Thư kiếm ân cừu lục
Hồi XVII – Chương 04
Hoắc Thanh Đồng bỗng nhảy chồm lên, la lớn: “Ái chà! Họ có thể từ hồ phỉ thúy mà thoát ra ngoài.”
Hương Hương công chúa đọc tiếp:
“A Lý đuổi theo đến đây. Ta và chàng nhìn thấy nhau đều không kiềm chế nổi, xông tới ôm chặt lấy nhau. Chàng gọi ta bằng những cái tên êm ái dễ nghe. Lưỡi của ta đã mất đi một khúc, không thể nói thành tiếng được, nhưng chàng vẫn hiểu được tiếng nói từ đáy lòng ta. Đột nhiên tên Sang La Ba đê tiện, tên Sang La Ba ác ôn, còn ác ôn hơn ngàn con ma quỷ, vạn con ma quỷ, từ phía sau dùng búa…”
Hương Hương công chúa đọc đến đây bất giác thét lên một tiếng, buông quyển sổ da cừu rơi xuống giường, mặt đầy vẻ kinh hoàng. Hoắc Thanh Đồng xoa nhẹ vai nàng, rồi nhặt quyển sách cổ đó lên đọc tiếp giúp nàng:
“… từ phía sau dùng búa chém đầu A Lý của ta thành hai mảnh, máu của chàng xối tràn lên người ta. Sang La Ba bế đứa con trên giường đặt vào tay ta, gọi: “Đi thôi!” Ta nhấc đứa nghiệt chủng đó lên, dùng sức ném xuống đất, nó chết ngay trên vũng máu tươi của A Lý. Sang La Ba thấy ta ném chết con của chính mình, kinh hãi đứng sững ở đó. Rồi hắn vung cây búa vàng lên, ta vươn dài cổ ra cho hắn chém. Nhưng hắn chỉ thở dài rồi chạy ra ngoài.”
“A Lý đã được tới bên mình chân thánh, ta cũng đi theo chàng. Dũng sĩ của chúng ta chết rất nhiều, nhưng võ sĩ của Sang La Ba đã bị giết sạch cả rồi. Nhất định hắn không thể sống được nữa. Hắn vĩnh viễn không thể áp bức giáo đồ Islam chúng ta được nữa. Con trai của hắn bị ta ném chết rồi, thế là dòng dõi của hắn không thể bức hiếp chúng ta được nữa, vì hắn không còn dòng dõi. Từ nay về sau, người Hồi chúng ta có thể sống trên thảo nguyên bình yên hạnh phúc. Những cô nương trẻ tuổi có thể nằm trong lòng người yêu mà ca hát. Ca ca của ta, A Lý của ta, cả ta đều phải chết, nhưng chúng ta đã đánh bại tên bạo chúa này. Dù cho thành trì của bạo chúa có chắc chắn gấp mười, chúng ta vẫn có thể tấn công tiêu diệt. Mong rằng chân thánh A-la sẽ phù hộ người Hồi tộc chúng ta.”
Đọc đến chữ cuối cùng, Hoắc Thanh Đồng từ từ xếp quyển sách cổ này lại. Ba người đều bị lòng dũng cảm và trinh liệt của Mã Mễ Nhi làm chấn động, rất lâu không ai nói được gì. Hương Hương công chúa tuôn nước mắt, buông lời than thở: “Vì không chịu để mọi người bị bạo chúa hà hiếp, nàng đã chịu vĩnh biệt người yêu, chịu cắt đứt đầu lưỡi, lại còn chính tay ném chết con mình.”
