Alice Và Chiếc Bình Cổ

CHƯƠNG 4 – TẤM PANÔ BÍ MẬT



Alice bước lên vài bước, rồi đứng im bất động và vểnh tai nghe. Nếu tên trộm lai vãng trong rừng cây, cô hẳn phải nghe được động tĩnh của hắn, nhưng chỉ có tiếng hót của một chú chim cổ đỏ phá vỡ sự tĩnh mịch đầy đe dọa.
“Mình thật bất cẩn hết sức khi dẫn xác tới đây – Alice tự nhủ – đơn thương độc mã giữa rừng cây hoang vắng. Mặt khác, mình lại không thể bỏ đi, sẽ đánh mất, có thể là vĩnh viễn, một manh mối có giá trị”
Đang khi đắn đo cân nhắc như vậy thì bỗng có tiếng thắng ken két, tiếp liền là tiếng bánh xe lết trên mặt đường đầy đá sỏi khiến Alice ngẩng phắt lên.
Tim Alice như muốn ngừng đập. Một tên đồng phạm vừa đến để gặp gã đàn ông đang trốn trong rừng chăng?
“Thế là mình bị lọt bẫy chúng rồi! Mình thật điên mới mạo hiểm vào trong khu rừng này”.
Cô vội vã trở ra đường, khéo léo men theo những bụi cây để khỏi đụng độ bất ngờ với kẻ mới đến. Cô đã thở phào nhẹ nhõm và vội bước tới khi nhìn thấy chiếc xe hơi vừa gây cho mình một nỗi kinh hoàng.
Qua cánh cửa xe rộng mở, Bess và người chị họ Marion của cô đang nhìn Alice với nụ cười giễu cợt.
– Chào cô bạn ưa ăn mảnh – Cô Marion tóc nâu vui vẻ la lên – Dám mạo hiểm một mình không cần đến hai trợ thủ trung thành này hả?
Marion và Bess đã từng sát cánh bên Alice trong nhiều cuộc điều tra đầy nguy hiểm nhưng cũng hết sức thú vị. Và nếu như Bess, hiền lành nhút nhát, đôi khi rất ngại đụng đầu với những mối nguy khốc liệt, thì Marion, đầy tinh thần thể thao, dạn dĩ hơn, lúc nào cũng xông xáo không hề biết sợ.
Alice không trả lời. Cô ra dấu cho hai bạn xuống xe đi theo mình.
– Mình tin là mình đang lần theo dấu vết của tên trộm. – Cô khẽ nói trong lúc dẫn các bạn quay trở lại rừng.
Bess khóa xe lại cẩn thận và theo gót Alice. Đúng là có những dấu chân hằn rõ trên mặt đất. Nhưng cách khoảng rừng thưa chừng hai chục mét, chúng mất hút trong một vùng dày đặc những cây chỉ còn trơ lại phần gốc do bị thợ rừng khai thác lấy gỗ. Ba cô gái nhìn quanh: không một bóng người.
– Ồ! – Alice thở dài, thất vọng não nề – Chẳng có cách nào lần theo một dấu vết trên đám lá khô này đâu!
– Thế cậu tưởng là tên trộm đang ngồi bó gối ngoan ngoãn trên một gốc cây cưa nhẵn để đợi cậu đấy hả? – Marion hỏi với giọng châm biếm.
Vẻ tiếc rẻ, Alice quay trở lại đường cũ.
– Mình dám chắc như đinh đóng cột là hồi nãy mới có một gã đàn ông đứng cách mình không bao xa. Hắn có phải là kẻ đã lấy cái bình hay không thì mình không rõ. Dù sao, hắn cũng không lấy gì làm cao ráo lắm đâu.
– Làm sao chị biết rõ về hắn chứ, vì chị có tận mắt nhìn thấy hắn đâu? – Sửng sốt, Bess hỏi.
– Mình đoán thế, căn cứ vào kích cỡ những dấu chân trong sình lầy và cự ly ngắn ngủi giữa các dấu chân. Hắn còn mang cả giày đế cao nữa.
– Alice à, cậu quả có tài quan sát tinh tường khiến tớ ngạc nhiên hết sức – Marion khen với vẻ thành thực.
– Chị còn thấy gì nữa không? – Bess hỏi dò.
– Các dấu gót giày đều lún sâu hơn thường lệ và… Chà, có cả dấu nhãn hiệu nữa này!
Alice cúi xuống thấp hơn và nói tiếp:
– Kỳ lạ thật, nó in trên mặt đất rõ nét tới mức chẳng khó khăn gì cũng đọc được từng chữ: Sportshoe.
– Alice, cậu định làm gì vậy? – Marion hỏi – Một cuộc phiêu lưu mới hả? Bess có nói với tớ về một cái bình màu xanh lục và về một con voi bị đánh cắp. Vì thế mà cậu đến đây phải không?
