Công Viên Khủng Long Kỷ Jura
5. ĐIỀU KHIỂN
– Hãy xem lại các khớp ly hợp của các chiếc BB4 và BB5 khi chúng trở về.
– Vâng, thưa ông Arnold. – Một giọng trả lời ở intercom.
Hammond đang đi quanh phòng. Lão nói:
– Một tiểu tiết.
Nhìn ra, lão có thể thấy hai chiếc Land Cruiser chạy xuyên qua công viên. Muldoon đứng trong một góc, yên lặng quan sát. Aronold từ bảng điều khiên của mình đẩy ghế lui:
– Thưa ông Hammond chẳng có vấn đề nào là tiểu tiết cả.
Ông ta đốt một điếu thuốc khác. Luôn căng thẳng. Đặc biệt bây giờ Arnold đang cáu kỉnh. Chả là ông quá biết rằng đây là lần đầu tiên khách thật sự đi tham quan công viên. Thật ra, đội kỹ thuật của Arnold không thường xuyên ra công viên. Harding, bác sĩ thú y thỉnh thoảng mới đi. Các nhân viên chăm sóc thú chỉ đi vào những ngôi nhà cho ăn riêng. Còn thì họ chỉ canh chừng công viên từ phòng điều khiển. Và bây giờ với những người khách ngoài kia, ông ta lo lắng đến cả trăm chuyện linh tinh.
John Arnold là một kỹ sư đã từng làm việc trên tàu ngầm Polaris có hệ thống phóng hỏa tiễn tử dưới nước vào cuối thập niên 60 cho đến khi ông có đứa con đầu lòng và cái viễn cảnh chế tạo vũ khí chẳng còn mùi mẽ gì nữa. Trong lúc đó, Walt Disney đã bắt đầu sáng tạo những hệ thống chuyển du khách đi quanh công viên giải trí với những kỹ thuật tinh vi hiện đại, họ đã thuê nhiều người trong lãnh vực hàng không làm việc. Arnold đã giúp xây nên Disney World ở Orlando, và rồi tiếp tục xây dựng các công viên lớn ở Magic Mountain bang California, Old Coconty ở bang Virgina và Aotroworld bang Houston.
Trong hai năm qua, công việc của Arnold là chuẩn bị cho công viên đi vào sử dụng. Với tư cách là một kỹ sư, ông đã quen với các thời gian biểu dài ngày. Ông thường nhắc đến “ngày khai trương vào tháng chín” Trong đó ông có ý nói tháng chín năm tới – và khi ngày khai trương tháng chín gần kề, ông không thấy vui vẻ với những gì đã thực hiện được. Theo kinh nghiệm ông biết rằng đôi khi phải mất hàng năm để tìm ra những lỗi kỹ thuật của một chuyến di chuyển quanh công viên.
Hammond nói với Arnold:
– Anh chỉ là một kẻ hay lo.
– Tôi không nghĩ thế. Ông phải nhận rằng, theo quan điểm kỹ thuật, công viên kỷ Jura đã vượt quá xa tham vọng về một công viên. Khách viếng không bao giờ nghĩ đến điều đó, nhưng chúng tôi nghĩ đến.
Arnold đưa từng ngón tay lên.
– Thứ nhất, công viên có tất cả các vấn đề của một công viên giải trí – duy trì bảo quản những phương tiện chuyên chở, điều khiển việc bốc xếp hàng, vận chuyển thức ăn, tiện nghi lưu trú, thanh lý rác rưởi, an toàn cho du khách. Thứ hai, chúng ta có tất cả các vấn đề của một sở thú lớn – chăm sóc, sức khỏe và phúc lợi; nuôi thú ăn và giữ sạch sẽ chuồng trại; bảo vệ thú tránh côn trùng cùng các thú vật có hại khác, dịch bệnh, dị ứng, bảo quản rào chắn và mọi thứ. Cuối cùng, chúng ta có những vấn đề chưa từng gặp trước đây là chăm sóc cho một mật độ thú dày đặc mà chưa một ai từng thử làm.
