Thư kiếm ân cừu lục
Hồi XIII – Chương 03
Lúc Văn Thái Lai quay về nhà trọ, Lạc Băng đã mặc xong quần áo, xách binh khí chuẩn bị ra ngoài tìm chồng. Thấy chàng trở về, trong lòng nàng vô cùng mừng rỡ nhưng cũng trách mắng: “Sao lén lút ra ngoài mà không kêu người ta một tiếng?”
Văn Thái Lai đáp: “Ai bảo muội ngủ ngon đến thế? Giả tỉ bị người ta bắt cóc đi chắc muội vẫn ngủ chẳng biết tí gì.”
Lạc Băng mỉm cười nói: “Như vậy cũng tốt, cho ca ca nếm thử mùi vị lo lắng một lần.” Nàng thấy thần sắc trượng phu ủ rũ, liền hỏi: “Sao thế?”
Văn Thái Lai đáp: “Ta đã gặp Thập tứ đệ. Y làm hòa thượng rồi.”
Lạc Băng ngẩn ra, Văn Thái Lai tiếp: “Chúng ta đi gặp tổng đà chủ đi.” Chàng gọi mọi người dậy, kể rõ những chuyện đã qua. Chương Tấn là người đầu tiên không nhịn nổi, nhảy chồm lên.
Mọi người lập tức đến Bảo Tướng tự. Vào trong chùa chỉ thấy trống rỗng không một bóng người, ai cũng nghĩ: “Tăng chúng trong chùa thấy đánh nhau ác liệt, hoảng sợ chạy trốn không dám trở về.”
Lạc Băng thấy trên bàn thờ phật có một tờ giấy bèn cầm lên đọc. Mọi người quây lại xem, thấy thư viết: “Tổng đà chủ cùng các vị ca ca! Tiểu đệ tội nghiệp nặng nề, xuất gia sám hối, quyết dứt nợ trần. Mọng các vị nỗ lực hoàn thành đại sự, dựng nên công nghiệp. Tiểu đệ sẽ ngày đêm khẩn cầu trước tượng phật vì sự nghiệp này. Bây giờ tiểu đệ phải ra ngoài quyên góp để trùng tu kim thân phật tổ, mấy tháng nữa mới có thể trở về đây. Hiện nay Quan Đông tam ma đã đi đến Hồi Cương tìm kiếm Thúy Vũ Hoàng Sam, phải tìm cách cản trở. Tiểu đệ Ngư Đồng bái tạ.”
Mọi người đọc xong đề có phần thương cảm, trong lòng Lạc Băng lại càng bứt rứt khó chịu. Chương Tấn giận dữ nói: “Xuất gia cái con mẹ gì? Chúng ta phóng hỏa đốt quách cái chùa nát này đi, xem cái thằng tú tài kiết đó còn làm thầy chùa được hay không?”
Nói xong, y lập tức cầm lấy cây nến, muốn đi phóng hỏa. Lạc Băng vội quát lên ngăn cản. Từ Thiên Hoằng nói: “Ta thấy Thập tứ đệ trần tâm chưa dứt, không làm hòa thượng suốt đời đâu.”
Văn Thái Lai hỏi: “Sao đệ biết?”
Từ Thiên Hoằng đáp: “Thứ nhất, y vẫn còn lo đến đại sự của chúng ta. Thứ hai, y muốn đi quyên giáo để trùng tu tượng phật. Xưa nay y tâm khí cao ngạo, không biết cầu xin người khác, làm sao đi xin tiền được?Xem chừng y phải theo đường cũ, cướp bóc những nhà giàu bất nhân bất nghĩa.”
Mọi người đều bật cười. Trần Gia Lạc nói: “Thế thì tu làm chi nữa?”
Từ Thiên Hoằng tiếp: “Ngay cả Thúy Vũ Hoàng Sam mà y vẫn còn lo tới, vậy thì làm hòa thượng không phải dễ. Cuối thư y lại kí tên tục, không viết pháp danh, rõ ràng không coi trọng thân phận hòa thượng của mình lắm.”
