Không mảy may hay biết gì về chuyện có người vừa nẫng tay trên một bức điện gửi cho mình, Alice đang tìm hết cách để giúp cụ già March lấy lại tinh thần, sau khi đã bưng lên cho cụ một khay đựng bữa ăn lót dạ.
– Cháu khỏi cần vất vả vì bác thế này. Cụ nói. Chỉ cần cháu vui lòng giúp bác đến được một trạm xe buýt gần đây nhất là đủ.
– Đừng mong rời khỏi cái giường này! Bà Sarah phản đối với giọng cố làm ra vẻ hách dịch. Chúng tôi sẽ giữ ông lại cho tới khi nào ông phục hồi sức khỏe.
Cụ già March vẫn tuyên bố là mình sẽ lên đường nội nhật ngày hôm sau. Đêm tối có lẽ đem đến những lời khuyên tốt, nên sáng hôm sau, Alice cũng đã thành công trong việc thuyết phục ông cụ ở lại, nhờ lấy cớ là muốn hỏi thêm ông về vấn đề của bản nhạc bị mất tích.
– Hôm nay bác hãy nghỉ ngơi đi, mai chúng ta sẽ cùng xem lại xấp thư này, cô nói.
Trong ngày, Alice đích thân bưng đến cho ông cụ những mâm cơm đựng đầy những món ăn ngon miệng. Cô đã phát hiện được ông là người có trình độ văn hóa cao, đáng mến và rất tế nhị, đã từng tham gia chiến đấu ở hải ngoại trong trận Đại chiến Thế giới lần thứ nhất. Bị đau nặng từ vài năm trở lại đây, ông đã mất khả năng lao động.
– Bác mong có dịp mời cháu tham quan nơi ăn chốn ở của bác một ngày gần đây, cụ già nói nhân một lần hai người đang trò chuyện. Nó không còn được như ngày xưa nữa… bác không rành việc chăm sóc nhà cửa, hơn nữa, khả năng tài chánh của bác đâu cho phép bác mướn người làm, dù là một bà dọn phòng hay một ông làm vườn đi nữa.
– Ngôi nhà của bác thuộc thời đại nào? Alice hỏi.
– Nó được xây dựng cách nay đã hơn hai trăm năm; ít ra cũng là một phần của nó. Các tiền nhân của dòng họ March đã từng có rất nhiều nô lệ, và nhà ở của các nô lệ hiện nay vẫn còn nguyên vẹn.
– Thế thì hay quá! Alice reo mừng. Khi nào bác khỏe hẳn cháu sẽ đưa bác trở về nhà và bác sẽ chỉ cho cháu coi những chỗ ấy nhé?
Cuộc trò chuyện của họ bị ngắt ngang bởi một hồi chuông gọi cửa. Alice xin lỗi người bệnh của mình và ra khỏi phòng. Bà Sarah đã mở toang cánh cổng và đang vừa cười vừa cố chống lại những cái hôn tới tấp của hai cô gái.
– Chào chị Alice! Một trong hai nữ khách lớn tiếng chào khi thấy bóng Alice. Chị vừa đào thêm được kho báu nào bị chôn vùi dưới một vùng đầm lầy đầy những quái vật tiền sử vậy?
– Thế còn cô nương đã vét đến cạn tàu ráo máng hết bao nhiêu tiệm bán bánh ngọt từ hôm qua đến nay rồi vậy? Alice cười chọc ghẹo cô bạn rất xinh gái tên Bess.
Là vì cái tật dễ thương của nhỏ Bess chính là thói háu ăn, nên bạn bè đều khoái lấy đó làm đề tài chọc quê. Tự cho mình là “hạt mít biết đi”, Bess đã nhiều lần hạ quyết tâm nhịn ăn để làm mình gầy bớt. Khỏi cần nói đây là một quyết tâm mà nó chẳng bao giờ giữ được.
– Ơ kìa, Marion! Hãy tội nghiệp mái tóc của bạn một chút chứ! Alice nói trong lúc quay sang cô bạn tóc nâu của mình. Nếu bạn cứ tiếp tục xén bớt như vậy mãi, nó sẽ chỉ còn là một “kỷ niệm buồn của thời con gái” cho mà xem!