– Không hẳn là vậy. Mình đang trên đường đến Blackbridge. Mình phải ngắm kỹ các mái nhà ở đó để kiếm cho ra một cái ống khói xây nghiêng.
Ngạc nhiên, hai cô bạn gái cùng mở to mắt nhìn Alice rồi cùng phá lên cười.
– Cái gì? Ngắm các mái nhà ư? Thôi đi Alice, cậu cho bọn tớ thưởng thức bao nhiêu chuyện ly kỳ, quái dị của cậu chưa đủ sao? – Marion cười mãi mới nói nên lời – Nhưng…. dù sao, một cái ống khói xây vẹo qua một bên thì cũng lạ đấy!
– Không đâu, hãy nghe mình kể đây này…
Và Alice liền kể tóm tắt cho hai bạn những gì Dick đã thuật lại với mình.
– Vừa may chúng em cũng đang trên đường đến Blackbridge – Bess nói – Chả là em đã nhìn thấy trong một cửa hàng ở đó có một bộ áo váy thấy mà mê luôn. Chị ăn trưa với bọn em chứ?
– Ý kiến hay tuyệt. Hẹn gặp hai bạn lúc hai giờ tại quán Con Mèo Ngủ, nhé?
Bess và Marion lên xe của họ và lái theo sau xe Alice. Tới cửa ngõ dẫn vào Blackbridge, Alice quẹo trái, trong khi hai cô bạn lao nhanh vào con phố chính.
Với tốc độ rùa bò, Alice lái xe vòng quanh thành phố, lăn bánh trên những ngõ hẻm nhằm kiếm cho ra một cái ống khói xiên xẹo hoặc cong queo, hoặc sắp gẫy gập tới nơi, tóm lại, bất cứ một ống khói nào không ở trong tư thế thẳng đứng bình thường. Sau một tiếng đồng hồ, cô đã gần như mắc phải chứng vẹo cổ do cứ ngóc đầu lên riết mà chỉ thấy toàn những ông khói thẳng băng khiến cô vô cũng thất vọng.
Thình lình trong lúc ném một cái nhìn cuối cùng lên đám mái nhà nằm san sát bên nhau, cô đã thấy nó, nằm ngã đầu về những dãy ngói đỏ xếp hàng hàng lớp lớp trên cao.
– May quá! – Alice khẽ reo mừng trong lúc đưa bàn tay phải lên làm “mát-xa” cần cổ đau ê ẩm.
Cái ống khói mọc trên một ngôi nhà, vượt cao khỏi những hàng ngói màu đỏ làm bằng đất nung. Ngôi nhà nằm kế bên có hai mặt tiền hình thành một góc phố, mọi cánh cửa đều đóng kín mít.
Alice đậu chiếc xe thể thao của mình dọc theo hè phố, rồi đi lên những bậc tam cấp lung lay dẫn tới cửa căn nhà và nhấn chuông. Đúng lúc ấy, cô trông thấy một tấm bảng nhỏ trên một ô kính cửa sổ bên tay phải ghi mấy chữ: ‘Phòng cho thuê, có sẵn đồ đạc”.
Một cụ bà tóc bạc trắng như cước, vừa ra mở cửa vừa chùi tay lia lịa vào tấm tạp dề. Nhấc cao cặp mắt kính, cụ già ngước nhìn Alice với ánh mắt dò hỏi. Cô mỉm cười với vẻ ngượng ngập:
– Cháu biết là điều này có vẻ kỳ lạ đối với bà, nhưng cháu đang trên đường đi tìm một cái ống khói mọc nghiêng hẳn về một bên, không ngờ cái đầu tiên mà cháu bắt gặp, lại ở ngay trên nóc nhà của bà. Có người đã nói với cháu rằng có một mối quan hệ giữa một cái ống khói xiên và loại đất kao-lanh được người ta dùng làm nguyên liệu để sản xuất ra những mặt hàng đồ gốm rất đẹp.
Cụ già có vẻ kinh ngạc…
– Kaolanh à? Ở đây hả?
Nghĩ đến sự khiếm nhã do câu chuyện đột ngột của mình, Alice vội vàng nói thêm:
– Xin bà tha lỗi cho cháu, cháu quên chưa tự giới thiệu. Cháu tên là Alice Roy.
– Alice Roy, ở Kiver City hả? Già này đã nghe nói nhiều về cháu qua lời kể của Sarah, chị đầu bếp nhà cháu ấy mà.
– Ôi làm sao mà bà lại quen vú Sarah nhà cháu được ạ? – Đến lượt Alice sửng sốt.
– Làm sao à? Chúa ơi! Chính ta đã là người chăm sóc chị ta khi chị ta còn bé tí. Lúc mà mẹ chị ta bận đi làm để kiếm tiền nuôi chị ta ấy.