Mọi người nghe chàng giải thích có lí, đều vui vẻ hơn.
Văn Thái Lai lên tiếng: “Quan Đông tam ma võ công cao cường, không biết Thúy Vũ Hoàng Sam có địch nổi hay không?”
Từ Thiên Hoằng nói: “Chúng ta đã từng xem cô nương Hoắc Thanh Đồng đấu với Lục ma Diêm Thế Chương. Hoắc cô nương thua hắn một bậc, nếu không nhờ tổng đà chủ ra tay giải cứu thì chắc cô ấy đã trúng độc thủ của Lục ma rồi.”
Văn Thái Lai nói: “Hỏng rồi. Đại ma Tất Nhất Lôi sức lực hơn người, võ công cũng giỏi.”
Từ Thiên Hoằng nói: “Vậy chúng ta phải nhanh chóng khởi hành tới vùng Hồi tộc, cản trở tam ma dọc đường. Khi lo xong việc rồi mới trở về khuyên Thập tứ đệ.”
Mọi người đều khen phải.
Về đến Mạnh Tân thì trời đã sáng, cả hội ghé vào tửu lầu ăn mì, uống rượu. Từ Thiên Hoằng nói: “Tam ma đã khởi hành rồi, tốt nhất là chúng ta phải cử người cưỡi con ngựa trắng qua mặt chúng trước. Quân tình ở Hồi Cương đang khẩn trương, lão anh hùng Mộc Trác Luân phải bận rộn đối phó. Không thể để Thúy Vũ Hoàng Sam bị bất ngờ, bị tam ma đánh cho trở tay không kịp.”
Trần Gia Lạc thầm nghĩ: “Đúng là như vậy,” nhưng vẫn chau mày không nói gì. Chương Tấn lên tiếng: “Vậy để ta đi trước. Các huynh đệ theo sau ngay nhé.”
Từ Thiên Hoằng nói: “Lúc nào đệ cũng vội vã, dọc đường rất dễ gây chuyện làm hỏng đại sự.”
Chương Tấn nói: “Đệ không sanh sự là được rồi.”
Lạc Băng hiểu ý Từ Thiên Hoằng, bèn nói: “Đệ không biết tiếng Hồi, dọc đường chắc có điều bất tiện. Bây giờ nơi nào cũng có chiến sự, đừng để người Hồi sinh chuyện hiểu lầm.”
Trong mọi người ở đây, chỉ có Trần Gia Lạc và Tâm Nghiễn đã sống gần mười năm ở Hồi Cương là biết tiếng Hồi. Rõ ràng Lạc Băng muốn hai người này đi, nhưng Trần Gia Lạc vẫn không lên tiếng. Tâm Nghiễn nói: “Thiếu gia, vậy để tiểu nhân đi trước một bước.”
Từ Thiên Hoằng nói: “Tổng đà chủ! Thuộc hạ thấy tổng đà chủ đi trước ổn thỏa hơn. Tổng đà chủ biết tiếng Hồi, công phu lại giỏi. Quan Đông tam ma chưa biết mặt tổng đà chủ, lỡ gặp phải dọc đường thì động thủ hay không động thủ cũng không sao. Sau khi đến nơi, nếu bọn tam ma vẫn không chịu dừng tay, tổng đà chủ có thể tỏ ý để giúp người Hồi.”
Trần Gia Lạc suy nghĩ một lúc rồi nói: “Được rồi.”
Ăn mì xong, chàng cảm tạ Thượng Quan Nghị Sơn, từ biệt mọi người rồi cưỡi con ngựa trắng của Lạc Băng đi về phía tây.
