu mang đến những cái tên hay, và những màu còn lại nghe thật ngớ ngẩn. Cậu có hiểu ý tớ không?”
“Tớ không thể nói mình đã từng nghĩ đến điều này.”
“Tớ cũng vậy. Tính đến một phút trước, ý tớ là thế. Nhưng cũng kỳ lạ phải không?”
“Đúng vậy,” Laird cuối cùng thừa nhận.
Cả hai người đàn ông im lặng trong giây lát. “Tớ đã bảo cậu chuyện chả quan trọng mà.”
“Ừ, cậu có nói.”
“Tớ đúng phải không?”
“Ừm.”
Khi nhóc Josie nổi cơn tam bành lần thứ hai trong vòng mười lăm phút – lúc đó là gần chín giờ – Allison bế con lên tay và đánh ánh mắt sang Laird, kiểu ánh mắt nói rằng đã đến giờ phải về cho bọn trẻ đi ngủ. Laird không buồn tranh cãi, và khi anh đứng lên khỏi bàn, Megan liếc sang Joe, Liz gật đầu với Matt, và Travis biết buổi tối đã kết thúc. Cha mẹ có thể nghĩ họ là chủ, nhưng cuối cùng chính bọn trẻ mới là người đưa ra luật.
Anh nghĩ mình có thể cố gắng bảo mọi người ở lại, và thậm chí có ai đó sẽ đồng ý, nhưng lâu rồi anh đã quá quen với sự thật rằng bạn bè anh sống cuộc sống của họ với lịch sinh hoạt khác anh. Bên cạnh đó, anh còn ngờ là Stephanie, em gái anh, tối muộn sẽ rẽ qua. Cô đi từ Chapel Hill nơi cô đang học lấy bằng thạc sĩ ngành hóa sinh tới. Mặc dù cô có thể ở lại nhà cha mẹ, nhưng cô thường căng thẳng sau khi lái xe và có hứng trò chuyện, mà khi đó cha mẹ họ hẳn đã đang ngon giấc. Megan, Joe và Liz đứng lên và bắt đầu lau dọn bàn, nhưng Travis phẩy tay.
“Để lát tớ sẽ dọn. Chuyện nhỏ ấy mà.”
Vài phút sau, hai chiếc xe UV và một chiếc minivan đã chở đầy những đứa trẻ. Travis đứng ở hiên trước và vẫy tay chào khi họ ra khỏi đường xe chạy.
Khi họ đi hẳn, Travis thơ thẩn quay lại dàn stereo, tìm giữa đống đĩa lần nữa, chọn Tattoo You của Rolling Stones, rồi mở lớn volume. Anh lấy ra một lon bia khác trên lối quay lại ghế của mình, thượng hai chân lên bàn và ngả người ra sau. Moby ngồi đó bên cạnh anh.
“Giờ chỉ còn tao với mày,” anh nói. “Mày nghĩ mấy giờ Stephanie sẽ đến?”
Moby quay mặt đi. Trừ khi Travis nói mấy từ đi hoặc bóng hoặc quá giang nào hoặc chạy lấy xương, còn đâu Moby không mấy quan tâm đến những gì anh nói.
“Mày có nghĩ tao nên gọi xem con bé đã đi chưa không?”
Moby tiếp tục nhìn chằm chằm.
“Ừ, tao cũng nghĩ thế. Nó sẽ đến khi nào nó đến.”
Anh ngồi uống chỗ bia của mình và nhìn chằm chằm vào mặt nước. Phía sau anh, Moby rên ư ử. “Mày muốn chạy lấy bóng à?” cuối cùng anh nói.
Moby lập tức đứng dậy, suýt nữa nó hất nhào cái ghế.
Chính thứ nhạc đó, cô nghĩ, là bằng chứng rõ nhất cho một tuần lễ khốn nạn nhất đời cô. Tiếng nhạc ầm ĩ. Được rồi, nhạc to như thế vào chín giờ tối thứ Bảy không phải là quá đáng, đặc biệt khi anh ta rõ ràng có khách khứa, mười giờ cũng chưa hẳn đã vượt quá giới hạn. Nhưng mười một giờ? Khi anh ta đang một mình và chơi trò tìm kiếm với con chó của anh ta?
Từ hiên nhà, cô có thể trông thấy anh ta đang ngồi đó trong chiếc quần soóc đã mặc cả ngày, chân gác lên bàn, ném quả bóng rồi nhìn chằm chằm ra bờ sông. Anh ta đang nghĩ cái quái gì không biết?
Có lẽ cô không nên quá khó chịu với anh ta; cô chỉ việc lờ đi là xong. Đó là nhà anh ta, đúng không? Kiểu như vua là chủ tòa lâu đài, đại loại thế. Anh ta có thể làm gì anh ta muốn. Nhưng đó không phải vấn đề. Vấn đề là anh ta có hàng xóm, bao gồm cô, cô cũng có một tòa lâu đài, và hàng xóm thì phải biết ý tứ. Sự thật là anh ta đã vượt quá giới hạn rồi. Không chỉ bởi tiếng nhạc. Thành thực mà nói, cô thích loại nhạc anh ta đang nghe và thường không thực sự quan tâm đến việc anh ta mở to hay bật lâu thế nào. Vấn đề với con chó của anh ta kìa, Nobby, hay cái quái gì anh ta gọi nó. Cụ thể hơn, những gì con chó của anh ta đã làm với con chó của cô.
