NHÀ TRỌ BÌNH DÂN
Khu nhà trọ bình dân ở phố Neuve- sainte- Geneviève nằm lọtthỏm giữa khu La tinh và khu ngoại ô Sainte- Marceau. Bà lão Vauqueur, vốn ngườiở Connans, làm nhiệm vụ quản lý toàn bộ khu nhà trọ đó suốt 40 năm nay – nhàtrọ Vauqueur.
Gọi là nhà trọ bình dân vì Vauqueur đón nhận tất cả mọi tầnglớp, mọi lứa tuổi của xã hội tới đây ngủ nghỉ mà không cần phải để ý đến bất cứlời xầm xì bàn tán nào cả. Đấy là nói như thế, chứ đã suốt ba mươi năm nay,người ta chưa hề thấy có một thanh niên nào tới trọ ở đó, mặc dù giá thuê phòngở đấy ưu tiên đặc biệt cho giới trẻ. Thế rồi một ngày kia bỗng nhiên có một côgái trẻ xuất hiện ở khu nhà trọ, đó cũng là những ngày đầu tiên của tấn thảmkịch này, nó bắt đầu từ năm 1819.
Dùng từ thảm kịch cũng chẳng có gì là thái quá cả, vì câuchuyện này không chỉ là một bi kịch theo đúng nghĩa của nó mà suốt từ đầu chícuối nó làm cho người ta xúc động tới tận con tim. Gập trang sách lại, bạn đọcthấy lòng mình xót xa, còn trên khóe mắt thì lệ rơi lã chã. Nhiều người khôngkhỏi thầm thắc mắc: ngoài những người dân Paris quen thuộc ra, liệu còn có ai ởnơi khác quan tâm và thông cảm với chuyện này được nữa không? Bởi vì xem chừngcác tình tiết của nó quá tủn mủn và mang đậm sắc thái riêng biệt của địaphương, một địa phương nằm giữa các ngọn đồi Montmartre và dãy núi Montrouge,một thung lũng mà khi ngửa mặt nhìn lên chỉ thấy những mảng thạch cao lở toácra như sắp rơi xuống những dòng suối đặc quánh bùn đen. Ở cái thung lũng này,hình như khổ đau thì đầy ắp và là thực tế, còn những niềm vui thì hiếm hoi đếnnỗi trở thành hão huyền; và người ta cũng chẳng mong có một điều gì đó khả dĩtạo ra được ấn tượng trong chốc lát ở nơi này. Tuy nhiên, những con người đứchạnh cũng như những kẻ xấu xa ở đây vẫn có thể góp phần làm cho nỗi đau khổ củanhân loại thêm phần lớn lao hơn. Và trước những đau khổ ấy thì sự ích kỷ, nhữngquyền lợi đang đòi hỏi đều bảo nhau tạm ngừng lại và thương xót. Tuy nhiên, tấtcả đều chỉ là thoảng qua, được ví như hình ảnh một quả chín thơm ngon đẹp mắtbị ăn ngấu nghiến trong nháy mắt.
Chiếc xe chở nền văn minh – giống như chiếc xe của tượngthần Jaggernat vừa bị hãm chân lại bởi một thằng điên lao vào bánh trước, và gãta lập tức bị nghiền nát. Cũng giống như bạn vậy, cuốn sách này đang ở trên đôitay mềm mại của bạn, còn bạn thì nằm lọt thỏm trên chiếc ghế bành ấm áp và đầyhưng phấn vì nghĩ rằng câu chuyện này sẽ làm cho bạn thích thú. Bạn tự nhủ rằngsau khi đã đọc hết, đã biết hết những bí mật của lão Goriot bất hạnh, bạn vẫncó thể đánh chén bữa tối một cách ngon lành và tự cam đoan rằng sự dửng dưngcủa bạn chẳng qua là vì tác giả quá thơ thẩn mà nói ngoa thổi phồng sự việc.Nhưng, xin bạn chớ vội kết tội tác giả, bởi vì đây không phải là một chuyệnviễn tưởng, cũng không hề được hư cấu, thêm bớt mà nó là một thảm kịch thực sự- All is true – tất cả đều là sự thật, nó thật tới mức mà khiđã rõ nó rồi, mỗi người đều có thể nhận thấy ở đó một phần của con người mình,nội tâm của mình.