* * *
Biết tin Quan Đông tam ma đi tìm Hoắc Thanh Đồng để trả thù, Trần Gia Lạc hết sức quan tâm. Hình ảnh Thúy Vũ Hoàng Sam mất hút dần trong đại mạc vẫn còn chiếm trọn tấm lòng chàng. Nhưng mỗi khi nghĩ đến, chàng lại nhớ người thiếu niên họ Lý và nàng thân mật khác thường. Thiếu niên đó trông như nữ cải nam trang, dung mạo mĩ miều giống như kép hát. Trong lòng Trần Gia Lạc lúc nào cũng xem thường y, thế mà Hoắc Thanh Đồng lại coi trọng y mà không để mắt đến tổng đà chủ Hồng Hoa Hội như mình vào mắt. Tuy nàng đã từng tặng chàng đoản kiếm, trong lòng chàng cũng nổi lên ý ghen tị, nên cảm thấy khó mà thân cận. Mỗi lần nghĩ đến nàng, chàng chỉ muốn coi đó là một bằng hữu anh hùng hiệp nghĩa, cố dứt tình nhi nữ.
Con ngựa trắng này quả rất phi thường, cưỡi nó chỉ cảm thấy gió thổi ào ào qua bên tai, đồi núi, cây cối ở hai bên đường lùi về sau lưng như biết bay vậy. Đến giờ ngọ chàng đã chạy hơn hai trăm dặm, chắc đã bỏ Quan Đông tam ma lại phía sau từ lâu rồi. Nghỉ ăn cơm xong, chàng lên ngựa chạy tiếp, biết mình chạy thêm một ngày nữa là Quan Đông tam ma đừng hòng đuổi kịp, có thể yên tâm nghỉ đêm trong khách điếm.
Chưa đầy một ngày nữa, Trần Gia Lạc đã tới Tiêu Châu. Lên đỉnh Gia Cốc quan, đứng tựa vào tháp canh, chàng đảo mắt nhìn quanh thấy trường thành uyển chuyển như sợi chỉ vòng vo ôm lấy giang san, khống chế một vùng hoang mạc rộng lớn. Ra ngoài quan ải, chàng cũng theo lệ mà ném một cục đá vào trường thành ở quan ngoại. Hành trình ở vùng gió cát lắm chuyện gian nan, người ta đồn rằng nếu ra ngoài quan mà lấy đá ném vào trường thành thì có thể sống sót trở về quan nội.
Đi tiếp mấy dặm nữa chỉ còn thấy khói bụi cuồn cuộn, mặt trời đã ngả hoàng hôn. Nghe văng vẳng tiếng hát của mấy người cưỡi lạc đà: “Mỗi lần qua ải Gia Cốc, hai mắt không sao ráo lệ. Ông bà gươm giáo giết nhau, con cháu chỉ còn bãi cát hoang vu.” Tiếng ca thê lương truyền đi cả một vùng hoang vắng.
Dọc đường ngày đi đêm nghỉ, qua khỏi Ngọc Môn rồi tới Tây An, sa mạc từ màu vàng nhạt trở thành vàng đậm, rồi từ màu vàng đậm trở thành màu xám tro, sắp đến Qua Bích rồi. Ở vùng này thì không có nhà cửa bếp núc gì nữa. Sa mạc mênh mông, mắt nhìn không vướng, đúng là nơi dụng võ của con ngựa trắng. Tinh thần nó phấn chấn hẳn lên, phi càng nhanh chóng, chẳng bao lâu phía trước đã thấy một dãy núi xuất hiện mờ mờ.
Vách đá càng lúc càng gần, dựng thành hình chữ nhất vươn hẳn ra ngoài. Phía sau núi đá, mây mù bao phủ dày đặc, cứ như trong đó có một khu đất trời khác hẳn. Đi đến gần, người ta mới đột nhiên thấy giữa vách đá có một khe nứt. Con ngựa trắng theo hẻm núi đó mà chạy thẳng vào trong. Đó chính là Tinh Tinh Hiệp, đường giao thông quan trọng nối giữa Cam Túc và Hồi Cương.