Trần Gia Lạc bất giác toát mồ hôi lạnh, nghĩ thầm: “Nghĩ tới vị cô nương thời cổ này, ta thật sự hổ thẹn vô cùng. Ta phải gánh vác đại nghiệp quang phục giang sơn người Hán, thế mà trong lòng chỉ nghĩ đến chuyện tình cảm của bản thân. Ta không lo dốc sức đuổi bọn man rợ ra ngoài quan ải để lấy lại giang sơn, lại ở đây lo suy nghĩ yêu tỉ tỉ hay yêu muội muội… Vì dũng khí bồng bột nhất thời mà ta đích thân đưa Kha Tư Lệ vào doanh trại quân Thanh, không nghĩ đến nếu mình gặp chuyện không may thì hỏng mất đại sự quang phục nhà Hán. Hôm nay bị giam vào lòng núi, ta chết cũng chẳng tiếc gì, nhưng làm sao xứng với ngàn vạn huynh đệ Hồng Hoa Hội, làm sao xứng với vô số phụ lão, huynh đệ, tỉ muội đang chịu cực khổ dưới gót sắt của quân thù?”
Chàng càng hối hận càng khó chịu, mồ hôi lạnh từ trên trán từng giọt rơi xuống. Hương Hương công chúa thấy thần sắc của chàng khác lạ, vội lấy khăn tay ra lau giúp mồ hôi. Trần Gia Lạc bất giác gạt tay nàng, đẩy cái khăn ra.
Thấy người yêu đột nhiên ra vẻ chán ghét mình, Hương Hương công chúa ngơ ngác chẳng hiểu gì. Trần Gia Lạc định thần lại, nhận lấy chiếc khăn của nàng mà lau mồ hôi, trong lòng đã có chủ ý: “Trước khi hoàn thành sự nghiệp quang phục nhà Hán, ta quyết không nghĩ đến chuyện tình duyên nữa. Hai cô gái này từ nay về sau đều là hảo bằng hữu của ta, là hảo muội muội của ta.”
Chàng rút thanh đoản kiếm ra cắm lên cái bàn tròn trước mặt, lập tức cảm thấy sảng khoái, bao nhiêu phiền não mấy ngày nay hoàn toàn sạch hẳn. Thấy thần sắc chàng lại vui vẻ, Hương Hương công chúa yên tâm hơn một chút.
Tất cả những chuyện đó, hình như Hoắc Thanh Đồng không nghe thấy, không nhìn thấy. Nàng vẫn chăm chú đọc những dòng chữ nhỏ xíu và bản đồ trên tờ giấy, vừa nghiền ngẫm hồi lâu vừa lẩm bẩm ngắt quãng: “Rõ ràng gian ngọc thất này đã là chỗ tận cùng, không có đường đi nữa… Thế mà di thư lại nói, Sang La Ba đến ngọc thất này bảo cô ta chạy ra hồ phỉ thúy… Về sau Sang La Ba không chạy trốn, mà vòng ra ngoài đánh trở về. Nhất định là hắn vừa dũng cảm vừa thần lực hơn người, đám dũng sĩ Islam không cản nổi nên bị hắn hất vào sau cửa đá, nhốt trong đó cho đến chết… Bản đồ có vẽ một con đường hầm đi đến bên hồ…”
Trần Gia Lạc không bị tình yêu và dục vọng chi phối nữa, đầu óc lập tức sáng suốt hẳn ra. Chàng kêu lên: “Nếu có đường thông đạo, nhất định phải ở trong gian ngọc thất này.”
Chàng nhớ tới vụ cứu Văn Thái Lai ra khỏi phủ đề đốc tại Hàng Châu, Trương Triệu Trọng từng trốn qua một cái cửa bí mật ở trên tường. Ba người bèn đốt lửa lên tìm kiếm tỉ mỉ ở trên vách ngọc thất, xem thử có khe hở nào không. Soi khắp bốn phía cả trên lẫn dưới vẫn không phát hiện được gì. Hoắc Thanh Đồng kiểm tra tỉ mỉ chiếc giường bằng ngọc cũng không thấy gì khác lạ.
Trần Gia Lạc nghĩ đến vụ Văn Thái Lai bị bắt trong Thiết Đảm Trang, lại kêu lên: “Chẳng lẽ dưới cái bàn này có đường hầm hay sao?” Chàng vận nội lực toan nhấc cái bàn đá lên, nhưng không thấy động đậy bèn mừng rỡ nói: “Nhất định cái bàn này có chỗ kì quái.”
