Thất vọng, Alice đứng lặng nhìn chỗ trống trên kệ.
Gia đình Fellmor và các khách mời của họ cũng đã lục tục kéo vào.
– Có chuyện gì xảy ra vậy, Alice? – Ông Fellmor hỏi.
Trong lúc báo cho ông vụ mất trộm mà ông vừa trở thành nạn nhân, Alice không sao chống lại được một mặc cảm phạm tội. Nếu như tên trộm – chắc hẳn đã theo dõi cô – mà không thấy cô sao chép những chữ Hoa trên mặt chiếc bình, thì có lẽ nó đã chẳng bao giờ nẫng mất chiếc bình. Nhưng tại sao nó lại lo sợ, việc cô có trong tay một bản sao những ký hiệu ấy?
Cô trở lại ngắm nghía những dấu chân để xem nó có giống với những vết đã thấy gần cầu Thợ Săn không. Nhưng cô đã thất vọng. Những dấu chân này vừa ngắn hơn lại vừa rộng bản hơn.
Alice nói điều đó với Bess và Marion lúc này đã đến bên cô.
– Tớ thì tớ tin rằng tên trộm dù sao cũng là một đồng bọn của gã Raynold – Marion nói – Chắc là một tên trong bọn đã tập kích chúng ta trong rừng.
– Và là kẻ đã được giao cho việc theo dõi chị, Alice ạ – Bess không biết đã kịp rửa sạch cái miệng đầy kem từ lúc nào nói với vẻ lo sợ – Chị nên từ bỏ cái ý định làm rõ vụ bí ẩn này là hơn.
Nghe ba cô trao đổi như vậy, gia đình Fellmor và các cô bạn khác đều muốn biết thêm nhiều hơn. Nhưng Alice chỉ nói với họ một số nét ngắn gọn, và khuyên ông Fellmor đi gọi điện cho cảnh sát.
– Một buổi dạ hội vui thế mà kết thúc kiểu này, thật uổng hết sức! – Marion than phiền.
Tất cả các cô bạn được mời đều đồng tình với ý kiến trên qua những lời xầm xì bàn tán. Sau khi cảm tạ bà Fellmor, họ đã theo nhau rút lui khỏi ngôi nhà mến khách.
Alice chợt nẩy ra một ý; cô lại gần bàn viết, cầm lấy tấm lót tay đã dùng để thấm khô mực trên tờ giấy sao chép những chữ Hoa lúc nãy. Và cô hết sức vui mừng khi thấy những chữ ấy rất rõ nét, in ngược lại theo mặt trái. Alice tách tờ giấy thấm ra khỏi tấm lót tay, bỏ nó vào giỏ xách và đến gặp ông Fellmor đang đợi cô tại phòng treo áo. Ông báo cho cô biết cảnh sát trưởng Stevenson đã hứa là sẽ cử những cảnh sát viên tài ba nhất đến để điều tra vụ này.
– Cháu có thể hỏi bác là bác đã mua chiếc bình ấy ở đâu không, thưa bác? – Alice nhã nhặn hỏi.
– Khoan đã! Bác tin là có cất giữ tên của cửa hàng ấy ngay trong mình đây.
Lục lọi túi trong của áo veston, ông lôi ra một sổ ghi địa chỉ.
– Đây rồi – ông nói sau khi đã lật vài trang – Trần Dũng, đại lộ Madison, New York.
Alice âm thầm ghi vào bộ nhớ của mình.
Trong lúc ấy, ông Roy đã tới đón Alice và các bạn. Khi được tin về chuyện vừa xảy ra, ông đoán có thể mọi hành vi, cử chỉ của Alice đều bị theo dõi, ông tự khen mình vì đã khôn ngoan đưa ba cô gái đi đến nơi về đến chốn.
o O o
Tối đó về nhà, ông Roy bảo con gái kể chi tiết cho ông nghe về vụ trộm mới đây. Hai cha con bàn bạc với nhau rất lâu. Alice đưa cho cha coi tờ giấy thấm, rồi đặt trước một tấm gương soi bên cạnh tờ giấy đã lấy được ở phòng của tên Raynold để so sánh các ký hiệu với nhau. Những chữ khắc trên chiếc bình của nhà Fellmor giống hệt với cụm từ, mà theo ông Triệu, có nghĩa là: “Chế tạo cho phòng tiền đình Hương Đức”.
Alice hết sức vui sướng. Lại thêm một manh mối mới! Đúng vậy, nhưng tại sao tên trộm lại “chôm” tờ giấy mà cô vữa vẽ lại những ký hiệu trên?