– Cậu nói gì thì nói, tớ chỉ muốn cắt nó thành tóc đinh! Cứng như rễ tre thế này, chỉ có hớt ngắn là tiện nhất.
Miệng nói, chân họ đã vào tới phòng khách. Alice đến gần cái radio catsette và, sau một hồi mò mẫm, đã tìm được một đài đang phát một bản nhạc khiêu vũ.
– Mà thực ra, Marion nói tiếp, kiểu tóc của tớ cũng đâu có làm ai “dội”, nếu không thì Buck Rodmorr đã chẳng mời tớ đến dự vũ hội tại trường đại học.
– Tiện thể, Alice à, Bess tiếp lời bà chị họ, bọn em đến đây cũng là để hỏi xem chị có tính sắm thêm áo váy mới để dùng trong vũ hội ấy không..
– Mấy bồ đang nói về chuyện gì vậy? Alice ngạc nhiên hỏi. Mình chẳng hiểu mấy bồ đang nói chuyện gì nữa.
– Thôi đi, thôi đi, đừng giả nai nghe! Chị thừa rõ là buổi khiêu vũ mà các sinh viên trường đại học Emerson tổ chức và đương nhiên là chị sẽ không để anh Ned phải cô đơn chứ?
– Các bạn đang đùa gì vậy? Alice gạn hỏi. Lại tính “gài độ” người ta vào một vụ ám muội nào nữa đây?
Bess và Marion giả bộ nổi sùng.
– Việc gì phải giấu tụi này chứ? Bộ tụi này không phải là bạn bè tri kỷ sao? Marion hỏi.
– Các bạn hãy nghe đây, mình hoàn toàn không biết gì về cuộc khiêu vũ ấy cả, mà mình nào có được ai mời mọc gì đâu! Alice tuyên bố với tất cả sự chân thành.
– Không được ai mời! Hai cô bạn cũng la lên, với vẻ sửng sốt.
Sau khi đã bàn luận trong vài phút, Bess và Marion cho rằng anh chàng Ned, do bù đầu vì kỳ thi, hẳn chưa có thời gian để báo tin cho Alice.
– Sớm muộn gì cu cậu cũng sẽ mời chị thôi. Bess tiên đoán.
Như để xác nhận những lời ấy, chuông điện thoại đột nhiên reo vang.
– Đó, em đã bảo mà! Bess nói với vẻ tự đắc.
Alice đi tới cầm máy. Thất vọng biết bao khi không phải là giọng của Ned mà của một sinh viên khác, anh chàng Horace Lally. Đó là một chàng trai có ngoại hình rất hấp dẫn, nhưng quá tự cao tự đại. Alice chẳng ưa gì hắn. Do đó cô hết sức chán chường khi nghe hắn mời đến dự buổi dạ vũ mà hai cô bạn vừa nói.
– Tôi không tin là mình có thể đến dự được, Alice đáp để tìm cách “hoãn binh”. Dù sao cũng cảm ơn anh đã có nhã ý mời tôi.
– Tôi không nhận lời từ khước đâu. Anh ta phản đối. Mai sáng, tôi sẽ gọi lại cho cô nữa đấy.
Rồi anh ta gác máy, không để cho Alice có dịp đáp lại. Bực mình, Alice đi gặp các bạn và kể cho họ nghe cuộc điện đàm của mình với Horace Lally.
– Chị hãy nhận lời mời đi, Bess khuyên. Đó sẽ là một bài học đích đáng cho anh chàng Ned. Ai gọi điện sớm là người ấy thắng. “Chậm chân thì uống nước đục” là lẽ đương nhiên rồi.
Alice lắc đầu.
– Nếu Ned mời thì chắc chắn mình sẽ nhận lời. Còn thì mình sẽ không đi với Horace đâu, anh ta chán thấy mồ.
Sau khi hai cô bạn thất vọng ra về, Alice đến ngồi trên một chiếc ghế thấp, kê gần đài bán dẫn.