Hammond:
– Ồ, nhưng chúng ta chẳng gặp gì tệ hại với tất cả những thứ đó.
– Có đấy chứ. Chỉ vì ông không có mặt ở đây để thấy. Mấy con tyrannosaurus uống nước trong hồ và đôi khi đau ốm, chúng tôi không biết tại sao. Những con triceraptor giết lẫn nhau trong các trận đấu giành quyền đầu đàn và phải chia thành từng đàn không quá sáu con. Chúng tôi không biết tại sao. Những con stegosaur thường xuyên có những vết rộp ở lưỡi và đi tiêu chảy, vì những lý do gì chưa ai biết, dù chúng tôi đã mất hai con. Các con hypsilophodont thì thường nổi mẩn ở da, con velociraptor thì…
– Thôi, chúng ta hãy ngưng nói đến những con velociraptor đã. Tôi đã phát ốm lên vì nghe mãi về những con này. Chúng thật là những con thú vô lại chưa từng thấy.
Muldoon nói, bằng giọng nhỏ:
– Đúng vậy. Nên đem hủy diệt hết những con này.
Hammond:
– Anh muốn gắn cho chúng những vòng cổ phát sóng. Và tôi đã đồng ý.
Arnold:
– Vâng. Và chúng lập tức cắn đứt. Nhưng cho dù mấy con raptor này không bao giờ có thể thoát ra khỏi chuồng được, tôi nghĩ chúng ta phải thừa nhận rằng công viên vẫn dễ gặp điều bất trắc. Hammond:
– Ồ, chỉ là chuyện nhảm nhí. Anh đang đứng về phía nào đấy?
– Hiện giờ chúng ta đang có mười lăm loại thú tuyệt chủng, và phần lớn đều rất nguy hiểm. Chúng ta bắt buộc phải hoãn các chuyến chuyên chở trên sông vì những con dilophosaur, và khu tham quan Pteratop trong khu trại lồng vì lũ ptenodactyl tính khí bất thường. Đấy không phải là những trì hoãn kỹ thuật, thưa ông Hammond.
– Anh đã có khối chuyện phải trì hoãn vì kỹ thuật. Đừng đổ lỗi cho lũ thú.
– Vâng, đúng vậy. Thật sự, chúng tôi đã làm mọi thứ để có được sự hấp dẫn du khách, xe điện xuyên công viên, hoạt động rất chính xác, trong mỗi xe đều có CD – ROM điều khiển bằng các bộ cảm ứng chuyển động. Đã phải mất bao nhiêu tuần lễ để làm chúng vận hành chính xác. Và bây giờ hệ thống trục răng của điện trên mấy chiếc xe đang có vấn đề? Mấy chiếc trục răng cưa chết tiệt!
– Hãy giải quyết công việc đó sau. Anh đã có được sự chính xác về kỹ thuật và lũ thú sẽ ở đúng các vị trí qui định. Rốt cuộc, chúng vẫn có thể huấn luyện được.
Từ lúc bắt đầu, đây là một trong những điều tin tưởng cốt lõi của các nhà lập kế hoạch. Lũ thú, cho dù khó tính, sẽ có những tập tính như các con thú ở bất cứ sở thú nào. Chúng sẽ học được những thói quen về sự chăm sóc của họ.
– Còn về computer thì sao? – Hammond hỏi và nhìn Dennis Nedry, đang làm việc ở góc cuối phòng – Thứ computer quỷ tha ma bắt này luôn là chuyện nhức đầu.
Nedry vẫn làm việc:
– Chúng tôi đang hoàn thiện hệ thống.
– Nếu anh làm đúng ngay từ đầu… – Hammond bắt đầu rền rĩ, nhưng Arnold đã đặt một tay lên vai lão để làm dịu cơn tức. Ông biết không nên gây căng thẳng với Nedry trong lúc anh ta làm việc.
Đấy là cả một hệ thống lớn. Nhất định phải có những sai sót.