– Có lẽ đã đến lúc cho cảnh sát tự điều tra được rồi con ạ. – Ông Roy khuyên con gái – Vụ này ba thấy có vẻ nguy hiểm rồi đấy. Không nên dấn sâu thêm vào nữa.
Đề nghị Alice bỏ rơi một vụ điều tra, cho dẫu nó nguy hiểm cỡ nào, có khác gì giảng đạo giữa sa mạc. Ông Roy biết thế, nhưng vì ông cũng biết rằng có thể tin ở con gái của mình, chỉ hạn chế ở việc dặn dò con phải hết sức thận trọng.
Sáng hôm sau, Alice đã điện thoại đến gia đình Fellmor để cám ơn họ về buổi dạ hội tuyệt vời mà họ đã mời mình tham dự, mặt khác, để hỏi xem họ có thêm tin tức nào liên quan đến tên trộm không.
– Hoàn toàn không. – Hélène trả lời – Lẽ ra chính bạn là người phải tìm ra tên trộm mới đúng chứ!
– Nếu biết được điều gì mới, mình sẽ cho gia đình bạn biết ngay. – Alice hứa hẹn.
Rồi cô gác máy.
Vì chẳng biết làm gì để dò tìm cho ra tung tích bọn trộm, Alice đã quyết định trong khi chờ đợi một manh mối rõ ràng hơn nên dồn mọi nỗ lực của mình vào việc phát hiện bằng được địa điểm mỏ kao-lanh. Cô tìm đến thư viện thành phố để tham khảo các tác phẩm viết về khoa địa chất học. Cô đã xem lướt qua nhiều bộ sách, đã dò kỹ nhiều bản đồ, mà chẳng biết thêm được điều gì mới cả.
Với một tiếng thở dài, cô thu dọn các sách tham khảo lại, gấp gọn các bản đồ và đem trả chúng về chỗ cũ. Cô thủ thư đã trông thấy vẻ mặt thất vọng của Alice.
– Em có cần chị giúp gì không? – Cô ta đề nghị một cách chân tình.
Alice gật đầu và trình bày với cô thủ thư vấn đề của mình.
– Tại sao em không thử đi gặp ông Monroe một lần nhỉ? – Cô thủ thư gợi ý – Do là một cựu giáo sư về khoa địa chất và nếu như có ai biết về một mỏ kaolanh, thì đó hẳn phải là ông ta. Chị sẽ cho em địa chỉ ông ta. Có điều em đừng quá hoảng hốt vì tính cục cằn của ông ta nhé!
– Cám ơn chị rất nhiều – Alice nói với nụ cười rạng rỡ trên môi.
o O o
Nhà địa chất học cư ngụ trong một căn hộ nhỏ, cách nhà Bess khoảng 100 mét. Thang máy đưa Alice lên tầng lầu cuối cùng. Cửa thông ra cầu thang của ông giáo sư nằm đối diện với lồng thang máy. Alice nhấn nút chuông điện. Một phút sau, một con mắt xuất hiện trong lỗ cửa thiết kế trên panô thượng và một giọng sang sảng cất lên:
– Muốn bán thứ gì thì đi chỗ khác mà bán.
Alice cô nén cười.
– Cháu không phải một kẻ bán dạo, cũng không phải là đại diện thương mại đâu. Cháu chỉ muốn tham vấn giáo sư vài vấn đề thuộc bộ môn địa chất học thôi ạ.
Con mắt biến mất. Cửa mở toang ra. Một người đàn ông nhìn chòng chọc vào cô khách lạ, từ đầu đến chân. Ông ta cao lớn, lưng hơi khom, bộ mặt xương xẩu với tia nhìn sắc lạnh như dao, trên đầu một mớ tóc hung hung đỏ.
– Cô còn quá trẻ để quan tâm đến môn địa chất học. Bộ cô tưởng tôi dạy kèm môn địa lý sao? Vào đi!
Alice theo ông giáo sư vào gian phòng khách.
– Ngồi xuống đó! Miệng nói mà mắt ông vẫn ngó thẳng vào mặt khách.
Sau khi tự giới thiệu, Alice nói với ông về việc đi tìm một mỏ kaolanh. Nghe đến đó, ông Monroe liền quả quyết là theo chỗ ông biết thì không hề có kaolanh trong vùng này và ngay cả trong một vùng đường kính nhiều cây số quanh đây nữa.
– Người ta đã cho cháu biết là mỏ ấy có dính dáng chi đó với một cái ống khói xiên.
– Chuyện tầm phào. Thiên hạ bịa ra thiếu gì chuyện ngớ ngẩn! Đây là lần đầu tiên tôi nghe nói đến chuyện có người dùng đến ống khói xiên để tìm ra một mỏ kaolanh!