– Không biết sao Ned không gọi điện cho mình nhỉ? Alice băn khoăn tự hỏi.
Đài bán dẫn vẫn đang phát một điệu kèn trompette độc tấu một giai điệu hấp dẫn. Quá mãi suy nghĩ, Alice chỉ nghe nhạc với đôi tai hờ hững.
– Hay là anh ấy đã mời một ai khác rồi. Nào có gì cấm cản anh ấy làm thế đâu.
Alice trỗi dậy, tắt radio và về phòng. Đang lúc lên thang gác, chợt nghe tiếng cụ March gọi, cô lật đật phóng hai bậc một và chạy đến phòng cụ.
– Giai điệu ấy! Người cựu binh già la lớn khi thấy Alice, giọng đầy kích động. Nhạc của con trai tôi đấy!
– Bản người ta vừa phát trên đài ấy ạ?
– Phải. Bản ấy chưa hề được ấn hành. Tôi nhớ điệu nhạc ấy lắm mà. Đó là một vụ cướp đoạt! Một vụ ăn cắp bản quyền! Cần phải tìm cho ra kẻ phạm pháp! Cần phải tìm bằng được! Cụ già luôn miệng lặp lại, tức uất người lên, mặt tái mét, hai bàn tay nắm chặt.
Cơn kích động của cụ thấy mà tội nghiệp. Alice đã từng nghe những lời kêu cứu tương tự. Và lần nào cô cũng cố gắng thực hiện. Tuy nhiên, lột mặt nạ một tên đạo tặc thì dễ, chứ vạch mặt một kẻ ấn hành dưới tên mình các tác phẩm của một người đã quá cố thì thật khó.
– Cháu sẽ làm hết sức mình. Cô vẫn hứa với cụ March.
Alice vào phòng mình mong được thưởng thức chương trình ca nhạc một cách yên tĩnh hơn. Tiếc thay, chương trình ấy đã kết thúc và Alice không sao biết được đài nào đã phát thanh bản nhạc ấy. Nhóm giải đáp thắc mắc của đài phát thanh mà cô gọi điện để tham vấn cũng chẳng giúp ích gì được. Có tới ba chương trình ca nhạc đã được phát thanh bởi ba đài khác nhau trong cùng một thời điểm.
– Mình sẽ phải gửi thư cho ba đài ấy để yêu cầu họ cung cấp cho mình danh mục của các đĩa nhạc đã được trình tấu hôm nay, Alice ngẫm nghĩ. Trừ phi người ta cho phát một lần nữa bản nhạc ấy, bản nhạc mà, theo lời bác March, chính là của con trai bác ấy.
Nhấc lấy cái đài bán dẫn, Alice đem đến gian phòng dành cho cụ March, dặn cụ hãy để ý nghe những chương trình ca nhạc khác nhau. Nếu nghe được lần nữa điệu nhạc ấy hãy tức khắc gọi cô.
– Phải chi cháu biết được thằng Fipp nó có năng khiếu tới mức nào! Lát sau ông cụ nói trong khi Alice dọn giường cho mình. Nó chơi được tới sáu loại nhạc cụ khác nhau. Mỗi khi về nhà, nó đều đến giam mình trong kho chứa đồ cũ và sáng tác liền mấy tiếng đồng hồ. Rồi, khi đã xong được vài giai điệu, nó xuống phòng hòa nhạc để chơi cho cả nhà thưởng thức.
– Thế bác không có ý kiến gì về lý lịch của tên “đạo nhạc” sao? Alice hỏi.
– Hoàn toàn không, cụ già đáp không một chút ngập ngừng.
Alice nhận thức được những khó khăn đang chờ đợi mình. Không thể cáo buộc ai đó tội ăn cắp bản quyền mà không có chứng cớ. Trước hết cô phải khám phá ra kẻ “trộm nhạc” và, sau đó, tìm lại các tác phẩm có lẽ còn chưa bị nẫng tay trên. Cụ March và cô đã cùng nhau điểm qua toàn bộ thư tín của Fipp, mà chẳng phát hiện được điều gì.