Thật vậy, danh mục chi tiết kỹ thuật sai sót lên đến 130 mục, gồm nhiều thứ kỳ cục. Ví dụ, chương trình cho súc vật ăn tự thiết lập lại sau mười hai tiếng chứ không phải hai mươi bốn tiếng, và không cho ăn vào các chủ nhật. Vì lý do đó, các nhân viên không sao tính toán chính xác số lượng thực phẩm lũ thú dùng.
Hệ thống an toàn, vốn điều khiển tất cả các cánh cửa mở bằng thẻ an toàn, bị mất tác dụng khi nguồn điện chính bị cắt là đương nhiên, nhưng lại không hoạt động trở lại khi được cung cấp điện bằng nguồn phụ. Chương trình an toàn chỉ vận hành với nguồn năng lượng chính.
Chương trình duy trì ánh sáng, theo thiết kế chỉ bật đèn mờ sau mười giờ đêm, nay lại chỉ hoạt động vào một số ngày trong tuần.
Chương trình phân hủy phân tự động được lập để kiểm tra các ký sinh trùng trong phân thú đã luôn luôn ghi nhận là mọi thứ phân của các chủng loại thú đều có các ký sinh phagostomum venulosum, mặc dầu không có thứ phân nào có ký sinh đó cả, do đó nó tự động phân phát thuốc cho vào thức ăn của thú. Nếu một nhân viên chăm sóc gạt bỏ thuốc ra khỏi phễu để khỏi bị cho vào thức ăn thì hệ thống báo động kêu vang lên mà không thể nào ngắt được.
Và cứ thế, các lỗi lầm cứ được ghi vào trang này đến trang khác.
Khi mới đến, Dennis Nedry có cảm tưởng rằng anh ta sẽ sửa chữa tất cả những lỗi máy trong một tuần lễ. Nhưng anh ta xám mặt khi thấy bảng danh sách. Bây giờ, anh đang gọi cơ sở của mình ở Cambridge, bảo các nhà lập chương trình là họ sắp phải hoãn lại các dự định nghỉ cuối tuần để làm việc suốt đến thứ hai. Và anh ta cũng đã cho Arnold hay là cần đến tất cả các điện thoại liên lạc giữa Isla Nublar và đất liền để chuyển các số liệu chương trình đi và đến cho những người lập chương trình của mình.
Trong khi Nedry làm việc, Arnold mở hé một cửa sổ tại phòng điều khiển từ xa của mình. Việc này cho phép Arnold thấy những gì Nedry đang làm tại góc phòng trước bảng điều khiển. Không phải ông không tin tưởng Nedry. Nhưng Arnold chỉ thích biết những gì đang diễn biến ở đấy.
Ông nhìn vào biểu đồ trên màn điều khiển bên phải, đang chỉ đường đi của mấy chiếc Land Cruiser. Hai xe đang chạy dọc theo con sông, về phía bắc của khu lồng nuôi thú bay.
Giọng nói tiếp tục hướng dẫn:
– Nếu quý vị nhìn qua phía trái thì sẽ thấy mái vòm của khu chuồng nuôi khủng long bay, chưa hoàn thành để đón du khách – Tim thấy ánh mặt trời chiếu hắt ra từ những vòng tròn bằng nhôm trắng ở xa xa – Và ngay phía dưới chuồng lồng là con sông thuộc kỷ Mesogoic, nơi mà nếu may mắn quý vị có thể thoáng thấy một con thú săn thịt hiếm có. Xin hãy nhìn kỹ, tất cả các quý vị.
Bên trong chiếc Land Cruiser, màn hình cho thấy một cái đầu như đầu chim, trên đỉnh đầu có một cái mào đỏ chói. Nhưng mấy người trong xe Tim đang nhìn ra cửa sổ. Chiếc xe chạy men theo rìa núi cao nhìn xuống một con sông chảy xiết phía dưới. Con sông hầu như bị che kín hai bên bởi những tàn lá rậm rạp. Giọng nói:
– Đấy chúng đang ở đấy. Các con thú quý vị đang nhìn gọi là con dilophosaur.
Tim chỉ thấy một con. Con dilophosaur ngồi xổm trên hai chân sau bên dòng suối, đang uống nước. Con vật có hình dáng của một loài chim ăn thịt, đuôi to, chân sau mạnh, và chiếc cổ dài. Thân hình cao ba mét có từng khoanh tròn vàng và đen như một con báo.