Như đã nói, khu nhà trọ do bà Vauquer quản lý. Nó nằm ở phíađoạn dưới phố Neuve- Sainte- Geneviève, phía bên phải nơi mảnh đất thấp dần vềphía khu phố Arbalète. Hiếm khi ngựa nghẽo qua lại ở khu này vì đây là một sườndốc gập ghềnh nguy hiểm. Bởi thế nên các đường phố ở đây dù đan xen nhau nhưnglại vô cùng yên tĩnh. Sự yên tĩnh lại được bổ sung thêm hai công trình kiến trúclà nhà thờ Van de Grâce và điện Pastheon. Hai tòa nhà này tung vào bầu khôngkhí ở đây những mầu vàng khè và làm tất cả tối tăm hơn bởi những màu sắc khôkhan tỏa ra từ các mái vòm. Người ta toàn nhìn thấy những viên gạch lát khôcứng, những đường cống rãnh không có cả bùn lẫn nước, còn các bức tường thì cỏleo bám đầy.
Dù chỉ là khách vãng lai qua đây, thì người vô tâm nhất cũngphải cảm thấy buồn phiền. Nhà cửa ở đây thật nghèo nàn và buồn tẻ, những bứctường im ỉm và cũ mốc như tường của nhà tù. Một tiếng kẽo kẹt của chiếc xe ngựacũ nát qua đây thôi cũng đủ là một sự kiện. Nếu một người từ nơi khác lạc vàonơi này, hẳn rằng họ chỉ thấy ở đây những nhà trọ bình dân, những công trìnhcủa sự nghèo khổ, buồn chán, sự giã cỗi chết chóc và niềm vui của tuổi thanhxuân bị cưỡng ép vào công việc tẻ nhạt và khủng khiếp. Đúng là không có một nơinào của Paris cóthể khủng khiếp hơn và nhàm chán hơn. Phố Neuve- Saint- Geneviève làm cho ngườita tưởng tượng đến một chiếc khung bằng đồng, thứ duy nhất hợp với câu chuyệnnày bởi vì nó màu hung, bởi những ý tưởng nghiêm trang của nó, giống như khingười lữ khách từng bước một bước xuống hầm mộ cổ, ánh sáng cứ nhạt dần vàtiếng của người dẫn hát cứ chìm dần.
Thật là một sự so sánh tuyệt hảo! Ai sẽ là người quyết địnhcái gì nhìn khủng khiếp hơn, hoặc là những trái tim khô khan, hoặc là những bộóc trống rỗng?
Chính diện của nhà trọ là một vườn hoa nhỏ nên nó rơi vàogóc phải của phố Neuve- Saint- Geneviève – vì thế mà người ta không nhìn thấychiều sâu của ngôi nhà. Dọc theo mặt tiền này, giữa ngôi nhà và vườn hoa nóitrên là một lối đá cuội rộng chừng hai mét trũng xuống như lòng chảo, hai bênxếp hai dãy bình lớn màu xanh da trời hoặc trắng trồng toàn cây mỏ hạc, câytrúc đào hoặc cây lựu. Trước khi đặt chân vào cái lối nhỏ đó, người ta phảichui qua một chiếc cổng hình tròn, phía trên có gắn một tấm biển nổi bật haidòng chữ: Quán Vauquer và Nhà trọ bình dân cho nam giới, nữ giới và mọingười. Có một cái cửa sổ mắt cáo được trang bị nút chuông nhỏ với nhữngtiếng kêu chói tai, mà nếu người ta nhìn qua cửa sổ ấy vào ban ngày thì sẽ thấyphía bên kia đường lát, trên bức tường ở phố bên kia có một cái vòm vòng cungbằng đá xanh do một nghệ sĩ của khu phố trang trí. Bên trong là một bức tượngthần tình yêu bán thân. Nhìn lớp sơn tróc vảy của bức tượng này, sẽ cho nhữngngười ham thích trường phái tượng trưng cảm tưởng là mình đã khám phá ra ở đâymột huyền thoại tình yêu của người Paris màngười ta sẽ cứu chữa được sau đó ít lâu. Dòng chữ khắc đã bị xóa nhòa phần lớndưới chân bức tượng gợi cho người ta nhớ lại quãng thời gian trang trí hoa vănnày, ấy là vào năm 1777, khi mà Voltaire trở về Paris và cảm hứng thốt lên:
Dù bạn là ai, đây, muôn thuở người tình.