Molly, cô chắc chắn, đang mang thai.
Molly, con chó collie thuần chủng xinh đẹp, dễ thương của cô, nòi giống đã dành được bao giải thưởng – thứ đầu tiên cô mua cho bản thân sau khi hoàn thành khóa thực tập phụ tá bác sĩ tại trường Y Khoa Đông Virginia, giống chó cô vẫn hằng ao ước – đã tăng cân một cách đáng lưu ý trong suốt vài tuần nay. Thậm chí còn đáng báo động hơn, cô nhận ra mấy cái ti của Molly có vẻ đang to dần. Giờ cô có thể cảm thấy điều ấy bất cứ khi nào Molly lăn ngửa ra để cô gãi bụng. Và nó còn di chuyển chậm chạp hơn nữa. Gộp tất cả vào, Molly rõ ràng đang sắp cho ra đời một ổ chó con mà chả ai trên đời này thèm cả. Một con boxer và một con collie? Vô tình cô nhăn mặt khi cố mường tượng lũ cho scon trông sẽ thế nào, rồi cuối cùng buộc phải thôi không nghĩ đến nữa.
Chắc chắn là con chó của gã đó. Khi Molly động đực, con chó kia quả thực đã rình mò nhà cô như một thám tử tư, và nó là con chó duy nhất cô nhìn thấy lang thang quanh khu này nhiều tuần lễ. Nhưng gã hàng xóm của cô có bận tâm đến việc rào mảnh sân của anh ta lại? Hay giữ con chó trong nhà? Hay dựng một cái chuồng chó? Không. Có vẻ phương châm của anh ta là “Chó Của Tôi Phải Được Tự Do!” Điều này không làm cô ngạc nhiên. Anh ta dường như sống cuộc sống của chính mình với phương châm vô trách nhiệm tương tự. Trên đường đi làm, cô thấy anh ta đang chạy bộ, và khi cô trở về, anh ta đang đạp xe, bơi xuồng kayak, trượt patin hoặc ném bóng rổ ở đường lái xe trước nhà với một nhóm trẻ con hàng xóm. Một tháng trước, anh ta khai trương con thuyền đó, và giờ anh ta còn chơi cả lướt ván. Cứ như người đàn ông này còn chưa hoạt động đủ vậy. Chúa đã phù hộ cho gã đàn ông này không phải làm việc ngoài giờ dù chỉ một phút, và cô biết anh ta chẳng làm gì vào thứ Sáu. Công việc kiểu gì cho phép bạn mặc quần jean và áo phông đi làm? Cô không hình dung ra, nhưng cô nghi ngờ – với cảm giác thỏa mãn khá tàn nhẫn – rằng công việc đó chắc chắn cần đến cái tạp dề và một cái thẻ tên.
Thôi được, có lẽ cô không được công bằng lắm. Anh ta chắc cũng là một người tốt. Bạn bè anh ta – những người xem ra khá bình thường, thêm nữa còn có con cái – có vẻ thích thú bầu bạn với anh ta và thường xuyên lui tới. Cô nhận ra trước đây mình từng thấy một vài người trong số họ ở phòng khám, khi con họ mắc bệnh sổ mũi hoặc viêm tai. Nhưng còn Molly thì sao? Molly đang ngồi cạnh cửa sau, đuôi quất mạnh, khiến Gabby cảm thấy lo lắng khi nghĩ đến tương lai. Molly sẽ ổn thôi, nhưng còn lũ chó con? Chuyện gì sẽ xảy đến với chúng? Sẽ ra sao nếu chẳng ai muốn chúng? Cô không thể hình dung mình mang chúng tới trại thú hoang hoặc SCPA[1] hay cái tên gì đó mà ở đây người ta thường gọi, để mặc họ giết chúng. Cô không thể làm vậy. Cô sẽ không làm vậy. Cô sẽ không để chúng bị giết.
Nhưng nếu vậy, rồi cô sẽ làm gì với lũ chó con?
Tất cả là lỗi của anh ta, vậy mà anh ta vẫn cứ ngồi đó trên hiên, hai chân ghếch lên như thể không có mối bận tâm gì trên thế giới.
Đây không phải là những gì cô mơ tới khi lần đầu trông thấy căn nhà. Ngay cả khi nó không thuộc thành phố Morehead nơi bạn trai cô Kevin đang sống thì cũng chỉ cách đó vài phút qua cầu. Căn nhà nhỏ, xây đã được gần nửa thế kỷ và theo tiêu chuẩn Beaufort thì rõ ràng cần tu bổ, nhưng cảnh tượng dọc con sông thật đẹp mắt, mảnh sân cũng đủ rộng để Molly chạy nhảy, và tuyệt hơn cả, cô có thể mua được nó. Chỉ vừa đủ, bởi vì còn có mấy khoản nợ cô đã vay để đi học ở trường đào tạo Phụ tá Bác sĩ, nhưng nhân viên cho vay tín dụng tỏ ra khá thông cảm mỗi lần cho những người như cô vay tiền. Những người học hành tử tế, nghề nghiệp đàng hoàng.