Nhưng chính cái đầu con vật khiến Tim chú ý. Hai chiếc mồng cong chạy suốt đỉnh đầu, từ hai mắt xuống sống mũi, gặp nhau ở chính giữa làm thành một chữ V. Hai chiếc mồng có vằn đỏ đen, trông phảng phất hình ảnh của một con két hay con tu-căng. Con thú đang kêu lên những tiếng như cú rúc.
Lex nhận xét:
– Con thú dễ thương ghê.
Giọng ghi âm:
– Dilophosaurus là một trong những loài khủng long săn mồi thịt xuất hiện sớm nhất trên quả đất. Các nhà khoa học đã từng cho rằng bắp thịt hàm của chúng quá yếu không giết con mồi được và nghĩ rằng chúng là những con thú ăn xác súc vật chết. Nhưng bây giờ chúng tôi biết chúng là những con thú có chất độc làm chết con mối.
Những tiếng kêu như cú rúc của con dilophosaurus lại văng vẳng trong bầu không khí buổi chiều đưa đến tai họ. Lex nhỏm lên trên ghế của mình giọng bất an:
– Chúng có độc thật sự không, chú Regis?
– Đừng có bận tâm chuyện ấy.
– Nhưng chúng có độc không?
– Ờ có đấy, Lex.
Giọng nói:
– Cùng với những loại bò sát hiện nay như rắn đầu quỷ Gila, rắn roi, con dilophosaurus chứa độc hematotoxin trong những tuyến ở miệng. Cú cắn của nó gây hôn mê bất tỉnh trong vòng vài phút. Rồi thì con khủng long cứ từ từ đánh chén con mồi của mình. Con dilophosaurus là một con thú đẹp nhưng nguy hiểm chết người trong số thú quý vị đang thấy trong công viên.
Chiếc Land Cruiser quẹo ở một góc, để lại con sông đằng sau. Tim nhìn lui, hy vọng một lần nữa thấy con dilophosaurus. Thật đáng ngạc nhiên! Khủng long độc? Cậu ước chi có thể dừng xe lại, nhưng mọi thứ đều tự động. Và cậu biết chắc tiến sĩ Grant cũng muốn dừng xe.
– Nếu quý vị nhìn lên dốc đứng phía phải, quý vị sẽ thấy Les Gigantes, công trường xây phòng ăn ba sao siêu việt của chúng tôi. Đầu bếp trưởng Alain Richard của nhà hàng Le Baumiere ở Pháp nổi tiếng khắp thế giới được mời đến đây. Quý vị có thể gọi đặt buổi ăn bằng cách quay số bốn tại phòng khách sạn quý vị.
Tim nhìn lên dốc, nhưng không thấy gì cả.
Ed Regis giải thích:
– Nói thế nhưng lúc này chưa có. Nhà hàng này thậm chí còn chưa được xây dựng cho đến sau tháng mười một.
– Tiếp tục đi thăm, kế đây chúng ta sẽ xem loài ăn cỏ thuộc nhóm ornithiechian. Nếu nhìn qua bên phải, có thể quý vị sẽ thấy chúng vào lúc này.
Tim thấy hai con thú đứng bất động trong bóng râm của một cây lớn: hai con triceraptor. Chúng màu xám và to cỡ bằng con voi với dáng đứng hùng hổ của một con tê ngu. Phía trên mỗi mắt có một chiếc sừng dài một mét rưỡi, cong cong, trông giống như ngà voi. Và chúng đều có mõm dài, nhọn của một con tê ngu. Giọng nói:
– Không giống như các khủng long khác, con triceraptor serratus không nhìn thấy rõ. Chúng cận thị, như các tê ngu ngày nay, và chúng có khuynh hướng ngạc nhiên với các vật di động. Chúng có thể tấn công xe chúng ta nếu chúng ở gần đủ để thấy xe. Nhưng xin quý vị cứ yên tâm, ở đây, chúng ta có đủ khoảng cách an toàn.
