Để tớ coi tí nào! – Marion đứng sau sốt ruột nói. Alice đứng sang một bên để bạn mình có thể nhìn qua lỗ.
– Đây có lẽ là khu mỏ sắt và cái lò rèn trước kia – Alice đoán.
– Đứng đây thì không có cách nào kiểm chứng được – Marion nhận xét. – Cây cối chen lấn nên đâu có phân biệt được cái gì với cái gì.
– Nếu cái ống khói ấy đúng là cái mà chúng ta đang kiếm, thì vận may tìm thấy kaolanh hẳn không còn xa lắm đâu. Thậm chí có thể là nó đang nằm ngay trong khuôn viên vòng rào cũng nên.
– Nếu vậy ta chỉ còn phải làm có mỗi một việc là đột nhập vào trong để xác minh mà thôi.
– Thì đi! – Alice vừa đáp vừa tiến tới dọc theo hàng rào. Chắc hẳn là phải có một cái cửa ở đâu đó.
– Cậu thua cuộc rồi nhé! – Marion nói, sau khi cả ba đã vòng qua hết góc hàng rào.
Không một cánh cổng, không một chỗ mở, suốt gần 300 mét, chỉ toàn những thanh ván ghép khít vào nhau, không cách quãng một chỗ nào.
Đi tới góc thứ ba, các cô thấy cái hàng rào độc địa vẫn chạy dài thêm cả trăm mét nữa.
Bess rên:
– Em lết hết nổi rồi, mà bụng lại đang đói như cào mới chết chứ!
– Thì em cứ việc mơ đến bánh kem và cút chiên bơ đi. Ăn tưởng tượng có ích cho cái eo của em hơn là ăn thật đấy – Marion châm chọc cô em họ không chút xót thương.
Alice quan sát kỹ những thanh ván ken nhau khít rịt đến nỗi chỗ tiếp giáp không để lọt qua một tia sáng nhỏ nào.
– Nếu tụi mình muốn đi qua phía bên kia – cô vừa cười vừa nói – chắc phải thuê bao một chiếc máy bay lên thẳng quá!
Vừa đi men theo cạnh thứ ba của khu vực có vòng rào vây quanh, Alice vừa không ngừng lật đi lật lại trong đầu những sự việc đang khiến cô băn khoăn thắc mắc: vẻ bí hiểm của khu vực kín cổng cao tường, sự thiếu vắng cửa ra vào cũng như thiếu vắng mọi biểu hiện bên ngoài của bất luận một hoạt động nào.
Cuối cùng, ba người bạn lại thấy mình trở lại đúng điểm xuất phát trước đây.
– Đằng nào thì mình cũng đành phải từ bỏ ý định leo qua hàng rào, nên mình sẽ thử tìm cách nhìn từ trên cao xuống xem có thấy một mỏ kaolanh nào bị bỏ phế trong đó không.
Đi về phía một thân cây gần đó, Alice cố leo lên cành cây thấp nhất, rồi ngồi gọn lỏn giữa chạc của hai nhánh cây giao nhau.
– Cậu có thấy rõ hơn hồi nãy không? – Marion hỏi.
– Không – Alice đáp đầy vẻ chán nản – Nhiều cây quá.
Đột nhiên, có cái gì đó thu hút tia nhìn của cô. Dường như có một vật trang trí bằng sắt gắn chặt vào những viên gạch của cái ống khói xiên.
– Trông nó giống cái gì? Marion hỏi sau khi được Alice cho biết về phát hiện mới này.
– Hình như đó là một tấm lưới mắt cáo thì phải – Alice đáp – Có lẽ đó là một công cụ của bác phó rèn xưa kia hay sao ấy.
Alice đang leo xuống khỏi “đài quan sát” của mình thì Bess, nãy giờ đã leo lên một gò đất cao, chợt lên tiếng gọi:
– Các chị lại đây đi, đứng trên này coi thấy rõ lắm.