– Bác ạ, cháu đoán, cuối cùng Alice lên tiếng, là bác đã sục sạo mọi xó xỉnh trong phòng hòa nhạc và cả các gian khác rồi chứ?
– Ồ! Rồi, không phải chỉ một lần, mà là rất nhiều lần nữa kìa.
– Thế còn kho chứa đồ cũ?
– Lão cũng có nghĩ tới rồi. Khổ nỗi, mọi tìm kiếm của lão đều là công cốc. Vả lại, có lạ gì điều ấy đâu? Sau khi đã nghe được bản nhạc ấy ở trên đài, lão đã tin chắc mười mươi là các tác phẩm chưa hề ấn hành của con trai lão đều đã bị ăn cắp rồi, nếu không phải là toàn bộ thì ít nhất cũng là một phần.
Hôm sau, bác sĩ tuyên bố rằng cụ March đã có đủ sức để trở về nhà. Alice đề nghị chở cụ đến tận nơi và còn rủ Bess và Marion cùng đi chung cho vui nữa.
– Lão rất lấy làm buồn phải khoe với các cháu cơ ngơi của mình trong tình trạng hoang phế hiện nay của nó, người cựu binh già nói trong lúc họ lăn bánh trên con đường trải nhựa, hai bên mọc đầy những thân cây hoang dã. Xưa kia, đấy là một khu dạo chơi được đông đảo cư dân ở River City hâm mộ vì cảnh quan rất thơ mộng với những lối đi rêu phong phủ đầy, những thân cây được xén lá tỉa cành đẹp mắt, những luống hoa muôn màu. Hồi ấy, gia đình lão thường tiếp đãi rất nhiều khách khứa. Nhưng… chẳng có cách nào làm sống lại thời vàng son đã qua cả.
Bầu trời thật âm u ảm đạm, những đám mây trĩu nặng vần vũ bên trên dòng sông.
– Kia kìa! Căn nhà ở phía xa, ẩn hiện sau hàng thông ba lá ấy, cụ March nói trong lúc vươn dài cánh tay gầy chỉ về đằng trước, chênh chếch về bên trái. Nó có tên là Vạn Hoa Trang.
Danh hiệu quả không mấy xứng hợp với cảnh quan thực tế; mảnh vườn cảnh trong khuôn viên đất thuộc sở hữu của dòng họ March, suốt nhiều năm qua không được chăm sóc, đã bị xâm lấn bởi cỏ dại đủ loại, xen lẫn với những bụi cây hoang mọc tràn lan vô tổ chức. Vài cây thông già cỗi đứng không theo một hàng lối nào, canh gác cho ngôi nhà cổ, với gió xào xạc lùa qua các cành cây kẽ lá nghe như một lời thở than não nùng.
– Khiếp! Bess khẽ nói. Đúng là một ngôi nhà mà có cho tiền tớ cũng chẳng ngu gì mà vào đó để ngủ qua đêm!
Một dàn nho dại phủ bít một phần mặt tiền của ngôi nhà, để lộ đó đây những phiến đá rêu xanh phủ đầy. Đây là một công trình kiến trúc lẽ ra rất mỹ quan nếu nó được chăm sóc bảo quản đúng mức. Một cánh cửa bật ra khỏi chốt cài, đập sầm sập vào vách đá lẫn trong tiếng rít kèn kẹt của bản lề rỉ sét.
– Đằng nào thì chúng cháu cũng đã tới đây rồi, Alice nói trong lúc thắng xe cho ngừng bánh trước bục cửa, bác có thể cho chúng cháu coi sơ qua bên trong một lát được không? Bốn người cùng hợp sức với nhau, không chừng chúng cháu sẽ may mắn hơn trong việc tìm được các bản nhạc chăng.
– Các cháu cứ tự nhiên… và bác còn cám ơn các cháu nữa là đằng khác, cụ già đáp lại. Rất có thể là những cặp mắt trẻ trung của các cháu sẽ biết cách nhìn ra những gì mà mắt bác không đủ sức phát hiện.
Alice để ý đến phần chái nhà bằng đá nối dài thêm ngôi nhà; cô thấy phần chái ấy có vẻ cổ xưa hơn, và xin cụ March cho biết nguyên nhân của sự kiện đó.