Cụ già mở toang cửa ra và đứng sang một bên.
– Vào đi, cháu. Vào trong này nói chuyện thoải mái hơn. Tên ta là Wycox.
– Cụ bà Wycox ư? – Alice vừa hỏi vừa mỉm cười – Ồ! Nếu vậy thì cháu cũng có biết bà, qua lời kể của vú Sarah. Từ lâu, cháu đã hằng ước ao được đến thăm bà.
Cả hai bước vào một phòng khách cổ lỗ nhưng sạch sẽ và toát ra vẻ hiếu khách.
Sau khi cởi bỏ tấm tạp dề, bà cụ ngồi vào một chiếc ghế xích đu.
– Sarah độ này khỏe chứ? Đã lâu ta không được gặp chị ta.
– Thưa bà, vú vẫn khỏe nhưng có lẽ bận việc nên không đến thăm bà được.
Alice kiên nhẫn ngồi nghe bà cụ kể lể đến cạn lời những kỷ niệm êm đềm ngày xưa. Ngay khi có thể, cô liền chụp lấy cơ hội đầu tiên để lái câu chuyện trở lại với vụ kao-lanh. Cụ bà Wycox suy nghĩ một lát rồi lên tiếng:
– Ta đã sống trong căn nhà này suốt mấy chục năm nay, nhưng chẳng bao giờ nghe nói đến vỉa đất sét hay kao-lanh nào trong vùng này cả. Tuy nhiên… À! Hãy khoan đã – cụ nói trong lúc đu đưa nhẹ nhàng chiếc ghế – ta vừa nghĩ đến một điều. Trên kho chứa đồ cũ, có một cái rương lớn. Đó là của ông Patterson, chủ cũ của ngôi nhà này, hiện đã mất. Cái rương ấy chứa những giấy tờ rất xưa và những bản đồ. Ta chẳng bao giờ bỏ công sắp xếp lại những thứ ấy làm gì.
– Bà có biết những giấy tờ ấy nội dung ra sao không ạ? Liệu đó có phải là những thư từ hay những tài liệu gì không hả bà?
– Ta chẳng biết nói sao nữa. Con biết đó, Ted Patterson là một người họ hàng xa, một kẻ độc thân khó tánh khó nết đã để lại tất cả cho ta, nhưng ta hầu như chẳng biết tí gì về ông ta cả. Và với tuổi đời ngày càng chồng chất, óc tò mò của ta cũng tàn lụi theo – Cụ vừa cười vừa kết luận.
Alice cũng cười theo. Cô nghe bà cụ nói tiếp:
– Dù sao đi nữa, nếu như cái ống khói xiên xẹo nhà ta có dính líu gì đó với vụ kao-lanh, thì rất có khả năng là điều ấy có ghi trong mớ giấy tờ của người chủ cũ.
Giả thuyết này khiến Alice cảm thấy phấn chấn.
– Con có thể xem qua bên trong rương được không bà? – Cô vội hỏi.
– Được lắm chứ? Khoan nào, con hãy đợi ta chút xíu. Ta – đi lấy chùm chìa khóa đã.
Cụ trở lại ngay và hướng dẫn Alice đi về phía một cái cầu thang vừa hẹp vừa dốc. Lên đến tầng ba, cụ gõ nhẹ lên một cánh cửa.
– Ông Raynold, người thuê phòng này, chắc hẳn lại không có nhà. Ông ta thường hay vắng mặt hầu như suốt ngày suốt buổi.
Thấy không có ai lên tiếng đáp lại, cụ bà Wycox đút một chìa khóa vào ổ khóa và xoay nhẹ. Đúng lúc ấy, chuông báo khách ở cửa ra vào dưới nhà rung lên từng hồi.
– Lần nào cũng vậy! – Bà cụ thở dài – Hễ ta cứ bỏ lên trên một chút là y như lại có khách đến gọi cửa. Cháu cứ tiếp tục một mình nhé? Rương nằm trong cái tủ tường ấy.
Alice bước vào căn phòng nhỏ chỉ có độc một cái cửa tò vò trên mái hắt ánh sáng vào phòng. Đồ đạc chỉ có một cái giường khung bằng sắt, một tủ com-môt và hai chiếc ghế lưng dựa thẳng băng. Ngoài ra cũng có một tấm gương, một cái bàn nhỏ, một thau rửa mặt, vài đồ vệ sinh cá nhân. Cô băng ngang căn phòng, đến mở cánh tủ tường. Bất chợt, cô lùi lại kêu lên một tiếng vì quá kinh ngạc.
Một người đàn ông đang đứng im bất động, bít kín một khoảng hở ở vách tủ!
Nhanh như chớp, hắn lùi lại. Một tấm panô trượt nhanh trên rãnh xoi, mỏ khóa sập xuống vừa khít vào ổ khóa…

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.