Marion chạy về phía cô em họ. Đúng lúc ấy, Bess thét vang một tiếng kinh hoàng. Hai người bạn chạy vội đến thấy Bess đang run rẩy toàn thân vì sợ hãi.
– Chuyện gì vậy? – Àlice hỏi.
– Ôi… sợ… sợ quá! Em vừa thấy… một bàn tay thò ra từ trong ống khói!
Alice và Marion thay nhau nhìn. Nào có gì đâu! Tất cả vẫn yên lặng một cách bí hiểm. Nghe hai bạn nhận xét, Bess thú nhận là vừa rồi đã nhắm mắt lại trong giây lát để khỏi phải nhìn hình ảnh dễ sợ ấy. Và khi cô mở mắt ra, bàn tay đã biến mất.
– Em đói quá nên mê hoảng rồi, tội nghiệp em quá đi thôi! – Marion vừa nói vừa nhún vai.
– Không! – Bess cãi lại, bực mình vì không được ai tin – Em đã thấy bàn tay ấy hệt như em thấy chị lúc này vậy, và em không thèm ở lại đây một giây nào nữa đâu. Em đã chán ngấy nơi này rồi. Nhìn ghê thấy mồ! Với lại, lỡ bọn mình bị tấn công bất ngờ, cũng chẳng có ma nào nghe được tiếng mình kêu cứu đâu.
Nói rồi cuống cuồng vì sợ hãi, Bess chạy thục mạng băng ngang rừng cây về hướng con đường y hệt như bị ma đuổi. Alice và Marion đành miễn cưỡng chạy theo.
Cả ba lái xe đi. Bess tuyên bố:
– Mấy người đừng hòng lôi tôi trở lại đằng ấy lần nào nữa, tôi báo trước rồi đấy.
– Kể cả để cứu ông anh họ Dick. Nhớ nghe, nếu lần sau mình không rủ thì đừng trách nhé? – Alice nói.
Câu nói ấy khiến Bess im bặt. Vì cô biết rõ rằng, dù có nguy hiểm đến thế nào, dù cô có sợ đến khủng khiêp nhưng chỉ cần Alice nói phải đi đâu đó thì cũng như chị họ Marion, Bess không bao giờ từ chối. Thậm chí nếu Alice không cho đi, cô cũng sẽ lén đi theo. Đã có biết bao nhiêu lần như thế. Dù sao cũng phải cô chế ngự nỗi sợ hãi của mình, Bess tự nhủ.
Sau khi đã thả hai bạn xuống trước nhà họ, Alice liền đến cửa tiệm bán đồ gốm sứ, tính thông báo cho Dick về khám phá mới của mình. Một thợ học việc, được mướn làm người phục vụ trong cửa tiệm sau giờ học, bước đến.
– Cô cần chi vậy, thưa cô?
– Tôi muốn gặp ông Milltop.
– Ông ấy đang bận ở trong xưởng. Xin cô vui lòng chờ cho một lát.
– Milltop là chỗ thân thiết với tôi, tôi sẽ vào gặp thẳng ông ta.
Cô gái đi vào gian trong, nơi Dick đang làm việc bên chiếc bàn xoay. Mái tóc màu rơm của anh ta lòa xòa đổ xuống trán và anh đang mải mê làm đến nỗi không thấy sự có mặt của Alice.
Như bị thôi miên, cô gái say mê quan sát người chủ tiệm đang trổ tài tạo hình trên khối đất sét, kéo dài nó lên thành hình xoáy ốc, rồi lại buông rơi nó xuống giữa cỗ máy xoay và bằng những ngón tay điêu luyện tạo hình nó thành một ống lăng trụ. Rồi sau khi thoa một tay vào lòng ông lăng trụ ấy, anh ta vuốt nhẹ bằng bàn tay còn lại; chẳng mấy chốc, như có phép thần, ống lăng trụ ấy đã trở thành một cái vò lớn có quai xách hẳn hoi.