Nếu không trước, cũng sau, và mãi mãi.
Khi màn đêm buông xuống, cánh cửa mắt cáo kia được thay thếbằng một cái khác, kín hoàn toàn. Khu vườn hoa phía trước có chiều rộng đúngbằng bề mặt của ngôi nhà, được bao bọc kín bởi dãy tường khu phố và dãy tườngchung của hai bên nhà hàng xóm. Các bức tường được phủ kín dây thường xuângiống như choàng một chiếc măng tô màu xanh gây một ấn tượng thật nên thơ giữalòng Paris trongcon mắt người qua đường. Cạnh những bức tường là những giàn nho. Bà Vauqueurthật là lo lắng không yên mỗi khi tới mùa nho kết trái mà lại gặp mưa đá hoặctuyết bụi. Và nỗi lo ấy chứa đầy trong các cuộc hội thoại giữa bà với kháchtrọ.
Men theo các bức tường là những lối đi chật hẹp dẫn đến mộtlùm cây bồ đề, loại cây mà bà Vauqueur vẫn phát âm một cách chắc chắn làcây bù đề bởi bà sinh ra ở Conflans, mặc kệ tất cả những lờinhận xét về ngữ pháp của các khách trọ.
Giữa hai lối đi nhỏ là một góc trồng cây ác- ti- sô cùng mộtsố loài cây ăn quả mà lá được xén theo hình búp sợi, còn phía ngoài cùng là mộtvài loại rau gia vị. Phía dưới mỗi vòm bồ đề đều đặt một chiếc bàn tròn màuxanh kèm theo vài chiếc ghế nhỏ. Vào những ngày nóng bức, nhiệt độ cao đến nỗicó thể làm nở một quả trứng, bên bộ bàn ghế đó, các vị khách giàu có có thể tựcho phép mình thưởng thức một ly cà phê đặc sánh.
Ngôi nhà trọ gồm có ba tầng, những phòng trên cùng có máiđược xây bằng đá và quét một lớp vôi vàng, thế là tự nó bỗng dưng tạo ra chobản thân một sự hèn kém so với tất cả những ngôi nhà thời ấy ở Paris. Những tấm rèm checác khung kính của năm ô cửa sổ không cái nào giống cái nào, nghĩa là mỗi cáimột màu, chẳng hề ăn nhập với nhau. Mặt sâu của ngôi nhà này có hai cửa sổ ởtầng trệt và được bảo vệ bằng những song sắt giăng kín lưới. Phía sau ngôi nhàlà một khoảng sân rộng chừng hai mươi bước, đó có thể gọi là khu chung cư hòathuận của gà, lợn và thỏ. Tận cuối sân là một cái kho chứa gỗ. Giữa kho chứa đồvà cửa sổ nhà bếp treo lủng lẳng một chân bát để hứng nước mỡ ở bồn rửa bát rơixuống. Khoảng sân này có một cái cổng nhỏ mở ra phố Neuve- Saint- Geneviève màngười đầu bếp dùng làm nơi tống rác từ ngôi nhà ra sau khi đã dùng nước để kỳcọ nhà cửa cho hết mùi hôi thối.