Với nội lực của chàng mà hết sức nhấc lên, dù cái bàn này nặng tới ngàn cân cũng phải nhúc nhích mới đúng. Nhưng dù đẩy ngang kéo thẳng thế nào, cái bàn đá này cũng lì ra đó, cứ như chân bàn đã dính chặt xuống nền phòng.
Hoắc Thanh Đồng cả mừng cầm đuốc soi xuống chân bàn để kiểm tra, rồi lập tức thất vọng. Thì ra đúng là chân bàn dính chặt xuống nền phòng. Cái bàn tròn này được chạm trổ từ nguyên khối ngọc thạch liền với nền đá, dĩ nhiên không di chuyển được.
Ba người vất vả nửa ngày hoàn toàn vô ích, bụng đã đói meo. Hương Hương công chúa lấy thịt dê ướp và lương khô ra, mọi người ăn một chút rồi ngồi tựa vào ghế mà nghỉ sức dưỡng thần.
Nửa giờ sau, luồng ánh sáng mặt trời rọi đúng vào mặt bàn. Hương Hương công chúa bỗng nói: “Úi chà! Trên cái bàn này có chạm trổ hoa văn.”
Nàng tới gần xem kĩ, thì ra mặt bàn có khắc một bầy lạc đà có cánh. Hoa văn cực nhuyễn, nếu ánh nắng không rọi thẳng vào thì không thể nhìn thấy được. Hình chạm trổ rất công phu nhưng có vẻ lệch lạc, đầu con lạc đà nào cũng cách thân mình tới hơn một thước. Nàng nhìn thấy không hài lòng, bèn nắm lấy cạnh bàn định xoay từ bên phải sang bên trái cho khớp vào nhau, không ngờ xoay được. Thì ra viền ngoài cái bàn tròn không dính liền vào phần giữa.
Hương Hương công chúa xoay chừng một tấc thì không thấy nhúc nhích nữa. Trần Gia Lạc và Hoắc Thanh Đồng phải hợp sức mới từ từ xoay được cho hoa văn điêu khắc ở viền ngoài và trung tâm trùng khít vào nhau. Khi đầu và mình đám lạc đà vừa nhập lại thành một, bỗng nghe tiếng lách cách. Trên cái giường ngọc xuất hiện một lỗ lớn, bên dưới là những bậc đá dẫn xuống.
Ba người vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ, cùng lên tiếng hoan hô. Trần Gia Lạc cầm đuốc bước xuống, hai cô gái theo sau. Qua bốn năm khúc quanh, đi thêm mười mấy trượng nữa đột nhiên thấy trước mặt sáng bừng, tới một vùng đất bằng phẳng rộng lớn, chung quanh núi non vây bọc như một cái chảo. Chính giữa lòng chảo có một hồ nước êm ả, xanh như phỉ thúy. Cái hồ hình tròn này đã ngàn năm mà không khô cạn, có lẽ dưới đáy hồ phải có nguồn nước chảy vào.
Nhìn thấy cảnh tượng kì lạ đẹp đẽ này, ba người đều hoan hỉ. Hoắc Thanh Đồng mỉm cười nói: “Kha Tư Lệ! Di thư có nói, mĩ nhân mà tắm trong hồ này sẽ càng diễm lệ hơn. Muội muội xuống tắm một chút đi.”
Hương Hương công chúa đỏ mặt lên đáp: “Tỉ tỉ lớn tuổi hơn thì tắm trước đi.”
Hoắc Thanh Đồng cười: “Ái chà! Tỉ tỉ xấu xí thế này, tắm chỉ tổ xấu thêm.”
Hương Hương công chúa quay lại gọi Trần Gia Lạc: “Huynh mau mau xử lý công bằng! Tỉ tỉ nói là mình không đẹp, nhất định là có ý trêu ghẹo muội.”