– Nó được xây từ thời tổ tiên của bác còn có nô lệ da đen kia, cụ già đáp. Nếu các cháu muốn, chúng ta sẽ bắt đầu cuộc tham quan từ chỗ đó.
Ông hướng dẫn các nữ khách trẻ của mình đi vào một con đường mòn mọc đầy cỏ dại, dẫn tới những bậc tam cấp rêu phong phủ đầy.
– Dưới tầng trệt của ngôi nhà này, xưa kia có những chuồng ngựa, chúng vào chuồng qua triền dốc xoai xoải đằng kia kìa. Ông nói.
Ba cô gái bước lên thang và quan sát kỹ hàng dãy chuồng ngăn trống trải, mỗi chuồng đều có gắn tên của một con ngựa.
– Bão táp, Bess lớn tiếng đọc, Hạt dẻ, Ma trơi.
– Đó là tên mấy con ngựa thuần chủng được ưa thích nhất của ông nội bác. Chúng đã giành chiến thắng trong nhiều cuộc đua. Chuồng ngựa dòng họ March thời ấy tiếng tăm lừng lấy khắp vùng. Các nài ngựa và các mã phu sống ở tầng dưới, nơi dành cho nô lệ.
Ông đưa tay chỉ cho họ thấy một cầu thang hẹp. Ba người bạn leo lên và thấy mình đang đứng tại hành lang trung tâm ăn thông với những căn phòng nhỏ. Một nắp ván tạo điều kiện cho việc leo lên nóc nhà,
– Ôi! Giá mà các vách tường nói được, thì chúng sẽ kể cho chúng ta biết bao là chuyện! Bess thở dài. Những chuyện cổ tích của các bà vú da đen, những bài tường thuật về các lễ hội đồng quê, các cuộc đua ngựa…
– Đủ rồi! Đủ rồi! Trí tưởng tượng của em sắp vỡ bờ rồi đó! Marion gắt cô em họ. Chị thì chỉ thấy ở đây toàn những gian phòng trống vắng, không có đến một bức họa để làm dịu bớt vẻ tiêu điều ảm đạm, cũng chẳng có lấy một tấm thảm nào, dù đã sờn rách đi nữa.
Alice không để ý tới lời nói của hai bạn vì đang mãi dò xét các vách tường với hy vọng phát hiện được kẽ nứt nào đó cho thấy một chỗ cất giấu mà Fipp March có thể luồn lách các bản nhạc nào đó. Tiếc thay! Cả vách tường lẫn sàn ván đều không giao nạp một bí mật nào.
– Thay vì thả hồn mơ mộng về quá khứ, hãy vận dụng trí tưởng tượng của mình thì hơn, Bess ạ, để tìm ra các bản nhạc đã bị mất tích. Cô vừa cười vừa bảo cô bạn chết nhát của mình.
– Không, cám ơn… có nhiều… nhiều chuột quá xá! Bess la lên khi vừa thoáng thấy một chú chuột nhắt xẹt ngang phòng tựa hồ một mũi tên bắn lén.
Ba người bạn trở xuống trên những bậc thang nghiến kèn kẹt dưới mỗi bước chân của họ. Cụ già March dẫn họ trở ra cổng trước. Móc túi lấy ra một chìa khóa bằng đồng, cụ đút vào ổ khóa và chật vật lắm mới mở khóa được. Cánh cửa bằng gỗ sồi rít lên ken két khi từ từ mở ra.
– Chẳng còn lại bao nhiêu các đồ trần thiết của thời xa xưa, chủ nhà nói trong một tiếng thở dài. Lão đã buộc lòng phải bán dần bán mòn các họa phẩm, các tấm thảm và các động sản. Nuôi dạy một đứa bé thật là hao tiền tốn của không ít!
Bốn người tiến vào gian tiền đình, với những âm vang bừng tỉnh, dội lại tiếng chân bước của họ. Từ nơi ấy, cụ March dẫn họ vào gian hòa nhạc, nơi chỉ còn sót lại một cây đàn dương cầm với hàng phím ố vàng và một chiếc ghế mây móp méo đặt kế bên.