Bởi vì ngôi nhà dùng vào việc kinh doanh nhà trọ bình dân,nên căn phòng đầu tiên của tầng trệt trông khá sáng sủa với hai cửa sổ nhìn rađường phố, cùng với một cửa kính thông ra hành lang làm lối đi vào. Phòng nàycòn được thông với một phòng ăn, có buồng cầu thang ngăn cách phòng ăn với nhàbếp bởi những bậc thang bằng gỗ và bằng gạch vuông đã được đánh bóng. Thật làmột cảm giác buồn tẻ khi nhìn vào căn phòng được trang bị bởi những chiếc ghếbành và ghế tựa bọc vải nhồi sợi chỗ xỉn chỗ sáng. Chính giữa những chiếc ghếđó là một chiếc bàn tròn mặt làm bằng thứ đá hoa cương Sainte- Anne, trên bànđặt một khay chén bằng sứ trắng có chỉ vàng đã bị mờ đi một nửa, thứ khay chén ngàynay có thể bắt gặp ở bất cứ nơi nào. Tường của căn phòng này được ốp gỗ đến vừatầm vịn, phía trên đó được dán bằng giấy bản vẽ đầy những tích truyện Télémaque([1]) mà các nhân vật cổ điển được tô màu. Phần phẳng giữahai cửa sổ giăng lưới sắt được dành cho khách trọ ngắm nhìn bức vẽ bữa tiệcCalypso tổ chức cho con trai Ulysse. Đã từ bốn mươi năm nay, tác phẩm tranh nàyluôn kích động sự giễu cợt của những khách trọ trẻ, những người luôn cho rằngmình ở cao hơn vị trí hiện tại khi chế nhạo bữa ăn tối mà ở đó sự nghèo khổtrói buộc họ. Lò sưởi bằng đá, mặt bếp sạch sẽ đã chứng thực là nó chỉ được đốtlửa vào nhũng dịp trọng đại, người ta trang trí bếp lò bằng hai bình cắm đầyhoa giả cũ mèm đi kèm với một chiếc đồng hồ quả lắc bằng đá hoa cương màu xanh nhạtcòn kém thẩm mỹ hơn. Căn phòng đầu tiên này tỏa ra một thứ mùi không có tên gọitrong ngôn ngữ và có lẽ nên gọi là mùi nhà trọ. Nó có vẻ như mùi của chỗ khôngthoáng khí, mùi mốc, mùi oi khét; nó tạo ra sự lạnh lẽo, ẩm ướt xông lên mũi,nó xâm nhập vào quần áo; nó có mùi vị như tất cả các mùi hợp lại: mùi một cănphòng sau bữa ăn tối, mùi hôi nhà bếp, mùi nhà tế bần. Dù chỗ này là đáng ghêtởm nhưng nếu bạn đem nó ra để so sánh với phòng ăn ở cạnh đó bạn sẽ thấy phòngkhách này còn quá lịch sự và thơm tho biết bao, như một phòng riêng của thiếunữ vậy. Phòng ăn đó hoàn toàn được ghép bằng gỗ, không rõ trước kia được sơnbằng màu gì mà giờ đây không còn nhận biết được nữa, nó trở thành một cái nềnmà trên đó cáu ghét đã vẽ lên những khuôn mặt kỳ dị. Căn phòng đầy những tủđựng chén bát đồ đạc dính dớp, phía trên là những bình nhỏ bụng tròn hoặc nhữnghình chữ V đã bị hỏng; những vòng tròn lấp lánh ánh kim, những chồng đĩa bằngsứ dày có màu xanh lơ, được sản xuất tại Tournai. Trong một góc phòng có đặt mộtchiếc hộp nhiều ngăn đánh số dùng để đựng những chiếc khăn có vết bẩn hoặc làcó vết rượu màu của khách trọ. Ở đây người ta tìm thấy những đồ đạc không thểxóa bỏ được, chúng không tồn tại ở khắp nơi nhưng lại hiện diện ở đây như nóphải thế, như những tàn tích đặc trưng cho nền văn minh của những người bị bệnhnan y. Bạn sẽ thấy ở đây một chiếc nhiệt kế hình con khỉ chồi ra mỗi khi trờimưa, những bức tranh kinh tởm làm mất cảm giác