Trần Gia Lạc mỉm cười không đáp. Hoắc Thanh Đồng nói: “Kha Tư Lệ! Rốt cuộc thì muội có tắm hay không?” Hương Hương công chúa lắc đầu.
Hoắc Thanh Đồng đi đến bên hồ, chưa chạm vào nước đã thấy mát tới tận xương. Nàng vốc một chút nước lên, thấy trong sạch vô cùng, không có chút rong rêu hay đất cát gì cả. Thì ra bốn phía bờ hồ đều là ngọc phỉ thúy, nên nước trong hồ ánh màu xanh biếc, uống vào một hớp là ngọt ngào mát lạnh từ miệng xuống tận tâm can.
Ba người uống đến no, rồi ngồi nhìn ngọc phong trắng muốt ánh xuống nước hồ xanh bích. Trong trắng có xanh, trong xanh hiện trắng, màu sắc thanh nhã phi thường. Hương Hương công chúa cứ đưa tay nghịch nước, không muốn rời khỏi.
Hoắc Thanh Đồng lên tiếng: “Bây giờ phải nghĩ cách tránh xa bốn con quỷ kia.”
Trần Gia Lạc hỏi: “Trước tiên chúng ta hãy đem hài cốt của Mã Mễ Nhi an táng ở cạnh hồ này, có được không?”
Hương Hương công chúa vỗ tay khen hay, lại nói: “Tốt nhất là đem hài cốt của A Lý chôn cùng cô ấy.”
Trần Gia Lạc nói: “Được! Chắc chắn bộ hài cốt trong góc ngọc thất là của A Lý.”
Ba người trở về ngọc thất thu dọn hài cốt, bỗng thấy bên hài cốt A Lý có một bó thẻ tre. Trần Gia Lạc cầm lên xem thử. Sợi dây da để xâu bó thẻ tre này đã mục nát rồi, nên vừa xách lên là bó thẻ rơi xuống lả tả. Những cái thẻ này được sơn đen, vẫn còn nguyên vẹn, trên thẻ viết đầy những chữ Hán bằng son màu đỏ.
Trần Gia Lạc cả mừng, đọc thử một thẻ thì thấy: “Bắc minh hữu ngư kì danh vi côn”, lật tiếp mấy thẻ nữa cũng là văn chương trong Nam Hoa Kinh của Trang Tử. Ban đầu chàng tưởng đó là kì thư bảo điển gì, nên không khỏi thất vọng vì sách Trang Tử từ nhỏ đã thuộc lòng.
Hương Hương công chúa hỏi: “Đó là sách gì vậy?”
Trần Gia Lạc nói: “Đó là một quyển sách cổ của người Hán chúng ta. Mớ thẻ tre này tuy là cổ vật nhưng không có ích gì lắm, chỉ những người ham mê đồ cổ mới thích.”
Chàng thả bừa xuống đất, khi mớ thẻ tản ra bỗng thấy trong đó có những mảnh khác hẳn, có chú thích bằng chữ Hồi cổ. Trần Gia Lạc nhặt lên xem, thấy thẻ đó chép mấy câu trong đoạn Bao Đinh Giải Ngưu, thiên Dưỡng Sinh Chủ của sách Trang Tử. Chàng chỉ vào chỗ chữ Hồi, hỏi Hương Hương công chúa: “Những chữ này viết gì vậy?”
Hương Hương công chúa đọc lên: “Bí quyết phá địch đều ở chỗ này.”
Trần Gia Lạc ngạc nhiên hỏi: “Thế là thế nào?”
Hoắc Thanh Đồng nói: “Trong di thư của Mã Mễ Nhi có nói, A Lý được đọc một quyển sách của người Hán, từ đó mà nghĩ ra cách dùng tay không đối địch. Chẳng lẽ là bó thẻ tre này?”
Trần Gia Lạc nói: “Trang Tử dạy cho người ta sống lạc quan, thuận theo trời đất. Hoàn toàn không liên quan gì đến võ công.”