Không giống như quý ông Chó Của Tôi Phải Được Tự Do và Tôi Không Làm Việc Ngày Thứ Sáu.
Cô hít một hơi dài, nhắc nhở bản thân lần nữa người đàn ông này có thể là một người tốt. Anh ta luôn vẫy tay với cô mỗi khi trông thấy cô đỗ xe sau khi đi làm về, và cô nhớ không nhầm anh ta còn gửi lại một giỏ pho mát và rượu vang để chào đón cô trở thành hàng xóm khi cô mới dọn đến vài tháng trước. Cô không có ở nhà, nhưng anh ta bỏ chiếc giỏ trên hiên, và cô đã tự hứa với mình sẽ gửi một mảnh giấy cảm ơn, mảnh giấy cô chưa từng tìm được thì giờ mà viết.
Mặt cô một lần nữa lại bất giác nhăn lại. Đề cao đạo đức thế đủ rồi. Đồng ý, cô cũng không hoàn hảo, nhưng đây không phải chuyện về mảnh giấy cảm ơn bị quên lãng. Đây là chuyện về Molly và con chó lang thang của gã đàn ông đó, cùng những con chó con không ai cần đến, và giờ là thời điểm tốt để họ bàn bạc tình hình. Anh ta rõ ràng đang thức.
Cô bước ra khỏi hiên sau và bắt đầu hướng về phía bờ rào cao ngăn giữa nhà anh ta với nhà cô. Một phần trong cô, mong có Kevin bên cạnh, nhưng điều đó sẽ không xảy ra. Không phải sau cuộc cãi lộn sáng nay, nổ ra ngay sau khi cô tình cờ nhắc tới chuyện người anh họ đang chuẩn bị làm đám cưới. Kevin, vùi đầu vào trang thể thao của tờ báo, không đáp lại lời nào, hành xử như thể anh không nghe thấy cô. Bất cứ điều gì liên quan tới hôn nhân đều khiến anh câm như thóc, đặc biệt là gần đây. Cô nghĩ mình không nên ngạc nhiên – họ đã hẹn hò gần bốn năm (kém người anh họ cô một năm, cô đã cố chỉ ra), và nếu cô biết được điều gì về anh thì đó là khi Kevin cảm thấy đề tài không thoải mái, hầu như chắc chắn anh sẽ không nói lời nào.
Nhưng Kevin không phải vấn đề. Việc gần đây cô cảm thấy cuộc sống của mình dường như không giống với những gì hằng tưởng tượng cũng không. Cũng chẳng phải vì một tuần lễ khủng khiếp ở phòng khám, tuần mà cô bị nôn vào người đến ba – ba! – lần chỉ trong ngày thứ Sáu, một kỷ lục chưa từng bị phá ở chỗ cô làm, ít nhất là theo mấy người y tá không buồn che giấu nụ cười mãn nguyện của họ và sung sướng kể đi kể lại câu chuyện. Cũng không phải cô giận dữ vì Adrian Melton, tay bác sĩ đã có vợ chỗ cô làm, cứ thích chạm vào cô bất kỳ khi nào họ nói chuyện, bàn tay ông ta nấn ná tìm nguồn an ủi hơi quá lâu. Và cô hẳn nhiên cũng không cáu tiết với sự thật rằng từ đầu chí cuối, cô chưa một lần đứng dậy vì bản thân mình.
Không, thưa các vị, vấn đề là phải khiến quý ông Tiệc Tùng trở thành một người hàng xóm có trách nhiệm, thừa nhận thực tế rằng anh ta cũng phải có bổn phận tìm ra cách giải quyết cho vấn đề của họ giống như cô. Và khi cho anh ta biết điều đó, có thể cô sẽ đề cập luôn giờ đã khá muộn đừng có mà bật nhạc om sòm như thế (ngay cả khi cô thích nó), chỉ để anh ta biết cô đang nghiêm túc.
Khi Gabby hùng hổ đi qua thảm cỏ, hơi sương thấm qua đôi xăng đan ướt đẫm đầu ngón chân cô, ánh trăng hắt xuống bãi cỏ thành những vệt dài dát bạc. Cố gắng suy nghĩ xem chính xác mình sẽ bắt đầu thế nào, cô chả mấy chú ý. Phép lịch sự buộc cô trước hết phải đi tới cửa trước và gõ cửa, nhưng với tiếng nhạc ầm ĩ thế kia, cô ngờ rằng anh ta sẽ chẳng nghe thấy. Bên cạnh đó, cô muốn giải quyết cho xong chuyện này khi vẫn còn hăng tiết và sẵn sàng đối đầu trực diện với anh ta.
Khi tới gần, cô phát hiện ra một lỗ hổng trên hàng rào và hướng thẳng vào đó. Có thể đấy cũng chính là đường con Nobby đó lẻn qua và lợi dụng Molly đáng yêu, tội nghiệp. Trái tim cô một lần nữa thất bại, và lần này cô gắng giữ lấy cảm xúc đó. Điều này quan trọng. Hết sức quan trọng.
Tập trung khi đang làm nhiệm vụ, cô không để ý quả bóng tennis đang bay về phía cô khi cô vừa ló ra khỏi lỗ hổng đó. Tuy nhiên, cô đã nhận ra từ xa tiếng con chó đang lao về phía mình – nhưng vẫn ở xa – một giây trước khi cô bị xô ngã đập người xuống đất.