ăn ngon miệng được lồng trongkhung gỗ đánh véc ni có mạ vàng; một chiếc khung treo đồng hồ bằng đồi mồi cókhảm đồng, một chiếc chảo màu xanh, những chiếc đèn dầu Argrard đầy bụi bặm lẫnvào dầu, một chiếc bàn dài phủ khăn trải bằng vải hồ khá bẩn đủ để một ngườingoại trú viết tên của mình lên đó bằng ngón tay, những chiếc ghế tựa khập khiễng,những tấm chùi chân thảm hại bằng hàng đan dịch chuyển lung tung nhưng khôngbao giờ mất đi đâu và sau nữa là cái lò sưởi vỡ lỗ, bản lề chệch, củi trong đóđã cháy thành than. Để giai thích rõ đồ đạc ở đây cũ kỹ, nứt nẻ, mục nát, yếuớt, mòn vẹt, què cụt, tồi tàn, hoang phế, hấp hối đến như thế nào, có lẽ cầnmột bài văn miêu tả về nó mà vì thế có thể làm chậm lại quá nhiều hứng thú đốivới câu chuyện này và những người bận rộn sẽ không tha thứ cho điều đó. Nềngạch màu đỏ đầy những lỗ do cọ sát hoặc do khuôn làm xấu. Tóm lại là cái nghèongự trị không khoan nhượng lên tất cả đời sống trong sự dè sẻn, cô đọng và trơsờn. Nếu như nó chưa lấm bùn đen thì nó cũng đang có những vết bẩn và nếu nhưnó không thủng lỗ cũng không rách rưới, thì rồi nó cũng sẽ rơi vào tình trạngmục nát mà thôi.
[[1] TruyệnTélémaque ở thê kỷ 17, kể những chuyện phiêu lưu của Télémaque – con của Ulyssevà Penelop. Được lấy từ sử thi Ulysse.]
Căn phòng này trông choáng nhất là vào lúc bảy giờ, khi conmèo của bà Vauquer đi trước chủ, nhảy lên những chiếc tủ đựng bát đĩa và bànăn, đánh hơi thấy có nhiều sữa đựng trong bát chén được đậy bằng những chiếcđĩa, và khẽ rên những tiếng gừ gừ. Khi đó bà goá xuất hiện với chiếc mũ nồibằng vải tuyn kì cục đội trên một vòng tóc giả không được chải chuốt tử tế, bàta vừa đi vừa kéo lê đôi giầy nhăn nhúm. Gương mặt bà có vẻ già cũ, béo trònnhư hạt mít, ở giữa mọc lên một cái mũi khoằm giống như chiếc mỏ của con vẹt,đôi tay nhỏ béo mũm mĩm, thân hình mập mạp như một con chuột trong nhà thờ,chiếc áo nịt ngực đầy ắp và phập phồng; tất cả như hài hoà với căn phòng này,nơi sự bất hạnh đang rò rỉ và sự bóc lột đang ẩn nấp, còn bà Vauquer thì hítthở mùi hôi thối một cách nhiệt tình mà không cảm thấy buồn nôn. Nét mặt bàtươi tắn như một làn tuyết đầu tiên của mùa thu, đôi mắt có dấu chân chim nhưkhông biết đến nụ cười, vẻ luôn cau có gay gắt của người làm chiết khấu đối vớinhững cô gái nhảy. Tóm lại toàn bộ con người bà thể hiện tính chất nhà trọ cũngnhư ngôi nhà trọ bao hàm hình ảnh con người bà.
Địa ngục trần gian sẽ không ổn nếu như không có cai ngục,bạn sẽ không thể nào tưởng tượng ra cảnh này mà không có thứ kia. Tình trạngphì nộn và nhợt nhạt của người phụ nữ nhỏ bé đó là sản phẩm của cuộc sống nàygiống như bệnh sốt truyền nhiễm là hậu quả của mùi xú uế từ một bệnh viện.
Chiếc váy lót bằng len đan của bà ta thò ra cả bên ngoài mộtchiếc váy cũ, sợi bông sờn ra những kẽ nứt của vải. Khi bà có mặt thì bức tranhở đây hoàn tất. Ở độ tuổi chừng năm mươi bà Vauquer giống như tất cả những phụnữ đã từng đau khổ.