Dick nhấn một nút chỉnh lưu, bánh xe ngừng quay. Ngoảnh mặt lại, chợt nhìn thấy Alice, gương mặt anh ta trở nên rạng rỡ.
– Alice Roy! Cô vào đây bằng cách nào vậy?
– Bằng cách cực kỳ đơn giản! Qua lối cửa ra vào. Cái vò mà anh vừa nắn xong ấy chính là cây đèn thần của Aladin. Anh đã chà tay lên đó… và thế là tôi xuất hiện!
Chàng trai cười phá lên. Rồi vội vàng trở lại nghiêm túc, anh nói:
– Sao tôi lại không có tài thần thông hơn thế nhỉ? Để bắt phải xuất hiện một vị thần tốt bụng có thể chở tôi tới một mỏ kaolanh có những chú lùn vui tính làm công nhân khai thác cho tôi.
– Có lẽ chúng ta không cần cầu cứu một ông thần đèn đâu Dick – Alice cười.
– Cô muốn nói gì vậy?
– Tôi tin là mình đã phát hiện được cái ống khói xiên sẽ đưa chúng ta tới mỏ kaolanh.
Dick há hốc miệng vì ngạc nhiên.
– Sao? Cô bảo sao? – Sau cùng, anh cũng thì thào được vài tiếng.
– Anh chớ vội cuống lên như thế, vì tôi chưa chắc lắm đâu.
Và Alice kể lại cho Dick nghe chuyến thám hiểm mà mình vừa tiến hành chung với Marion và Bess.
Một nụ cười trẻ con làm sáng rỡ những đường nét trên gương mặt chàng trai. Anh tiễn chân cô khách trẻ ra tận cánh cửa thông ra đường phố.
– Tôi sẽ thông báo kịp thời cho anh, ngay khi có tin gì mới! – Alice nói trong lúc bắt tay Dick.
o O o
Tối hôm ấy, dùng bữa xong, Alice theo cha vào phòng làm việc.
– Này con gái! – ông luật sư nói với giọng cố làm ra vẻ lạnh lùng nhưng vẫn không giấu được sự bao dung – Ta đoán là con đang âm mưu chuyện gì đây. Đừng tìm cách giấu ta, không ổn đâu. Huống nữa, ta còn có thể cho con những lời khuyên tốt.
Alice cười.
– Trước khi chế nhạo con, ba hãy nghe con tường thuật đầu đuôi câu chuyện đã.
Khi Alice vừa bắt đầu kể tới chỗ khu đất bí ẩn có rào cao vây quanh, ông Roy chợt nhăn mặt nhíu mày, vẻ lo ngại thấy rõ.
– Ba sẽ yên trí hơn nếu từ nay về sau con đừng bao giờ bén mảng vào khu rừng ấy nữa.
– Ơ kìa, ba! – Alice phản đối – Nếu con không quay lại đó thì làm sao biết được quanh khu vực cái ông khói xiên ấy có mỏ kaolanh hay không?
– Dù sao thì nó cũng nằm bên trong khuôn viên hàng rào – ông Roy nêu nhận xét – và ba dám cá với con là chủ sở hữu của khu đất đó sẽ không chịu bán hoặc chuyển nhượng nó cho ai đâu. Mà thôi, nếu con ham sục sao ở đấy tới mức đó thì ba cũng đành phải cho phép, với điều kiện là con không được đi một mình.
– Hoan hô ba và con xin hết lòng cám ơn ba. Ba là ngtrời tốt nhất trong mọi người cha trên cõi đời này!
Ông Roy rút từ trong túi ra một tờ giấy.
– Con có một manh mối đây. Nó liên quan đến hai cha con Thế Nguyên.
– Vậy ư? Xin ba nói lẹ cho con nghe đi.