Khi nằm ngửa trên mặt đất, Gabby lờ mờ nhận ra có quá nhiều ngôi sao trên bầu trời sáng lóa, mờ ảo. Trong một chốc, cô tự hỏi vì sao mình không thể hít vào, rồi nhanh chóng quan tâm tới cơn đau đang bắt đầu lan ra. Tất cả những gì cô có thể làm là nằm đó trên bãi cỏ, chớp mắt mỗi lần cơn đau nhói lên.
Từ đâu đó xa xôi, cô nghe thấy một mớ âm thanh hỗn độn, và thế giới bắt đầu dần dần rõ nét lại. Cô cố tập trung và nhận ra đó không phải một mớ âm thanh hỗn độn; cô đang nghe thấy những giọng nói. Hoặc đúng hơn, một giọng nói. Có vẻ như đang hỏi cô có sao không.
Cùng lúc đó, cô từ từ nhận biết thấy những làn hơi ấm ấm, có mùi, kế tiếp nhau nhịp nhàng trên má mình. Cô chớp mắt lần nữa, quay đầu nhè nhẹ, và đối mặt với một cái đầu khổng lồ, lông lá, hình vuông ở trên cô. Nobby, cô lờ mờ kết luận.
“Áaaa…,” cô rên rỉ, cố ngồi dậy. Khi cô cử động, con chó liếm mặt cô.
“Moby! Ngồi xuống!” giọng nói vang lên, nghe gần hơn. “Cô có sao không? Có lẽ cô đừng nên gắng ngồi dậy vội!”
“Tôi ổn rồi,” cô nói, cuối cùng cũng nhấc được người vào tư thế ngồi. Cô hít vài hơi dài, vẫn cảm thấy choáng váng. Ôi chao, cô nghĩ, đau thật. Trong bóng tối, cô cảm thấy có ai đó đang ngồi xổm bên cạnh, mặc dù cô không nhìn rõ nét mặt anh ta.
“Tôi thành thật xin lỗi,” giọng nói cất lên.
“Chuyện gì xảy ra vậy?”
“Mobby vô tình xô ngã cô. Nó đang đuổi theo quả bóng.”
“Mobby là ai?”
“Con chó của tôi.”
“Vậy ai là Nobby?”
“Gì cơ?”
Cô đưa tay lên thái dương của mình. “Đừng bận tâm.”
“Cô có chắc là mình ổn không?”
“Vâng,” cô đáp, vẫn choáng váng nhưng cảm thấy cơn đau đã bớt dần. Khi bắt đầu nhổm dậy, cô thây gã hàng xóm đặt tay lên cánh tay mình, giúp cô đứng dậy. Việc này khiến cô nhớ lại những em bé mới biết đi cô trông thấy ở phòng khám, cố gắng giữ thăng bằng và đứng thẳng. Cuối cùng khi đã đứng vững trên đôi chân, cô thấy anh ta thả tay mình ra.
“Vài màn tiếp đón, phải không?” anh ta hỏi.
Giọng anh ta nghe vẫn xa xôi, nhưng cô biết không phải, và khi cô đứng trước mặt anh ta, cô thấy mình đang tập trung ngước nhìn một người cao hơn chiều cao 1m70 của cô ít nhất 15 phân. Cô không quen với điều đó, trong khi ngẩng đầu lên nhìn như thế, cô để ý đôi gò má góc cạnh và làn da sạch sẽ của anh ta. Mái tóc màu nâu gợn sóng, phần đuôi xoăn tự nhiên, hàm răng của anh ta trắng bóng. Nhìn gần từ dưới lên, anh ta khá điển trai – thôi được, rất đẹp trai – nhưng cô ngờ rằng anh ta cũng biết điều đó. Mải mê suy nghĩ, cô mở miệng định nói gì đấy, nhưng rồi lại thôi, nhận ra mình đã quên mất câu hỏi.
“Ý tôi là, cô ở đây, đang sang thăm nhà và rồi cô bị con chó của tôi xô ngã,” anh ta tiếp tục. “Như tôi đã nói, tôi thật sự xin lỗi. Thường thì nó sẽ chú ý hơn. Nói chào đi, Moby.”
Con chó đang ngồi chồm hỗm tỏ ra rất hài lòng, và nhờ đó cô bỗng dưng nhớ ra mục đích của cuộc viếng thăm. Bên cạnh, Mobyd đang giơ một chân để chào cô. Cũng đáng yêu đó – đấy là đáng yêu đối với một con boxer – nhưng cô không mủi lòng đâu. Đây chính là con chó khốn kiếp không chỉ chặn cô lại, mà còn hủy hoại cả Molly. Nó nên được đặt tên là Tướng Cướp, chắc chắn vậy. Hoặc khá hơn, Đốn Mạt.
“Cô có chắc mình đã ổn không?”
Cách anh ta hỏi khiến cô nhận ra đây không phải kiểu chạm trán cô mong đợi, và cô cố gắng gợi lại những cảm xúc có được trên đường sang đây.
“Tôi khỏe,” cô nói, giọng đanh lại.