Dưới tầng trệt, hầu hết các gian phơi bày cùng một cảnh tượng trống trải và thê lương. Những bức trướng nặng nề trước mấy khung cửa sổ; bạc phếch và tả tơi, gợi nhớ đến cảnh huy hoàng tráng lệ mà nay chỉ còn là một kỷ niệm buồn. Trong phòng ăn, hiện vẫn còn một cái bàn bằng gỗ cẩm lai, với một bộ ghế có lưng dựa và một tủ búp-phê chế tạo bằng cùng một thứ gỗ quí đó, nhưng cái tủ đựng chén đĩa kê thụt vào vách tường thì hoàn toàn trống trơn.
– Ta đã bán sạch bách các bộ chén đĩa tuyệt đẹp bằng gốm sứ và pha lê rồi, cụ March nói để đáp lại câu dò hỏi thầm lặng của Alice. Giữ lại làm chi những món đồ chẳng còn xài được vào việc gì nữa? Đến đây nào, ta sẽ cho các cháu tham quan tầng lầu.
Trong bao nhiêu phòng nằm song song hai bên một hành lang, chỉ có ba căn là có bày biện đồ đạc; nhưng thay vì những chiếc giường gỗ tráng lệ, những tủ com mốt trang nhã mà Bess mong được chiêm ngưỡng thì chỉ thấy toàn những đồ gỗ rất tầm thường.
Trước sự trơ trụi của các căn phòng ấy, Alice càng hiểu rõ thêm cụ March đang cần tiền tới mức nào. Mọi đồ vật có giá đều đã bị bán hết, chỉ còn để lại trên vách tường những tàn tích màu xám xịt. Làm thế nào để cứu giúp con người bất hạnh này, kẻ đã bị định mệnh tước đoạt hết mọi của cải? Rầu rĩ, Alice yêu cầu hai bạn hãy cố giúp tìm kiếm cho ra những bản nhạc.
– Các cháu muốn đi đâu thì cứ đi đi, cụ March nói với mấy cô gái. Hãy coi nơi đây như nhà của chính các cháu vậy. Ta chỉ mơ ước một điều duy nhất: thấy các cháu trở lại với những gì còn sót lại trong sự nghiệp âm nhạc của con trai ta.
Suốt một giờ sau đó, Bess, Marion và Alice đã thăm dò các vách tường, hy vọng nghe được một âm thanh rỗng, đã sục sạo các tủ áo, các tủ âm, trong lòng các lò sưởi, các thanh ván lót sàn, phòng trường hợp có thanh nào bung ra chăng. Ba lần rồi, Alice đã quan sát từ trên trần xuống đến sàn nhà của phòng hòa nhạc với các bức vách có đóng ván ốp tường. Chẳng có gì, vẫn chẳng có gì hết!
– Ta chỉ còn mỗi việc là rà soát lại kho chứa đồ cũ nữa thôi bác ạ, Alice thưa với cụ March khi cụ già tới thăm, hỏi về kết quả công việc tìm kiếm của họ.
– Để ta chỉ đường cho các cháu. Cầu thang dẫn lên đó dài lắm. Ta chẳng mấy khi lên đó, vì mệt lắm.
Miệng nói, tay cụ đã mở một cánh cửa khóa kín để lộ những bậc tam cấp bằng gỗ. Vừa dừng chân để lấy lại hơi, cụ vừa bước lên thang, theo sau là mấy cô gái.
– Lẽ ra ta nên mang theo một cây nến mới phải, vì điện chưa câu lên tới đó. Mà không chừng các cháu lại thấy rõ cũng nên. Trong ấy có một cửa sổ nhỏ mà.
Khi cụ vừa đặt chân lên bậc nghỉ giữa thang, một tiếng động khả nghi chợt vang lên ở đâu đó trong nhà.
– Cái gì vậy? Bess hỏi nhỏ, hoảng hồn.
Ai nấy đều đứng yên bất động.