– Mới hồi chiều này, ba đã nhận được điện thoại từ San Francisco. Cô thư ký của ba đã ghi lại nội dung thế này: ngay khi đặt chân đến San Francisco, cha con Thế Nguyên đã được đón tiếp bởi một người tên là David Carr. Hai ngày sau đó, ông ta đã đi chung với họ trong chuyến tham quan các cơ sở sản xuất đồ gốm sứ.
Cái tên trên chẳng cho Alice biết được điều gì cả.
– Carr – ông Roy nói rõ thêm – hình như là đại diện của một công ty xuất nhập khẩu ở San Francisco, chuyên tiếp thị và kinh doanh các mặt hàng đối lưu giữa hai nước Trung Quốc và Mỹ. Mai Thế Nguyên và Carr dường như đã có quan hệ làm ăn với nhau!
– Tay Carr ấy hình dáng, diện mạo ra sao hả ba? – Alice dò hỏi – Người gọi điện có cho biết đặc điểm nhận dạng của hắn không ạ?
– Không, họ nói là không có một tâm hình chụp nào của hắn cả và cũng không một ai có thể cung cấp một chi tiết rõ ràng nào về hắn. Điều lạ lùng là cả các cấp lãnh đạo lẫn các nhân viên của Công ty xuất nhập khẩu Phương Đông đều không thể cung cấp bất kỳ một thông tin đích xác nào về tên Carr ấy. Hình như trước nay hắn vẫn luôn luôn thường trú tại Trung Quốc. Tất cả các mệnh lệnh đều được chuyển tới hắn qua đường bưu chính. Chắc hẳn là, vì có quen biết với gia đình họ Mai, hắn đã muốn đích thân hướng dẫn họ tại quê nhà của hắn chăng?
– Rất có thể Carr chẳng xa lạ gì với vụ mất tích của hai bố con Thế Nguyên – Alice gợi ý.
– Có thể lắm chứ! Dù sao, ta cũng không giao cho con điều tra vụ này, Alice ạ.
Không để ý đến lời cha mình vừa nói, Alice chăm chú xem một tờ báo đặt trên bàn làm việc của luật sư Roy. Bất thần, một bản tin ngắn đã khiến cô chú ý. Cúi khom người, cô đọc lướt qua bài báo, rồi đọc lớn tiếng cho cha cùng nghe.
Đó là bài tường thuật một vụ trộm táo bạo, xảy ra tại New York. Một bình trà rất cổ, có từ đời nhà Tống, đã bị lấy trộm trên chiếc xe giao hàng của hãng Trần Dũng, một cửa hàng chuyên doanh những đồ thủ công mỹ nghệ cả cổ lẫn kim.
– Ủa! Chính đó là nơi ông Fellmor đã mua chiếc bình cổ để tặng cho vợ ông ta mà! – Alice reo lên – Con dám cá là hai vụ trộm ấy thế nào cũng có dính líu với nhau. Hay đúng ra là ba vụ, nếu ta kể luôn cả vụ mất trộm cái bình của ông Triệu nữa.
Alice liền đề xuất quyết định sẽ gọi điện vào sáng hôm sau đến cửa hàng ấy để hỏi xem tên trộm đã bị tóm cổ chưa.
– Sao con không gọi điện ngay tối nay cho cảnh sát New York? – Ông Roy gợi ý – Nếu con sợ không dám gọi thì để ba đích thân gọi giùm cho.
Vài phút sau, ông đã nắm được thông tin muốn biết. Tên trộm vẫn đang trên đường bôn tẩu.
– Con nghĩ sao, nếu hai ba con ta cùng đi New York và hỏi chuyện chủ nhân hoặc người quản lý của cửa hàng Trần Dũng? – Ông Roy đề nghị – Đây sẽ là cơ hội rất tốt để mình đến thăm cô Cécile của con, cô vẫn thường nhắc con tới thăm hoài mà không được đáp ứng nên giận con lắm đấy.