– Kao-lanh đúng ra là gì vậy, thưa giáo sư?
– Đó là tên gọi một loại đất sét trắng rất mịn dùng để sản xuất đồ gốm Trung Quốc. Tên gọi ấy xuất phát từ một từ tiếng Hoa chỉ địa điểm mà loại đất sét trắng ấy đã được khai thác lần đầu tiên.
Alice nghe những lời chỉ dẫn trên với tất cả sự chú ý cao độ.
– Kao-lanh – vị giáo sư nói tiếp – được cấu tạo bởi bụi đá hoa cương và nhiều loại khoáng chất khác. Người ta pha trộn nó với felspat, với silic và những thành phần khác, và thu được một sản phẩm quí hiếm. Cô nên biết rõ toàn bộ qui trình ấy nếu cô đang săn lùng loại nguyên liệu này.
– Cháu xin cảm tạ giáo sư – Alice nói – Cháu thú thật là hơi thất vọng khi biết rằng không hề có kaolanh trong vùng chúng ta đang sống. Có người đã nói với cháu là quặng mỏ ấy nằm ở vùng ven thành phố Blackbridge.
Vị giáo sư xoa nhẹ chóp mũi:
– Blackbridge à? Chắc hẳn vì nó ở quá gần đây. Ta thì chỉ tiến hành những cuộc tìm kiếm ở rất xa mà thôi. Vả lại, ta thường trú ở Philadelphia là chính.
– Xin lỗi vì đã quấy rầy giáo sư – Alice vừa nói vừa đứng lên.
– Khoan đã! Giáo sư Monroe bỗng nói như vừa chợt nhớ ra – Nằm giữa hai thành phố River City và Blackridge có một dải rừng mà ta vẫn luôn nuôi ý định đến đó dò tìm.
Ông ta chỉ cho Alice thấy vị trí trên bản đồ dải rừng ấy rồi nói tiếp:
– Người ta đã báo cho ta biết là tại địa điểm này có một mỏ sắt bị bỏ phế từ thời chiến tranh Nam Bắc. Nếu đến một ngày nào đó cô có may mắn bắt gặp một mỏ kao-lanh quanh quất gần đó, nhớ báo cho ta biết.
Alice cám ơn ông Monroe, sung sướng về thông tin mới nhận được, cho dẫu nó thật ít ỏi và rất đỗi mơ hồ.
Ông giáo sư tiễn Alice ra tận cửa và 2 phút sau, cô đã có mặt tại nhà Bess và Marion.
Cô bạn tóc nâu đang bận điều khiển máy xén cỏ. Ngồi bệt dưới đất gần đó là Bess đang uể oải tỉa những cây ngâu trồng làm hàng dậu. Hai chị em đều mặc quần jeans màu xanh dương, áo sơ mi carô, một chiếc khăn quàng màu tươi rói che khuất mái tóc của họ.
Alice nhấn còi xe. Hai chị em đều ngẩng đầu lên và chạy tới.
– Mình sắp đi dạo chơi một vòng nông thôn để lùng kiếm kaolanh. Hai bạn đi với mình chứ?
– Chị không thể nói trước là chuyến đi có nguy hiểm hay không được sao? – Bess hỏi, đầy vẻ cảnh giác.
– Biết thế cũng có ăn thua gì với em đâu? Marion cười. Đằng nào em cũng lại đi theo thôi mà.
– Với Alice mà không đề cao cảnh giác thì có khác gì chơi trò bịt mắt bắt dê… với tử thần! Với lại, nếu dạo chơi thật thì em không thể ăn mặc xuềnh xoàng thế này được.
– Thôi đi, thôi đi! – Alice nói – Đừng có bày vẽ với một chuyến dạo chơi lông bông trong rừng chứ!
– Được rồi, em đến ngay đây. Marion vào nhà báo tin cho mẹ em biết đi, không thì bà lại lo cuống lên khi không thấy hai chị em mình đâu cho mà coi.
Bess đến lấy hai chiếc áo khoác trong phòng ngoài và trở lại ngay cùng cô chị họ. Lát sau, chiếc xe chở ba người bạn gái bắt đầu lao vào con đường Trois-Ponts.
– Ồ! Không! – Bess phản đối – Chị lại định đưa cả bọn đến cái khu rừng kinh dị ấy nữa hả?
– Chúng ta sẽ không dừng chân tại đó đâu mà lo – Alice hứa.
Bess thở phào nhẹ nhõm.