Hai bên hẻm núi này vách đá dựng thẳng đứng lên trời, giống như dao gọt mà thành. Ngẩng đầu nhìn lên chỉ thấy bầu trời xanh xám, giống như nhìn từ dưới đáy biển vậy. Nếu ban đêm thì nhìn lên chỉ thấy toàn sao có lẽ vì thế mà hẻm núi này có tên là Tinh Tinh Hiệp.Trong hẻm núi, nham thạch toàn một màu đen tuyền, bóng loáng đến mức phát ra ánh sáng. Con đường quanh co quẹo lại, khúc chiết lạ thường.
Lúc này đã mùa đông, trong hẻm núi bắt đầu có tuyết. Tuyết trắng đá đen phản chiếu vào nhau, thật là kì quan khó tả. Trần Gia Lạc thầm nghĩ, khe núi này địa thế hiểm trở, dùng binh tấn công qua đây thật là không dễ. Năm xưa, khi chàng còn nhỏ vừa đến Hồi Cương đã thấy cảnh này nhưng lúc đó không lưu ý lắm.
Qua khỏi Tinh Tinh Hiệp, chàng nghĩ lại một đêm trong căn nhà nhỏ, hôm sau lại khởi hành đi tiếp. Hai bên đều là những ngọn núi đá đen nhánh liên miên bất tận. Chạy mấy giờ nữa thì đến đại mạc Qua Bích. Qua Bích bằng phẳng như một mặt gương rất lớn, hoàn toàn không có đồi cát như sa mạc thông thường. Trần Gia Lạc đưa mắt nhìn ra xa chỉ thấy trời đất nối tiếp nhau, cả một vùng thiên địa mênh mông không có một tiếng động, dường như vũ trụ chỉ còn một người một ngựa. Tuy võ công của chàng cao cường nhưng thấy cảnh tượng này cũng bất giác sợ hãi, cảm thấy thế giới bao la không bờ bến, còn bản thân mình thì chỉ là hạt bụi vô nghĩa.
Đến trước thành Ha Mật, chàng nghĩ là quân tình đang khẩn cấp, lữ khách từ quan ngoại đến đây chắc sẽ bị tra xét nghiêm mật. Vì thế chàng vòng sang Nhị Bảo, chỉ cần đi tiếp về phía tây là có thể hỏi thăm chỗ ở của Hoắc Thanh Đồng rồi. Nhưng chàng nghĩ: “Mình là người Hán, chỉ sợ bị người Hồi nghĩ là gian tế, làm sao họ tin mình được? Chắc phải tốn một phen giải thích. Nếu thay đổi trang phục của người Hồi thì hơn.” Chàng bèn ghé vào Nhị Bảo mua một cái nón thêu hoa, một đôi ủng bằng da, mấy bộ y phục có hoa văn mà người Hồi thường mặc. Sau đó chàng tìm chỗ hoang vắng thay đổi y phục, chôn quần áo cũ của mình vào cát. Lúc đi ngang một khe nước, chàng soi vào thấy mình trông chẳng khác một thiếu niên Hồi tộc, bất giác mỉm cười lòng cảm thấy vui vui.
Nhưng chàng đi mãi mà không gặp người Hồi nào cả. Nhà cửa, làng mạc của người Hồi đều đã bị san thành bình địa, dĩ nhiên đó là tác phẩm của đại quân triều đình. Nhất định người Hồi đã chạy trốn vào giữa sa mạc hết rồi.
Trần Gia Lạc không khỏi lo lắng. Trong vùng sa mạc mênh mông này, phải đi đâu mới tìm được Hoắc Thanh Đồng? Chàng nghĩ nếu mình tiếp tục đi theo đường cái thì chưa chắc sẽ gặp người nào, bèn rẽ theo một con đường nhỏ chạy về hướng nam, cố gắng đi vào vùng núi hoang vắng.
Hồi Cương vốn hoang vu, không đi dọc con đường cái thì rất khó gặp nhà cửa. Chàng đi về hướng nam được ba ngày thì ăn hết cả lương khô, may mà bắt được một con dê lạc. Đi thêm hai ngày nữa, dọc đường chàng gặp được mấy người chăn nuôi. Hỏi ra thì họ đều là người Kha Tất Khắc. Họ chỉ biết sau khi đại quân Mãn Thanh đến đây, dân chúng Hồi tộc đều về phía tây, nhưng không biết lùi đến chỗ nào.