Trong khoảnh khắc ngượng nghịu, mắt họ chạm trán, không nói lời nào. Cuối cùng, anh ta ra dấu qua vai bằng ngón tay cái. “Cô có muốn ngồi ở hiên không? Giờ tôi đang nghe nhạc thôi.”
“Tại sao anh nghĩ tôi muốn ngồi ở hiên?” cô hậm hực, cảm thấy tự chủ hơn.
Anh ta ngập ngừng. “Bởi vì cô sang chơi mà?”
Ồ vâng, cô nghĩ. Thế đấy.
“Ý tôi là chúng ta có thể đứng đây cạnh hàng rào nếu cô muốn,” anh ta tiếp tục.
Cô đưa tay để chặn anh ta lại, nôn nóng giải quyết cho xong vấn đề. “Tôi qua đây vì tôi muốn nói chuyện với anh…”
Cô khựng lại khi anh ta tự đập vào cánh tay mình. “Tôi cũng vậy,” anh ta nói trước khi cô có thể lại lên tiếng. “Tôi đã định qua thăm để chính thức chào đón cô tới khu này. Cô có nhận được giỏ quà của tôi không?”
Cô nghe có tiếng vo ve quanh tai và vẫy nó đi. “Có. Cảm ơn anh vì điều đó,” cô nói, thoáng bối rối. “Nhưng điều tôi muốn nói là về…”
Cô ngập ngừng khi nhận ra anh ta không chú ý. Thay vì thế, anh ta đang quạt quạt không khí giữa hai người. “Cô chắc là mình không muốn ra hiên sao?” anh thúc giục. “Quanh bụi rậm ở đây muỗi khiếp quá.”
“Điều tôi đang cố nói đến là…”
“Có một con trên dái tai cô kìa,” anh ta nói, vừa chỉ.
Tay phải cô hất lên theo bản năng.
“Con nữa kìa.”
Cô đập nó và nhìn thấy vệt máu trên ngón tay khi cô rút tay về. Gớm quá, cô nghĩ.
Cô phẩy tay lần nữa xua một đàn lớn hơn. “Chuyện gì xảy ra vậy?”
“Như tôi đã nói, là bụi rậm. Chúng đẻ trứng xuống nước và những nơi râm mát luôn ẩm ướt…”
“Thôi được,” cô dịu giọng. “Chúng ta có thể nói chuyện ở hiên.”
Họ hối hả bước đi và một lát sau thì thoát khỏi đó. “Tôi ghét muỗi, bởi thế nên tôi đốt mấy cây nến tinh dầu xả ở bàn. Mùi hương đó luôn đuổi được chúng. Bọn này càng về cuối hè càng khủng khiếp hơn.” Anh ta giữ khoảng cách giữa hai người vừa đủ để họ không vô tình va phải nhau. “Nhân tiện, tôi nghĩ chắc chúng ta chưa chính thức gặp gỡ. Tôi là Travis Parker.”
Cô cảm thấy một thoáng ngần ngại. Rốt cuộc, cô đâu có ở đây để làm bạn với anh ta, nhưng quy tắc xã hội và tập quán đã thắng thế, nên cô trả lời trước khi có thể ngăn mình lại. “Tôi là Gabby Holland.”
“Rất vui được gặp cô.”
“Vâng,” cô nói. Cô quyết định sẽ khoanh tay lại khi nói vậy, nhưng rồi theo tiềm thức cô đưa tay ra hai mạn sườn vẫn đang đau âm ỉ. Rồi sau đó, tay cô đưa lên tai đang bắt đầu ngứa.
Chằm chằm nhìn vào khuôn mặt trông nghiêng của cô. Travis biết cô đang tức giận. Miệng cô mím chặt lại, cái vẻ anh đã thấy ở những cô bạn gái. Bằng cách nào đó, anh biết cơn tức giận đang nhằm thẳng vào mình, dù không hiểu tại sao. Ý anh là ngoài việc cô bực mình chuyện con chó. Nhưng cũng không hẳn vậy, anh nghĩ. Anh nhớ cái vẻ mặt đặc trưng của em gái anh, Stephanie, dấu hiệu của quá trình tích tụ những cơn giận, chậm chạp nhưng lâu ngày, và thấy nó thật giống với nét mặt Gabby đang thể hiện lúc này. Như thể cô đã cố bắt mình thể hiện được như thế. Tuy nhiên, những điểm tương đồng với em gái anh chỉ có vậy. Stephanie lớn lên và trở thành một người đẹp được công nhận, còn Gabby cũng quyến rũ tương tự, nhưng không phải theo cách hoàn hảo như thế. Đôi mắt xanh biếc hơi quá to, cái mũi hơi dài quá, và mái tóc đỏ bao giờ cũng khó tạo kiểu, nhưng không hiểu sao những khiếm khuyết đó lại mang đến một nét yếu đuối cho vẻ đẹp tự nhiên của cô mà đa số đàn ông sẽ thấy bị lôi cuốn.
Trong yên lặng, Gabby cố tập trung tư tưởng. “Tôi qua đây vì…”
“Chờ một chút,” anh nói. “Trước khi bắt đầu, tại sao cô không ngồi xuống? Tôi sẽ quay lại ngay.” Anh bắt đầu đi tới cái thùng lạnh, nhưng được nửa bước đã quay người lại. “Cô muốn một chai bia chứ?”