– Hình như có ai đó đang dùng chân đạp hoặc dùng tay đấm vào một cánh cửa nào đó thì phải. Marion nói.
Alice tính chạy đi coi, nhưng cụ March không đồng ý.
– Để ta đi cho. Cụ bảo. Các cháu cứ tiếp tục tìm kiếm đi, ta xin các cháu đấy.
Bị bỏ lại, ba người bạn chạy tản mát vào trong kho chứa đồ cũ. Trong ấy tối tăm đến nỗi thoạt đầu họ chẳng phân biệt được gì cả. Khi mắt đã quen với khoảng tranh tối tranh sáng, Alice liền tiến về phía cửa sổ, với những vuông kính bị bụi phủ kín, và mở tung ra.
Cùng lúc đó, Bess hét lên một tiếng hãi hùng. Một con nhện vừa đụng phớt qua môi cô nàng.
– Không! Chỗ này dễ sợ quá. Nó cằn nhằn. Em không ở lại thêm một giây nào nữa đâu. Chẳng thà ở dưới khu nô lệ còn hơn. Lũ chuột ở dưới ấy nhỏ hơn, mạng nhện ở dưới ấy cũng ít hơn trên này.
Một sợi cói đặt vắt ngang một cái rương cũ bằng gỗ với những nẹp viền bằng đồng thau. Bess quơ vội lấy và dùng nó để quấn lấy những sợi tơ nhện, như thể quấn chỉ vào một con thoi máy dệt vậy.
– Còn mình, mình lại thấy kho chứa đồ cũ này rất là thú vị. Alice tuyên bố trong lúc đưa tay chỉ hàng loạt những thùng bằng các tông nằm kế cận những chiếc rương đặt ngổn ngang bên nhau.
Cô lưu ý hai bạn về một cái bàn rất đẹp bằng gỗ cẩm lai ở một góc phòng.
– Mình dám chắc là cụ March sẽ thu được một khoản tiền khá nhờ nó! Alice reo lên, giọng hồ hởi. Còn mấy cái hộp đựng nón kia nữa chứ! Thấy mà mê, các bạn nhỉ?
Alice nhấc một cái hộp lên và xem thử. Nắp hộp được trang trí bằng một bức tranh sơn dầu minh họa một cảnh đồng quê.
– Cho em xem với! Bess la lớn vừa phủi sạch bụi bám ngoài hộp bằng khăn tay của mình. Chị nói đúng; những thùng giấy loại này hiện nay rất được ưa chuộng, chúng có giá lắm đấy.
– May mà chúng vẫn còn nguyên vẹn! Alice nói. Hãy đợi mình đếm thử xem có bao nhiêu cái nào… Mười hai! Đủ để nuôi sống cụ March và đứa cháu gái của cụ mấy ngày liền rồi đây.
Hai thùng trong số ấy còn chứa những chiếc áo choàng phụ nữ bằng vải nhung, những chùm lông chim sặc sỡ và những cái quạt đẹp mắt.
– Kho chứa đồ cũ này tàng trữ biết bao là kỳ quan! Alice reo lên.
– Dù không kiếm được các tác phẩm của Fipp, chúng mình cũng đâu có uổng công vô ích, Marion đồng tình hưởng ứng.
Bess đã không còn chú ý đến những gì hai bạn đang nói nữa: một con dơi lớn từ cửa sổ đang phóng thẳng về phía nó.
– Ôi! Ôi! Nó la lên trong lúc đưa hai cánh tay ôm chặt lấy đầu. Cứu tôi với!
Bess dường như không biết rằng loài dơi vốn có một loại rađa báo trước mọi chướng ngại vật chắn ngang đường bay của chúng. Con vật nhỏ đáng thương đâu có ham bị mắc kẹt trong những lọn tóc uốn quăn nên vào giây phút chót, nó đã quẹo gắt về bên phải. Marion và Alice cười rũ rượi.
Giữa lúc ấy, một tiếng la hoảng vọng lên từ dưới nhà.
Alice nhảy bổ ra phía thang gác vểnh tai nghe và nhận ra được tiếng cụ March đang réo gọi:
– Cô Roy! Xuống bác nhờ chút.