Trần Gia Lạc không tính toán gì được cả, chỉ biết giục ngựa chạy về phía tây, mặc cho ngựa đi đâu thì đi, không thèm điều khiển nữa. Mỗi ngày chạy được ba bốn trăm dặm, được bốn ngày thì trước mắt chỉ nhìn thấy mênh mông cát, màu trời xám xịt, không biết đâu mới là chỗ tận cùng.
Một hôm, khí trời đột ngột nóng lên. Thời tiết trên sa mạc trở nên khắc nghiệt, trong vòng một ngày mà biến đổi nóng lạnh mấy lần. Nước đựng trong túi da hết đóng thành băng lại nóng như sôi. Lúc mặt trời tới đỉnh đầu, cả ngựa lẫn người đều ướt đẫm mồ hôi.
Trần Gia Lạc muốn tìm chỗ có bóng râm, nhưng nhìn quanh tứ phía đều mênh mông bãi cát. Chàng phải chạy về phía một đồi cát khá lớn, che khuất nắng một chút, rồi mở túi da đựng nước ra uống ba hớp. Tuy chưa đã khát nhưng chàng không dám uống nhiều. Giả tỉ uống cạn mà chưa tìm được nguồn nước, thật chỉ còn con đường chết.
Nghỉ ngơi khoảng một giờ, chàng lại nhảy lên lưng ngựa. Đi không có mục đích, cả người lẫn ngựa đều chậm chạp mệt mỏi. Đột nhiên con ngựa trắng ngẩng đầu lên ngửi ngửi mấy cái, hí vang một tiếng rồi quay đầu chạy sang hướng khác. Trần Gia Lạc biết con ngựa này rất có linh tính, nên mặc kệ nó đưa mình đi đâu thì đi. Chạy không bao lâu, trên mặt cát đột nhiên xuất hiện những bãi cỏ thưa thớt, rồi cỏ mọc càng lúc càng nhiều hơn.
Trần Gia Lạc biết ở phía trước chắc chắn có nguồn nước, trong lòng rất mừng rỡ. Con ngựa trắng lúc này cũng phấn chấn hẳn lên, tung bốn vó phi như bay, chỉ chốc lát đã nghe thấy tiếng nước chảy róc rách, phía trước xuất hiện một khe nước nhỏ. Con ngựa trắng chạy đến bên khe nước, Trần Gia Lạc nhảy xuống ngựa. Nước trong khe này trong veo nhìn thấy đáy. Chàng vỗ vỗ vào lưng ngựa, mỉm cười nói: “May mà ngươi tìm được con suối này. Chúng ta cùng uống đi.”
Chàng cúi xuống khe, vốc mộc hớp nước, uống vào cảm thấy mát mẻ thấu tới tim gan. Nước đã ngọt ngào lại có hương thơm thoang thoảng, chắc chắn phải từ một nguồn suối tuyệt vời chảy ra. Trong khe nước lại có vô số mảnh băng vụn chạm vào nhau phát ra những tiếng lanh canh thánh thót, nghe như tiếng nhạc. Con ngựa trắng uống mấy hơi dài rồi hí lên một tiếng, nhảy quẩn quanh mấy cái, rõ ràng nó cũng hết sức vui mừng mà không nói được.
Trần Gia Lạc uống đã nước suối, tinh thần khoáng đạt sảng khoái hẳn lên. Chàng nhìn xuống thấy thân thể mình đầy cát bụi, bèn xắn ống quần lên bước xuống nước, rửa đầu mình chân tay sạch sẽ. Sau đó chàng dẫn ngựa tới, tắm rửa cho nó một phen, cuối cùng mới lấy hai cái túi da ra múc đầy nước.