“Không, cảm ơn,” cô nói, ước gì mình xong được vụ này. Từ chối ngồi xuống, cô quay người lại, hy vọng sẽ nói thẳng với anh ta khi anh ta trở lại chỗ cô. Nhưng chưa gì anh ta đã ngồi phịch xuống ghế, tựa người và gác hai chân lên bàn.
Bối rối, Gabby tiếp tục đứng đó. Điều này không đúng với những gì cô dự tính.
Anh ta bật lon bia và làm một hơi. “Cô không ngồi à?” anh ta ngoái lại hỏi.
“Tôi thích đứng hơn, cảm ơn anh.”
Travis liếc nhìn và lấy tay che mắt. “Nhưng tôi không nhìn rõ cô,” anh ta nói. “Đèn hiên phía sau cô chói quá.”
“Tôi qua đây chỉ để nói với anh một số chuyện…”
“Cô có thể bước vài bước sang bên được không?” anh ta yêu cầu.
Cô tỏ vẻ sốt ruột rồi di chuyển vài bước.
“Đã được chưa?”
“Vẫn chưa.”
Lúc đó, cô gần như đã tì vào cái bàn. Cô giơ hai tay lên trong tức tối.
“Có lẽ cô chỉ việc ngồi xuống,” anh ta gợi ý.
“Thôi được!” cô nói. Cô kéo một cái ghế và ngồi xuống. Anh ta đang khiến mọi chuyện hoàn toàn hỏng bét. “Tôi sang đây vì tôi muốn nói chuyện với anh…” cô lên tiếng, tự hỏi mình nên bắt đầu bằng tình hình của Molly, hay xa xôi hơn, bằng cách nói về chuyện một người hàng xóm tốt thì nói chung nên thế nào.
Anh ta nhướng mày. “Cô vừa nói thế rồi.”
“Tôi biết!” cô nói. “Tôi đã cố nói với anh, nhưng anh không để tôi nói hết!”
Anh thấy cô nhìn mình trừng trừng, cái cách em gái anh thường nhìn, nhưng vẫn không hình dung ra cô đang giận dữ vì điều gì. Sau một giây, cô bắt đầu nói, đầu tiên khá dè chừng, như thể đề phòng anh ngắt lời lần nữa. Anh không làm vậy, và xem ra cô đã lấy lại nhịp điệu của mình, lời nói càng lúc càng nhanh. Cô nói về việc đã tìm thấy căn nhà và háo hức thế nào, và việc sở hữu một căn nhà là mơ ước của cô suốt bao lâu, trước khi chuyển chủ đề sang Molly, những cái ti của Molly đang to dần ra sao. Đầu tiên, Travis không hiểu Molly là ai – khiến đoạn độc thoại này trở nên thật quái đản – nhưng khi cô tiếp tục, anh dần nhận ra Molly là con chó collie của Gabby mà thỉnh thoảng anh vẫn nhìn thấy cô dẫn nó đi dạo. Sau đó, cô bắt đầu nói về lũ chó con xấu xí, về việc giết chóc, và, thật kỳ quặc, giải thích gì đó rằng không phải chuyện “Bác sĩ Chạm-vào-người-tôi” hay vụ nôn mửa khiến cô cảm thấy như vậy, nhưng thành thật mà nói, anh chẳng hiểu gì cả cho đến khi cô bắt đầu chỉ về phía Moby. Điều đó khiến anh lờ mờ đoán ra cho đến khi biết chắc: cô cho là Moby phải chịu trách nhiệm đã làm Molly mang thai.
Anh muốn nói với cô đó không phải Moby, nhưng cô đang thao thao bất tuyệt, vì vậy anh nghĩ tốt nhất nên để cô nói hết trước khi lên tiếng phản đối. Cho tới lúc đó, câu chuyện của cô tự nó đã quay ngoắt sang hướng khác. Từng mảnh đời cô bắt đầu tuôn ra lộn tùng phèo, những mảnh vụn nghe có vẻ bột phát và không liên quan đến nhau, cùng với những lần bùng phát của cơn giận dữ ngẫu nhiên hướng vào anh. Tưởng như cô phải nói liên tục đến hai mươi phút hoặc tầm đấy, nhưng Travis biết không thể lâu đến vậy được. Ngay cả thế, việc đón nhận những lời buộc tội đầy tức tối từ một người lạ mặt về những thất bại của mình trong vai trò một người hàng xóm không phải dễ, cũng như anh không hưởng ứng cách cô nói về Moby. Moby, theo quan niệm của anh, đơn giản là một con chó hoàn hảo nhât thế giới.
Thỉnh thoảng cô tạm nghỉ, và trong những quãng ngắn đó, Travis cố gắng phản ứng lại một cách vô vọng. Không kết quả gì, bởi cô lập tức gạt anh sang một bên. Thay vào đó, anh lắng nghe và – ít nhất trong những lúc cô không lăng mạ anh hoặc con chó của anh – cảm thấy có dấu vết của sự tuyệt vọng, thậm chí bấn loạn về những gì đang xảy ra trong cuộc đời cô. Con chó, dù cô nhận ra hay không, cũng chỉ là một phần nhỏ những gì đang khiến cô buồn bực. Anh cảm thấy dấy lên lòng trắc ẩn dành cho cô và nhận ra mình đang gật đầu, chỉ để cô biết anh đang lắng nghe. Thỉnh thoảng cô lại hỏi anh một câu, nhưng trước khi anh có thể trả lời, cô đã trả lời hộ anh. “Không phải hàng xóm nên cân nhắc hành động của mình sao?” Có, rõ ràng là thế, anh định nói, nhưng cô đã nói trước. “Hiển nhiên phải có rồi!” cô gào lên, Travis lại thấy mình gật đầu lần nữa.