Alice rất yêu quí em gái của cha mình, một phụ nữ duyên dáng, là giáo sư dạy học ở New York.
– Con mà đặt được vé thì ba con ta sẽ đáp máy bay ngay sáng ngày mai.
Cô nói, lòng rộn ràng niềm vui trước viễn cảnh đó. Nhưng khi Alice gọi điện tới chỗ bán vé thì được trả lời là không còn chỗ nào nữa. May thay vào giờ chót, có một chỗ đặt trước đã không đi và nhân viên bán vé của hãng hàng không báo qua điện thoại với Alice. Được cha đồng ý, Alice đã ghi tên cô vào danh sách những hành khách sẽ cất cánh vào hồi 10 giờ sáng.
Sau đó Alice đã gửi một bức điện tín cho bà cô để loan báo chuyến ghé thăm của mình.
Xong xuôi, cô lên lầu chuẩn bị hành trang và lên giường ngủ, lòng rộn ràng vì hai ngày vui đang chờ đợi mình.
Sáng hôm sau, một cái mõm lạnh ngắt và ướt nhẹp cọ vào tay Alice đã đánh thức cô. Ngồi chồm hổm dưới chân giường, Togo, con chó săn thuộc giống fox-terrier, đang nhìn cô với đôi mắt khẩn khoản. Nó bắt đầu rên lên ư ử, trong lúc đuôi vẫn ngoắc qua ngoắc lại.
– Thôi đi, Togo, mày đóng kịch dở quá! Khỏi cần biểu diễn cái trò ấy nữa, chỉ mất công vô ích thôi. Tao không cho mày đi đâu. Ngoan nào!
Alice trồi dậy, nhanh nhẹn thay đồ. Hai giờ sau, cô bước lên một chiếc máy bay phản lực chở khách, sau khi đã ôm hôn cha mình.
Chuyến đi không có sự cố gì. Cuộc hạ cánh cũng vậy. Cô Roy đợi cháu gái trên sân bay. Đó là một phụ nữ thanh lịch đã đứng tuổi, có vẻ thông minh và đôn hậu. Alice giống bà như hai giọt nước kể cả cái vẻ duyên dáng có sức cuốn hút thiện cảm của mọi người.
Tự hào vì cháu gái, cô Roy cũng rất quí Alice. Khi Alice mất mẹ hồi còn nhỏ xíu, cô Roy đã định rời bỏ ngành giáo dục để có điều kiện lo việc nhà cho anh trai và luôn tiện chăm lo cho cháu. Nhưng vì đám học trò độ ấy đang cần cô và cũng vì bà vú Sarah đã tỏ ra rất mực đảm đang nên anh trai cô cương quyết từ chối. Tuy vậy, không có gì có thể làm vui lòng cô bằng những cuộc viếng thăm của Alice.
– Con có vẻ khỏe đấy, cháu cưng của cô – Bà cô nói trong lúc ôm hôn Alice. – Cha con độ này ra sao?
– Ba con cũng khỏe, cô ạ – Alice vừa đáp vừa vòng một cánh tay khoác lấy tay cô mình.
– Con đã dùng bữa trên máy bay chưa?
– Chưa ạ.
– Tốt lắm. Cô đã đặt trước một bàn tại một nhà hàng, ở đấy người ta sẽ dọn cho mình ăn ở ngoài vườn.
Gọi một người khuân vác hành lý, họ ra khỏi sân bay và vẫy một chiếc tắcxi.
Bữa ăn trưa rất sinh động. Alice đã kể lại cho bà cô nghe vụ những chiếc bình bị đánh cắp và cuộc truy lùng của mình để kiếm một mỏ kaolanh. Cô Roy quyết định đi cùng cháu gái đến cửa hàng bán đồ thủ công mỹ nghệ.