Đôi mắt lờ đờ với vẻ vô hại của một người môi giới sẽ phảnkháng quyết liệt để được trả giá cao hơn, nhưng mặt khác lại làm tất cả để đượcan ủi số phận, sẵn sàng giải phóng cho Georges hoặc Pichegru ([2]),nếu như Georges hoặc Pichegru cần được giải phóng. Tuy nhiên bà là người phụ nữtốt bụng như những khách trọ thường nói và họ tin rằng bà chẳng có của nả gìkhi nghe bà phàn nàn rên rỉ và ho giống như họ. Ông Vauquer là ai? Bà chưa baogiờ nói về người chồng đã chết. Ông ta đã đánh mất tài sản như thế nào? Trongnhững lúc rủi ro bất hạnh, bà đã kể lể, ông ta đối xử với bà tồi tệ, chỉ để lạicho bà đôi mắt dành để khóc, ngôi nhà dùng để ở và cái quyền chẳng phải độnglòng thương xót tới bất kỳ sự không may mắn nào bởi vì, như bà nói, bà đã hứngchịu tất cả những gì có thể chịu đựng được. Khi nghe tiếng chạy lúp xúp của bàchủ, chị đầu bếp to béo Sylvie vội vàng dọn bữa sáng cho các khách trọ.
[[2]:Hai tướng Pháp âm mưu chống Napoléon.]
Thường những khách trọ tự do chỉ đặt cơm tối hết khoảng bamươi phơ- răng mỗi tháng. Vào thời điểm câu chuyện này bắt đầu, số người ăntrong nhà trọ là bảy người. Tầng một gồm hai căn phòng tốt nhất của ngôi nhà.Bà Vauquer ở phòng kém hơn còn phòng kia thuộc về bà Coutere, vợ goá của một ngàiuỷ viên tư lệnh của nước Cộng hoà Pháp.
Cùng ở với bà là một cô gái còn rất trẻ tên gọi là VictorineTaillefer, người được bà dành cho tình cảm của người mẹ. Tiền trọ của hai quýbà này lên tới một nghìn tám trăm franc. Hai phòng ở tầng hai đã có người ở,một phòng được thuê bởi một ông già tên là Poiret; người ở phòng còn lại là mộtngười đàn ông khoảng bốn mươi tuổi, đội một bộ tóc giả màu đen cùng màu vớichòm râu quai nón, tự cho mình là cựu thương gia, ông tên là Vautrin.
Tầng ba gồm bốn buồng trong đó có hai buồng đã được thuê,một cô tên là Michonneau, và một người trước đây sản xuất mì sợi được gọi vớicái tên là lão Goriot. Hai buồng còn lại được dành cho những kẻ qua đường;những sinh viên vô sản, những kẻ đó giống như lão Goriot và cô Michonneau, chỉcó thể bỏ ra bốn nhăm phơ- răng thanh toán cho việc ăn uống và việc ở trọ; cònbà Vauquer không mong muốn sự có mặt của họ cho lắm và chỉ nhận họ khi khôngtìm được điều gì tốt hơn: họ ăn quá nhiều bánh mì. Vào thời gian đó, một tronghai căn buồng kia thuộc về một chàng trai trẻ thuộc vùng lân cận Angoulêmeđến Paris đểhọc luật và gia đình đông đúc của anh đã phải chịu sự thiếu thốn kéo dài khiphải gửi cho anh một nghìn hai trăm phơ- răng mỗi năm. Eugène de Rastignac, têncủa anh, là một trong những thanh niên quen làm việc do sự nghèo khổ, là nhữngngười hiểu rõ từ khi còn trẻ tuổi những hy vọng của cha mẹ đặt nơi họ và họ tựchuẩn bị một số mệnh tốt đẹp bằng cách tính toán trước tầm quan trọng nhữngngành học của họ và thích nghi trước với biến động trong tương lai của xã hộiđể trở thành những người đầu tiên triệt để tận dụng nó. Nếu như không có nhữngquan sát tò mò của anh ta và cái tài khéo léo mà qua đó anh ta đến ra mắt trongcác phòng tiếp khách ở Paris, câu chuyện này đã không có được những màu sắcchân thực, mà được như vậy cũng là nhờ anh ta có trí óc minh mẫn và ham muốn đisâu vào khám phá những điều bí ẩn trong một cảnh ngộ kinh khủng dù nó được cheđậy khéo léo bởi những kẻ gây ra hay người phải chịu đựng nó.