Tràng đả kích của cô cuối cùng cũng hạ màn, cô kết thúc, nhìn chằm chằm xuống đất, kiệt quệ. Mặc dù môi cô vẫn mím chặt thành một đường thẳng, Travis nghĩ anh trông thấy những giọt nước mắt, và tự hỏi có nên đề nghị mang cho cô một tờ giấy ăn. Chúng ở trong nhà – quá xa, anh nhận thấy thế – nhưng rồi anh nhớ ra ở gần vỉ nướng chả cũng có giấy ăn. Anh vội vàng đứng dậy, giật lấy vài tờ, mang chúng lại cho cô. Anh đưa cho cô một tờ, và sau khi cân nhắc, cô cầm lấy. Cô lau khóe mắt. Giờ cô đã bình tĩnh lại, anh nhận ra cô còn đẹp hơn lúc mới đầu anh trông thấy.
Cô hít một hơi run rẩy. “Vấn đề ở chỗ, anh sẽ làm gì?” cuối cùng cô chỏi.
Anh ngập ngừng, cố gắng xâu chuỗi lại ý của cô. “Về chuyện gì cơ?”
“Lũ chó con!”
Anh có thể nghe thấy cơn tức giận đang len lỏi trở lại, và anh giơ hai tay ra cố gắng trấn tĩnh cô. “Bắt đầu lại từ đầu nhé. Cô có chắc nó có thai không?”
“Dĩ nhiên tôi chắc! Anh không nghe thấy lời tôi nói à?”
“Cô đã đưa nó tới bác sĩ thú y khám chưa?”
“Tôi là một trợ tá bác sĩ. Tôi mất hai năm rưỡi ở trường Phụ tá bác sĩ và một năm đi thực tập. Tôi biết khi nào người ta mang thai.”
“Với con người, tôi chắc chắn cô biết. Nhưng với chó lại khác.”
“Sao anh biết được?”
“Tôi có nhiều kinh nghiệm với chó. Thực ra, tôi…”
Vâng, tôi cuộc là vậy, cô nghĩ, ngắt lời bằng cái vẫy tay. “Nó di chuyển chậm chạp hơn, ti nó sưng phồng, và nó hành động rất lạ. Vậy có thể là gì vậy?” Nói thật, tất cả những người đàn ông cô từng gặp đều tin rằng nếu có một con chó ngay từ khi còn nhỏ, anh ta sẽ trở thành chuyên gia về tất cả những điều liên quan đến chó.
“Nhỡ nó bị nhiễm trùng thì sao? Nhiễm trùng cũng khiến bị sưng. Và nếu nhiễm trùng nặng, nó sẽ còn bị đau nữa, điều này có thể lý giải cách hành động của nó.”
Gabby mở mồm định nói, rồi thôi khi nhận ra mình chưa nghĩ đến cho đó. Nhiễm trùng có thể khiến ti nó sưng lên – chứng viêm vú hay đại loại thế – và trong chốc lát, cô cảm thấy niềm khuây khỏa tràn ngập khắp trong lòng. Tuy nhiên, khi cô cân nhắc vấn đề xa hơn, sự thật bỗng đâm sầm trở lại. Không phải chỉ một hay ai cái ti, sự thật bỗng đâm sầm trở lại. Không phải chỉ một hay hai cái ti, mà là tất cả. Cô xoắn tờ giấy ăn, mong anh ta thật sự lắng nghe.
“Nó đang có thai, và nó sắp có chó con. Và anh sẽ giúp tôi tìm nhà cho chúng, vì tôi sẽ không mang chúng đến trại thú hoang.”
“Tôi chắc chắn không phải Moby.”
“Tôi biết anh sẽ nói vậy mà.”
“Nhưng cô phải biết rằng…”
Cô lắc đầu điên tiết. Thật là điển hình. Mang thai luôn là vấn đề của riêng phụ nữ. Cô đứng dậy khỏi ghế mình. “Anh sẽ phải chịu trách nhiệm. Và tôi hy vọng anh hiểu không để tìm được nhà cho chúng đâu.”
“Nhưng…”
“Chuyện quái gì vậy?” Stephanie hỏi.
Gabby đã biến mất sau hàng rào; một vài giây sau, anh thấy cô bước vào nhà qua cánh cửa kính trượt. Anh vẫn đang ngồi ở chỗ cái bàn, cảm thấy hơi váng vất, thì trông thấy em gái mình đang đi tới.
“Em ở đây bao lâu rồi?”
“Cũng đủ lâu,” cô nói. Cô trông thấy thùng lạnh gần cửa và lôi ra một chai bia. “Đã có lúc ở đó, em nghĩ cô ấy chuẩn bị đấm anh. Rồi em nghĩ cô ấy sắp khóc. Và rồi cô ấy lại có vẻ muốn đấm anh.”