– Cô biết rõ nơi ấy – bà nói – Chủ tiệm rất có khiếu thẩm mỹ, ông đã thu gom được rất đa dạng những mặt hàng gốm sứ và những đồ trang sức đậm đà bản sắc Á Đông.
Tủ kính trưng bày và giới thiệu sản phẩm đã tranh thủ được tình cảm của Alice, khiến cô khó mà rời bước khỏi nơi ấy.
Ba người đàn ông đang đứng tụm lại bàn tán trong cửa hàng. Một người trong bọn họ tiến về phía hai cô cháu Alice.
– Thưa ông… ông Trần Dũng có ở đây không ạ? – Alice hơi ngập ngừng cất tiếng hỏi, vì không có gì chứng tỏ với có rằng danh xưng ghi trên cửa ra vào cũng chính là tên của chủ tiệm.
– Không – một trong mấy người bán hàng trả lời – Ông Trần Dũng ốm liệt giường đã sáu tuần nay rồi. Chẳng hay tôi có thể giúp cô được gì chăng? Tôi là người hùn vốn với ông Trần Dũng. Tên tôi là Tallow.
– Thưa ông, chuyện là thế này ạ – Alice đáp – Cách đây ít lâu, ông Fellmor, ở River City, có mua ở đây một cái bình cổ đời Minh rất mỹ thuật. Cháu muốn biết cái bình ấy tiệm của ông đã mua từ đâu ạ?
– Ông Fellmor à? – Người đàn ông lặp lại – Cô cho phép tôi xem lại sổ đặt mua hàng xem sao.
Ông ta đi tới một căn phòng nằm ở cuối cửa tiệm. Cô Roy và Alice lợi dụng cơ hội để quan sát các đồ gốm và đồ sành sứ sắp xếp rất mỹ quan trên các kệ hàng. Alice tình cờ nghe được loáng thoáng vài đoạn đối thoại giữa hai người đàn ông hồi nãy.
Hình như một trong hai người ấy là một viên thám tử, còn người kia, là tái xế của chiếc xe tải chở bình trà đã bị đánh cắp. Alice cô vểnh tai nghe ngóng.
– Tôi không thấy rõ nó – Người giao hàng nói – Tôi vừa ôm cái thùng đựng bình trà ra khỏi xe thì cảm thấy một nòng súng lục đang chĩa vào gáy mình. Một giọng đàn ông đã lệnh cho tôi đặt thùng đồ xuống hè phố, rồi phải lái xe đi ngay lập tức.
Alice tiến về phía hai người đàn ông. Sau khi xin lỗi vì đã ngắt lời họ, cô trình bày cho họ nguyên nhân sự tọc mạch của mình. Nghe Alice tự giới thiệu, viên thám tử liền tuyên bố sẵn sàng trả lời mọi câu hỏi của cô. Còn người giao hàng, anh ta chẳng có điều gì để nói thêm.
– Tôi không thấy gì hết và tôi đã quá sợ nên chẳng dại gì mà tỏ ra tò mò tọc mạch. Tôi đã làm theo những gì hắn ra lệnh cho tôi và vội vàng phóng xe đi như bị ma đuổi vậy.
Alice đang thất vọng vì chẳng biết thêm được gì nữa thì cô Roy đi tới giật nhẹ tay áo cô.
– Lại đây coi cái bình này đi – bà nói – nó rất giống với cái mà con đã tả với cô.
Bà dẫn cháu gái đến trước một tủ kính kê sát vách tường. Kinh ngạc, Alice thấy một chiếc bình gốm màu xanh lục trên đó nổi hằn lên hình chạm trổ một con rồng đen với những bộ móng màu đỏ tươi.
Cũng cái “mô típ” này từng điểm tô cho tấm thảm len mà Alice đã say mê nhìn ngắm tại phòng khách của ông Triệu và, theo cụ già dễ mến, thì cả chiếc bình đã bị đánh cắp tại cửa tiệm của Dick nữa.