Đột nhiên chàng thấy giữa những miếng băng óng ánh có mấy cánh hoa. Khe nước này có mùi thơm chắc chắn trên thượng nguồn có hoa mọc. Chàng nghĩ đi dọc theo khe suối này không chừng sẽ gặp được ai đó, hi vọng hỏi được hành tung của Hoắc Thanh Đồng, bèn tung người lên ngựa mà đi dần lên thượng nguồn con suối.
Càng đi thì dòng khe càng rộng ra. Trên vùng sa mạc, bất cứ dòng suối nào trên thượng nguồn cũng nhiều nước hơn, đến hạ lưu thì nước dần dần bị sa mạc hút cạn, rồi cuối cùng mất hút. Chàng đã ở Hồi Cương rất lâu nên không thấy thế là lạ, cứ phi ngựa chạy nhanh.
Địa thế cao dần, đi vào một vùng núi. Khe nước cứ vòng vo quanh qua quanh lại, dẫn chàng đến một vùng đất cao hơn. Đột nhiên trước mắt chàng hiện ra một cái thác bạc, xối xuống ầm ầm không dứt. Nước từ ngọn núi đổ xuống, bụi nước bay tứ tán khắp xung quanh, thật là một kì quan.
Trong vùng sa mạc hoang vu mà nhìn thấy cảnh đẹp thế này, bất cứ là ai cũng phải sảng khoái. Lòng hiếu kì của Trần Gia Lạc nổi lên, muốn xem phía trên cái thác này còn những phong cảnh gì nữa. Chàng bèn dẫn ngựa đi vòng từ phía tây lên. Qua mấy khúc quanh, băng qua một rừng thông rất cao, chàng bất giác phải giật mình.
Trước mặt xuất hiện một cái hồ lớn, ở bên kia hồ là một thác nước khá hùng vĩ. Bụi nước bắn ra tứ phía, ánh mắt trời chiếu vào làm xuất hiện một cái cầu vồng. Quanh hồ cây cỏ hoa lá xum xê, hoa trắng, hoa đỏ cùng ánh vào màu xanh bích của mặt hồ, trông kì ảo vô cùng. Xa xa là một bình nguyên đầy cỏ xanh trải ra mênh mông như nối liền với chân trời. Trên bãi cỏ có mấy trăm con dê trắng vừa tung tăng đùa giỡn vừa gặm cỏ. Phía tây của thảo nguyên có một ngọn núi cao chọc thẳng lên trời, xuyên qua những đám mây. Trên đỉnh núi tuyết phủ trắng xóa, giữa lưng chừng núi trở xuống thì cây cối xanh tươi.
Lúc đó Trần Gia Lạc đứng ngẩn ra giương mắt mà nhìn tâm thần không biết phiêu diêu tới chỗ nào. Lại còn tiếng chim hót trên cành cây, tiếng những tảng băng khua vào nhau trên mặt hồ, hòa cùng tiếng thác đổ thành một bản nhạc tiên.
Chàng nhìn xuống mặt hồ, đột nhiên thấy có vòng sóng lan ra. Một cánh tay trắng như ngọc từ dưới hồ đưa lên, rồi đến một cái đầu nhô lên khỏi mặt nước. Người đó vừa quay đầu lại bỗng nhìn thấy chàng liền la lên kinh hãi rồi lại lặn xuống dưới nước.
Trong chớp nhoáng Trần Gia Lạc đã nhìn thấy rõ ràng đó là một thiếu nữ xinh đẹp tuyệt vời. Chàng kinh hãi nghĩ thầm: “Chẳng lẽ có sơn tinh, thủy quái thật hay sao?” bèn cho tay vào bọc lấy ra ba con cờ vây hờm sẵn.