Họ cùng vượt qua cây cầu Thợ Săn và đi thêm khoảng hai chục cây số. Alice dừng xe dưới một gốc cây tán lá xum xuê. Ba cô gái xuống xe và đi sâu vào rừng cây.
Họ đi bộ gần một tiếng đồng hồ dưới những bóng cây, băng ngang những vạt cỏ mấp mô, trèo qua những hàng rào đổ nát, chống trả kịch liệt với đám côn trùng bất mãn vì vụ xâm nhập bất hợp pháp vào địa bàn của chúng.
– Em mệt quá rồi – Bess rên rỉ – Em dám cá là ông giáo sư già của chị chẳng biết ông ta đã nói gì nữa.
Chính Alice và Marion cùng bắt đầu nghi ngờ sự hiện hữu của khu mỏ.
– Ta cứ đi tiếp một quãng nữa đi, Alice cố nài.
– Tớ cũng muốn thế lắm, nhưng đây là tận cùng thế giới rồi còn gì – Marion nói đùa.
Bỗng nhiên, một chướng ngại vật chắn ngang đường đi của họ: một hàng rào bằng gỗ, trên đỉnh có rào kẽm gai đã rỉ sét. Sửng sốt, ba cô gái đứng lặng người quan sát nó từ trên xuống dưới.
– Ai lại có ý nghĩ dựng cái hàng rào này lên giữa một nơi hoang vu như thế này nhỉ? Bess hỏi.
Hàng rào cao tới 3 mét. Những tấm ván đóng sát vào nhau khít đến nỗi khó mà kiếm được kẽ hở nào xen giữa. Alice xích lại gần và cô nhìn qua một khe hở. Nhưng chẳng thấy được gì cả.
– Thật lạ hết chỗ nói. Cái hàng rào này hẳn phải chạy dài suốt khoảng một trăm năm chục mét là ít! – Marion la lên.
– Đến đây đi! – Alice gọi hai bạn – Ta thử tìm xem có một chỗ mở nào không!
Họ đi men theo chướng ngại vật, cố tìm một cánh cổng hay một lỗ hổng đủ rộng.
– Chúng ta tới đầu mối rồi này – Alice đi phía trước thông báo.
Thật ra, đó chỉ là đầu vách ngăn ở bên hông tạo thành một góc vuông và tiếp tục kéo dài thêm cả trăm mét nữa.
– Những thanh ván này đơn điệu đến phát chán! – Bess than phiền – Em muốn thấy cái gì khác lạ một chút kìa.
– Bình tĩnh nào. Chúng ta đang làm việc đấy chứ! – Marion khuyên.
Alice rảo bước nhanh hơn, mắt vẫn không rời dãy hàng rào kín mít. Không một lẽ hổng, không một kẽ nứt!
Bess vừa lẽo đẽo theo sau vừa cằn nhằn. – ôi! Tội nghiệp cho đôi chân của tôi quá!
– Rồi chúng sẽ cám ơn em vì đã tạo điều kiện cho chúng được luyện tập trong chốc lát. Bằng không chúng sẽ mắc chứng liệt khớp xương mất thôi! – Marion nói, vẻ trêu chọc.
– Nếu không phải vì Dick, em đã bỏ mặc hai chị lại đây làm bạn với chó sói cho rồi! – Bess tuyên bô.
Sau hết, đến quãng giữa của cạnh thứ hai, Alice phát hiện được một lỗ hình tròn, tàn tích của một mắt gỗ.
– Có thế chứ!. Cô reo lên.
Hồi hộp, xúc động mạnh, cô tiến tới ghé mắt vào lỗ hổng. Lúc đầu cô không phân biệt rõ mọi vật vì cây cối quá dày đặc, đập vào mắt chỉ toàn là những bụi rậm, cỏ hoang, những tán lá cây xum xuê. Rồi cô thấy thấp thoáng một bức tường gạch cũ kỹ, rêu phong phủ đầy, loang lổ vì bị gió mưa tàn phá, chạy dài song song với hàng rào, cách một quãng ngắn. Bức tường ấy bề cao khoảng 2 mét rưỡi và trên đỉnh có một mái ngói dốc thoai thoải. Chắc hẳn nó là một phần của một tòa nhà nào đó, nhưng trong tầm mắt, bị thu hẹp tới mức thấp nhất, Alice không thấy một cửa sổ nào cả.
– Cậu thấy gì vậy? Marion hỏi với giọng nôn nóng.
– Chẳng có gì ngoài một…
Alice đột ngột ngắt lời. Tia nhìn của cô vừa nắm bắt được vật gì đó cao vượt lên khỏi mái nhà.
– Ồ! Một cái ống khói xiên! – Cô reo lên.