“Đúng là như thế,” anh thừa nhận. Anh bóp bóp trán, vẫn cố hiểu vụ cãi lộn vừa xong.
“Vẫn chuyện mấy cô bạn gái quyến rũ, em hiểu.”
“Cô ấy không phải bạn gái anh. Cô ấy là hàng xóm.”
“Thế còn khá hơn.” Stephanie ngồi xuống. “Anh chị hẹn hò được bao lâu rồi?”
“Không. Thật ra, đây là lần đầu tiên anh gặp cô ấy.”
“Thật ấn tượng,” Stephanie nhận xét. “Em không biết anh có khả năng đó đấy.”
“Gì hả?”
“Anh biết rồi còn hỏi – làm cho ai đó ghét anh nhanh đến thế. Đó là năng khiếu hiếm thấy đấy. Thường thì trước hết anh phải hiểu rõ người ta đã.”
“Hài hước ghê.”
“Em đã nghĩ như vậy. Và Moby…” Cô quay về phía con chó và nhấc một ngón tay quở trách. “Mày phải biết rõ hơn chứ.”
Moby ngọ nguậy đuôi trước khi đứng dậy. Nó đi về phía Stephanie, rúc đầu vào lòng cô. Cô ẩn đầu nó ra, điều này chỉ khiến Moby dũi mạnh hơn.
“Ra kia ngay, đồ chó săn già.”
“Đó không phải lỗi của Moby.”
“Là điều anh nói. Không phải điều cô ấy muốn nghe, hẳn nhiên rồi. Có chuyện gì với cô ấy vậy?”
“Cô ấy rất bối rối.”
“Em có thể thấy. Mất một lúc em mới đoán nổi cô ấy đang nói về chuyện gì. Nhưng em phải nói việc này thật hay ho.”
“Lễ độ một chút đi.”
“Em lễ độ mà.” Stephanie ngả người ra sau, đánh giá anh trai mình. “Cô ấy dễ thượng đó chứ, anh không nghĩ vậy sao?”
“Anh không để ý.”
“Vâng, chắc chắn anh không để ý rồi. Em sẵn sàng đánh cược đó là điều đầu tiên anh để ý. Em thấy cách anh liếc cô ấy.”
“Ôi trời. Tối hôm nay cô có tâm trạng nhỉ.”
“Hẳn thế rồi. Cái môn em vừa thi là môn giết người đấy.”
“Nghĩa là sao? Em nghĩ mình trả lời sai một câu à?”
“Không. Nhưng thực sự em phải suy nghĩ nát óc một số câu.”
“Là cô hẳn phải thú vị lắm.”
“Ôi, đúng thế. Em còn ba môn thi tuần sau nữa.”
“Tội nghiệp em tôi. Cuộc sống của một sinh viên chính quy còn khốn khổ hơn nhiều việc trang trải kiếm sống thực sự.”
“Xem ai đang nói kìa. Anh còn đi học lâu hơn em. Chuyện này làm em nhớ đến việc… anh nghĩ bố mẹ thấy sao nếu em bảo muốn ở lại thêm vài năm để lấy bằng tiến sĩ?”
Tại nhà Gabby, đèn bếp bật sáng. Bị sao nhãng, anh mất một lúc mới trả lời được.
“Chắc chắn bố mẹ sẽ tán thành thôi. Em biết bố mẹ mà.”
“Em biết. Nhưng dạo gần đây em có cảm giác bố mẹ muốn em gặp gỡ ai đó và ổn định.”
“Nhập hội đi. Anh đã có cảm giác đó nhiều năm nay rồi.”
“Vâng, nhưng với em thì khác. Em là phụ nữ. Đồng hồ sinh học của em đang tích tắc.”
Đèn bếp nhà kế bên phụt tắt; một vài giây sau, phòng ngủ sáng đèn. Anh vu vơ tự hỏi có phải Gabby đang sắp sửa đi ngủ không.
“Anh phải nhớ mẹ lấy chồng năm hai mươi mốt,” Stephanie tiếp tục. “Hai mươi ba tuổi, mẹ đã sinh anh.” Cô chờ đợi một lời đáp lại nhưng không có. “Nhưng rồi một lần nữa, xem anh trở nên tốt đẹp nhường nào này. Xem ra em nên dùng nó làm lý lẽ cho mình.”
Lời cô nói ngấm vào một cách từ từ, và anh nhăn mày khi cuối cùng để ý đến chúng.
“Đây là một lời lăng mạ hả?”
“Em thử thôi,” cô nói với nụ cười đắc thắng. “Chỉ để kiểm tra xem anh đang chú ý đến em hay đang nghĩ tới người bạn mới của mình ở bên kia.”
“Cô ấy không phải bạn,” anh nói. Anh biết giọng anh nghe có vẻ bao biện, nhưng anh không thể làm khác được.
“Không phải bây giờ,” em gái anh nói. “Nhưng em có cảm giác khôi hài là cô ấy sẽ thành bạn anh thôi.”
Chú thích
[1] SPCA (Society for the Prevention of Cruelty to Animals): Hội chống đối xử tàn tệ với động vật.
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.