Phía trên tầng ba là kho chứa đồ để treo quần áo và hai cănbuồng có che mái là nơi ở của một cậu bé làm công vất vả tên là Chirstophe vàchị béo Sylvie, đầu bếp. Ngoài bảy người ăn ở tại nhà trọ này ra, bà Vauquer,tuỳ năm thịnh năm suy còn có tám sinh viên luật và y khoa cùng với hai hoặc bangười quen trong khu phố là những người thường chỉ đặt bữa ăn tối ở chỗ của bà.Phòng ăn tối chứa được mười tám người và có thể lên tới hai mươi người nhưngbữa sáng chỉ có bảy khách trọ nên nó có cái vẻ của một bữa ăn gia đình. Mỗingười đều đi xuống nhà bằng đôi giày đi trong nhà, tự cho phép đưa ra những lờinhận xét kín đáo về cách ăn mặc hoặc dáng vẻ của những người bên ngoài, vềnhững sự kiện của buổi tối trước đó trong khi thể hiện sự tin tưởng vào sự thânthiết ở đây.
Bẩy người khách trọ này là những đứa trẻ hư được chiềuchuộng bởi bà Vauquer, người luôn so tính những sự chăm sóc quan tâm dành chohọ với một nhận định theo kiểu các nhà Thiên văn, theo mức độ mà số tiền mà họtrả cho nhà trọ. Cùng một kiểu đánh giá như vậy làm ra vẻ những người này giốngnhau một cách ngẫu nhiên. Hai người ở tầng hai chỉ trả có bảy hai phơ- răng mỗitháng. Giá rẻ này chỉ có thể gặp được ở trong khu ngoại ô Saint – Marcel, ởgiữa Bourbe và Sanpétrière và bà Couture là một ngoại lệ duy nhất, thông báorằng chỉ dành cho những khách trọ bất hạnh ít nhiều trông thấy rõ. Cảnh tượngnão lòng như bên trong ngôi nhà được lặp lại trong trang phục khách trọ, cũngrách nát như vậy. Đàn ông mặc áo rơ- đanh- gôt mà mầu của nó đã cũ đến nỗi khónhận ra được, đi những đôi giày giống như những đôi bị vứt ở cột mốc trongnhững khu phố lịch sự, quần áo lót sờn rách không còn ra gì nữa. Phụ nữ mặcnhững chiếc váy phai màu được nhuộm lại rồi lại phai màu với viền đăng- ten cũkỹ và lỗi mốt, đi những đôi găng tay trơn láng vì dùng nhiều, khoác chiếc cổ áoxếp luôn luôn có màu hung và khăn choàng vai rút sợi. Trang phục bên ngoài nhưvậy nhưng thân hình họ rất vững chắc: những thể trạng chống chịu được với bãotáp cuộc đời, những gương mặt lạnh giá, khô khan, lu mờ như những chiếc khiênđã hết thời sử dụng. Những khuôn miệng méo mó được trang bị hàm răng hau háu.Những khách trọ đó khiến ta cảm thấy như sắp xảy ra những thảm kịch trọn vẹn,không phải là những màn kịch được đóng dưới ánh đèn sân khấu kia trong nhữngmàn vải vẽ sơn, mà là những bi kịch sống và câm lặng, những bi kịch lạnh lùnglàm con tim thổn thức, những bi kịch đeo đuổi đai đẳng.
Cô gái già Michonneau giữ gìn đôi mắt mệt mỏi của mình bằngmột tấm vải diềm taffetas màu xanh cáu bẩn được đính vòngquanh bởi một sợi dây đồng thau làm hoảng sợ cả thiên thần của lòng thương hại.Chiếc khăn san của cô với những viền nhỏ và có hình giọt lệ giống như phủ lênmột bộ xương, những gì mà nó che giấu được đều có hình dạng rất xương xẩu. Sựchua chát nào đã chi phối việc tạo ra những đường nét phụ nữ đó của cô? Cô chắchẳn đã từng xinh đẹp và toàn vẹn. Phải chăng là do sự thấp hèn, sự buồn phiền,lòng hám của?