Trên mặt hồ bỗng xuất hiện gợn nước dẫn về hướng đông, rồi sột soạt mấy tiếng, đầu của thiếu nữ ấy từ giữa rừng hoa chui ra. Giữa đám cỏ cây xanh tươi lộ ra một chút da thịt trắng tuyết, mớ tóc dài đen nhánh vẫn xõa trên mặt hồ, đôi mắt trong sáng như sao trời thì nhìng sang bên này lộ vẻ ngần ngừ. Trần Gia Lạc không thể coi đó là yêu tinh được nữa. Chàng nghĩ: “Người phàm làm sao đẹp như thế được? Nếu đây không phải là thủy thần thì cũng là thiên tiên xuống tắm.”
Một thanh âm thánh thót cất lên: “Huynh là ai? Đến đây làm gì?”
Nàng nói tiếng Hồi, tuy Trần Gia Lạc nghe hiểu mà lại như không hiểu, cứ ngơ ngẩn hồi lâu không đáp, hồn phách tiêu điêu giống như đang nằm mơ hay say rượu vậy. Giọng nói đó lại vang lên: “Huynh đi đi, để ta mặc quần áo.”
Mặt của Trần Gia Lạc đỏ bừng lên, lập tức quay người đi vào trong rừng. Chàng ngồi xuống đất, tim đập thình thịch, thầm nghĩ: “Chẳng lẽ đây chỉ là một cô gái người Hồi bình thường hay sao? Nàng khỏa thân tắm rửa trong hồ, thế mà ta còn không biết tránh ra cho nàng sửa sang y phục, thật là không nên không phải.” Thật sự chàng không biết phải làm gì, muốn lập tức chạy trốn đi, nhưng lại nghĩ: “Đâu có dễ gì gặp được một người, sao ta không hỏi cô ấy về tin tức của Hoắc Thanh Đồng?”
Chàng đang phân vân không quyết, đột nhiên từ bên kia hồ vang lên tiếng hát dịu dàng thánh thót: “Người đại ca đi qua đường, huynh trở lại đây!Sao huynh không mở miệng, chạy trốn quá nhanh? Ta đang tắm, huynh lén lút nhìn. Ta hỏi huynh rằng: có nên như thế hay không?”
Giọng nàng nhẹ nhàng hoạt bát, chỉ nghe cũng tưởng tượng được trên môi hát đang nở một nụ cười rất tươi.
Trần Gia Lạc nghe trong lời ca phần đùa giỡn nhiều hơn là trách móc, bèn từ từ quay về phía hồ, lại từ từ ngẩng đầu lên. Chàng thấy ở bờ hồ đối diện, dưới tán hoa đỏ có một thiếu nữ mặc y phục toàn một màu trắng như tuyết, tóc dài xõa ngang vai, đang dùng lược chải hết sức chậm rãi. Nàng còn để chân trần, trên khuôn mặt và mái tóc còn vương những giọt nước.
Nhìn thấy cô gái trong sáng như hạt minh châu, Trần Gia Lạc tim đập rộn lên, thầm nghĩ: “Trên đời lại có người đẹp đến thế hay sao?”
Nàng ngồi bên hồ, thư thái tự tại, thanh nhã, trong sáng tuyệt vời, không thể tin là người phàm. Màu áo trắng ánh lên mặt nước, từng cánh hoa rơi xuống tóc nàng, áo nàng, bóng nàng. Bình thường Trần Gia Lạc vẫn tiêu sái tự nhiên, nhưng lúc này không nói được một lời nào cả.
Thiếu nữ kia đưa mắt nhìn chàng, mỉm cười rồi vẫy tay gọi đến gần. Bấy giờ Trần Gia Lạc mới dùng tiếng Hồi nói một câu: “Tại hạ đi qua vùng này, trời nóng, cổ rất khát. Đột nhiên trông thấy khe suối trong mát nên tìm đến đây, không ngờ vô ý gặp phải cô nương. Thật là tội lỗi, xin cô nương tha thứ.”
Nói xong, chàng khom người thi lễ. Thiếu nữ nghe chàng nói chuyện phong nhã, lại mỉm cười rồi hát một bài nữa: “Người đại ca qua đường, huynh đến từ đâu? Huynh đi qua bao nhiêu sa mạc, bao nhiêu ngọn đồi? Huynh ở trên thảo nguyên này chăn dê hay chăn bò? Hay huynh đang đưa lạc đà, đưa ngựa đi mua bán?”