Chàng lại bỏ mớ thẻ tre xuống, thu nhặt hài cốt đi ra ngoài. Ba người đặt hai bộ hài cốt vào cùng một huyệt, chôn ở dưới núi bên hồ phỉ thúy, cùng nhau khấn vái và cầu nguyện.
Sau đó Trần Gia Lạc bảo: “Bây giờ chúng ta đi thôi. Không hiểu con ngựa trắng có thoát khỏi bầy sói đói hay không?”
Hương Hương công chúa nói: “Nhờ nó mà chúng ta còn mạng. Nó đã thông minh lại chạy rất nhanh…”
Trần Gia Lạc tưởng tượng ra cảnh bầy sói hung hãn xé xác con bạch mã, không khỏi nổi lòng trắc ẩn.
Hoắc Thanh Đồng bỗng hỏi: “Đoạn sách đó nói về cái gì vậy?”
Trần Gia Lạc đáp: “Nói về bản lãnh mổ bò tuyệt diệu của một người đồ tể. Ông ấy tay khẽ co duỗi, chân khẽ tiến lùi, xuống dao không cần dùng sức, động tác vô cùng xảo diệu, cử chỉ giống như nhảy múa.”
Hương Hương công chúa nói: “Uyển chuyển như vậy, nhảy múa nhất định rất là đẹp.”
Hoắc Thanh Đồng nói: “Nếu có thể uyển chuyển quật ngã đối phương thì càng tuyệt diệu hơn.”
Trần Gia Lạc nghe vậy, lập tức ngẩn ra. Bộ Trang Tử này chàng đã thuộc từ lâu, nhuần nhuyễn trong lòng, tưởng là không còn gì mới mẻ. Bây giờ nghe một người chưa đọc nhận xét một câu, bất giác chàng lại thấy một khía cạnh khác, bèn thầm nhắc lại từng chữ trong đoạn Bao Đinh Giải Ngưu:
“Sau ba năm, đồ tể Bao Đinh không thấy nguyên cả con bò nữa, chỉ thấy những khoảng trống rất nhỏ giữa những khớp xương và gân cốt, gọi là hữu gian. Con dao mổ bò không cần cắt qua gân cốt và cơ bắp, chỉ cần nhẹ nhàng lướt qua những chỗ hữu gian đó, thì cả con bò lớn không tốn khí lực mà đã phân ra thành từng mảnh một.”
Chàng lại nghĩ: “Trương Triệu Trọng dù giỏi đến đâu, trong võ công của hắn chắc chắn cũng phải có chỗ sơ xuất. Đó chính là hữu gian của hắn. Ta chỉ cần phát hiện, nhẹ nhàng di chuyển để chọn phương vị tiến vào hữu gian, là có thể giết được tên gian tặc đó ngay…”
Đột nhiên thấy chàng ngơ ngẩn xuất thần, chị em Hoắc Thanh Đồng liếc nhìn nhau, không hiểu chàng đang nghĩ gì.
Trần Gia Lạc bỗng lên tiếng: “Hai cô đợi ta một chút!” rồi lập tức phóng vào trong đại điện. Hai chị em chờ đợi hồi lâu không thấy chàng ra, không yên tâm cũng vào trong đó. Thì ra Trần Gia Lạc đang phấn khởi cười tươi rói, đứng múa tay múa chân bên một bộ hài cốt trong đại điện.
Hương Hương công chúa lo lắng, tưởng thần trí của chàng bị hồ đồ, vội cất tiếng gọi: “Huynh đang làm gì vậy?”
Trần Gia Lạc không biết có người gọi mình, cứ tiếp tục múa máy, rồi lát sau lại đứng ngẩn ra nhìn một bộ hài cốt khác. Hương Hương công chúa la lên: “Huynh đừng làm muội sợ, tới đây đi!”
Trần Gia Lạc bỗng cử động tay chân cho giống hệt tư thế của bộ xương, miệng hô lên: “Hữu gian!”, rồi theo chiều hướng xương cánh tay của bộ hài cốt đó mà chụp vào một kẻ địch tưởng tượng.