Trần Gia Lạc biết người Hồi rất thích ca hát, khi nói chuyện họ vẫn thường ứng khẩu mà hát, hễ mở miệng là có âm điệu, nghe rất tự nhiên. Tuy chàng sống ở đại mạc nhiều năm, nhưng chỉ siêng năng rèn luyện võ công mà không học được bản lãnh này. Chàng không biết lai lịch thiếu nữ ra sao, chưa muốn nói cho nàng rõ, bèn đáp: “Ta đến từ phía đông, vốn ở vùng quan ngoại buôn bán lạc đà. Hiện ta đang cần tìm một người, muốn hỏi thăm cô nương.”
Thiếu nữ thấy chàng không biết hát, mỉm cười chế giễu rồi hỏi: “Huynh tên gì vậy?”
Trần Gia Lạc đáp: “Ta tên là A Mật Đạt.” Đó là tên nam nhân thông dụng nhất của người Hồi,
Thiếu nữ cười nói: “Cũng được! Nếu thế thì muội tên là Ái Tây Hạn.” Đây cũng là tên nữ nhân mà người Hồi thường dùng nhất, giống như Vân, Phượng, Trinh, Thục gì gì đó của người Hán vậy.
Thiếu nữ lại hỏi: “Huynh cần tìm ai?”
Trần Gia Lạc đáp: “Ta muốn tìm lão anh hùng Mộc Trác Luân.”
Thiếu nữ mỉm cười, ngạc nhiên hỏi: “Huynh quen biết ông ấy hay sao? Huynh cần tìm ông ấy có việc gì?”
Trần Gia Lạc đáp: “Ta có quen ông ấy. Ta cũng quen biết con trai ông ấy là Hoắc A Y, con gái ông ấy là Hoắc Thanh Đồng.”
Thiếu nữ hỏi: “Huynh đã gặp họ ở đâu?”
Trần Gia Lạc đáp: “Khi họ đến Trung Nguyên để đoạt lại thánh kinh, ta đã hân hạnh được gặp.”
Thiếu nữ gật đầu: “Vậy thì đúng rồi. Huynh ngồi xuống đây để muội đi lấy chút ít thức ăn trước đã!” Nàng cứ chân đất chạy vào lùm cây, lát sau lấy ra một trái dưa màu xanh ngọc, một chén lớn sữa ngựa hòa với rượu đưa cho chàng. Trần Gia Lạc cảm tạ, uống trước một hớp sữa ngựa, cảm thấy thơm ngon khó tả. Thiếu nữ lại đưa chàng một con dao nhỏ bằng bạc để xẻ dưa ra. Ruột dưa vàng như vải đoạn, cắn vào một miếng thơm ngát cả mồm, ngọt ngào hơn cả mật ong.
Thiếu nữ lại hỏi: “Huynh tìm Mộc Trác Luân lão gia có chuyện gì không?”
Trần Gia Lạc nghe nàng ra vẻ rất tôn kính Mộc Trác Luân, liền hỏi: “Lão anh hùng Mộc Trác Luân là người cùng tộc với cô hay sao?”
Thiếu nữ gật đầu. Trần Gia Lạc tiếp: “Lúc các vị đoạt lại thánh kinh đã giết mấy người tiêu sư. Bây giờ bọn chúng định tới tìm Hoắc Thanh Đồng cô nương để trả thù. Ta biết tin này nên đến báo tin, để cô ấy biết đường phòng bị.”
Từ nãy thiếu nữ vẫn mỉm cười, bây giờ mới lộ vẻ lo lắng, bèn hỏi: “Người đến trả thù có đông không? Nguy hiểm lắm không?”
Trần Gia Lạc đáp: “Người thì không nhiều nhưng võ nghệ rất cao. Nếu mình có chuẩn bị trước thì không đáng sợ lắm.”
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.