Hoắc Thanh Đồng thấy trong lúc chàng vung tay múa chân có tiếng kình phong rít lên, bỗng hiểu là chàng đang nghiên cứu võ công. Nàng bèn kéo tay muội muội mà nói: “Đừng sợ, chàng không sao đâu. Chúng ta ra ngoài đợi chàng đi.”
Hai người quay lại bờ hồ phỉ thúy. Hương Hương công chúa hỏi: “Tỉ tỉ! Chàng làm gì trong đó vậy?”
Hoắc Thanh Đồng nói: “Chắc là sau khi xem mấy cái thẻ tre, chàng ngộ được mấy chiêu võ công kì lạ, bây gìờ nghiên cứu theo tư thế những bộ hài cốt đó. Chúng ta đừng vào trong quấy nhiễu.”
Hương Hương công chúa gật đầu, lát sau lại hỏi: “Tỉ tỉ! Sao tỉ tỉ không vào đó mà luyện tập?”
Hoắc Thanh Đồng đáp: “Văn chương chữ Hán trên thẻ tre đó rất kì lạ, tỉ tỉ không hiểu nên không luyện theo được. Võ công huynh ấy cao thâm hơn tỉ tỉ nhiều.”
Hương Hương công chúa thở ra một hơi rồi nói: “Bây giờ muội hiểu rồi. Trên đại điện có nhiều hài cốt như vậy, thì ra lúc còn sống họ đã luyện được võ công. Binh khí của họ bị từ thạch hút đi hết, phải dùng tay không đánh nhau với võ sĩ của Sang La Ba.”
Hoắc Thanh Đồng gật đầu: “Đúng vậy! Nhưng võ công họ không cao lắm, dường như chỉ học được mấy chiêu sát thủ lợi hại nhất. Trong lúc khẩn cấp họ phải đánh vào chỗ yếu hại của địch thủ để đồng quy ư tận.”
Hương Hương công chúa nói: “Những người đó dũng cảm thật… Trời ơi! Vậy chàng học thứ đó để làm gì? Chẳng lẽ tính chuyện cùng chết với địch thủ hay sao?”
Hoắc Thanh Đồng đáp: “Không! Người có võ công tuyệt đỉnh không bao giờ đồng quy ư tận. Chàng chỉ nghiên cứu những chiêu số kì lạ đó mà thôi.”
Hương Hương công chúa mỉm cười rồi nói: “Thế thì muội yên tâm rồi.” Nàng nhìn vào mặt hồ xanh bích, đột nhiên nói: “Tỉ tỉ! Chúng ta cùng xuống đó tắm, có được không?”
Hoắc Thanh Đồng cười đáp: “Đừng nói bậy! Lỡ chàng đột ngột ra đây thì sao?”
Hương Hương công chúa nói: “Muội muốn xuống tắm quá.” Nàng nhìn mặt nước trong xanh mát rượi mà ngơ ngẩn, hồi lâu lại nói: “Nếu ba người chúng ta được vĩnh viễn sống ở chỗ này thì tốt biết dường nào.”
Trái tim của Hoắc Thanh Đồng đập rộn ràng, hai má đỏ bừng. Nàng vội quay đi, nhìn sang ngọn núi bạch ngọc.
Đợi rất lâu mà Trần Gia Lạc vẫn chưa ra. Hương Hương công chúa cởi giày, ngâm chân xuống nước, gối đầu lên đùi tỉ tỉ mà ngắm nhìn những cụm mây trắng bay tự do tự tại trên trời. Lát sau nàng ngủ thiếp đi.
* * *
Trong nguyên bản chữ Hán, Kim Dung phiên âm Muslim là Mộc Sĩ Lâm, Islam là Y Tư Lan, kinh Koran là Khả Lan Kinh. Nếu cao nhân độc giả nào dị ứng với chuyện thấy “chữ tây chữ Âu” xuất hiện giữa đao quang kiếm ảnh, xin cứ đọc theo phiên âm Hán-Việt (chú thích của ND).
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.