– Các con triceraptor có mồng hình quạt phía sau đầu. Mồng được cấu tạo bằng xương cứng và rất mạnh. Mỗi con thú này cân nặng bảy tấn. Bất chấp vẻ bên ngoài, thật ra chúng rất dễ bảo. Chúng quen với các người chăm sóc, và chúng chịu để cho vuốt ve. Đặc biệt, chúng rất thích được gãi ở vùng hông.
Lex nói:
– Tại sao chúng không cử động? – cô bé quay cửa xuống – Ê, mấy con khủng long ngu ngốc? Nhúc nhích đi chứ!
Ed Regis bảo Lex:
– Ấy cháu đúng chọc mấy chú ấy.
– Sao vậy? Chúng ngốc nghếch như thế. Chúng ngồi đấy như ảnh trong sách.
Giọng ghi âm vẫn đang thuyết minh:
– … Những con quái vật dễ tính từ một thế giới đã trôi qua sắp xuất hiện trước mắt quý vị. Loài thú ăn thịt nổi danh nhất trong lịch sử trái đất: con khủng long bạo chúa dũng mãnh, có tên là tyrannosaurus rex.
Tim nói như reo lên:
– Hay quá. Con tyrannosaurus rex.
Lex quay mình khỏi mấy con triceraptor:
– Em hy vọng con này thú vị hơn mấy con thú khở kia.
Chiếc Land Cruiser tiếp tục chạy tới ro ro.
Hai chiếc Land Cruiser đã dừng lại trên một đỉnh đồi. Họ nhìn bao quát một vùng rộng phủ rừng chạy thoai thoải xuống một hồ vịnh. Mặt trời đang lặn dần xuống phía tây, chân trời mù sương. Toàn bộ quang cảnh của công viên đẫm trong một ánh sáng nhạt, với những bóng cây đổ dài. Mặt vịnh chín màu hồng thắm. Xa hơn về phía nam, họ thấy những chiếc cổ mềm mại của những con camarasuar đứng ở rìa nước, thân hình in bóng xuống mặt hồ vịnh gợn sóng lăn tăn. Trời đất yên lặng, trừ âm thanh o o của những con ve sầu. Khi nhìn chăm chú vào cảnh vật trước mặt, thật không thể nào tin rằng họ đang thật sự đi ngược lại quá khứ hằng bao nhiêu triệu năm đến một thế giới đã biến mất. Tiếng Regis trong intercom:
– Cảnh sắc trông được đấy chứ, thưa quý vị? Thỉnh thoảng tôi cũng hay đến đây, vào buổi chiều. Và chỉ ngồi ngắm.
Grant không bị cảnh vật gây ấn tượng. Ông hỏi:
– Mấy con tyrannosaurus rex đâu?
– Câu hỏi đúng lúc đấy? Có một con nhỏ vẫn thường thấy ở hồ. Hồ có rào chắn ở dưới nước, chúng tôi nuôi cá trong ấy. Nó học biết được cách bắt cá. Xem nó bắt cá thật thú vị. Nó không dùng hai chi trước, mà vục đầu xuống nước. Như một con chim.
– Một con nhỏ?
– Con T-rex nhỏ. Nó ở độ tuổi vị thành niên, hai năm tuổi. Đứng cao hai mét rưỡi, nặng một tấn rưỡi. Còn một con nữa là con tyrannosaur đã trưởng thành, lớn đủ mức. Nhưng vào lúc này, chúng ta không thấy nó.
Grant:
– Có lẽ nó đang săn bắt mấy con camarasaur.
Regis cười, tiếng nghe nho nhỏ qua vô tuyến.
– Nó sẽ săn mồi ngay nếu nó có thể đi săn được, hãy tin vậy. Đôi lúc nó đứng cạnh hồ và nhìn chằm chằm vào mấy con thú ấy, rồi ve vẩy hai chi trước trong nỗi thất vọng. Lãnh địa của con T-rex hoàn toàn bị cô lập với rào chắn và hào sâu. Nó đứng đâu đó ta không thấy được, nhưng nó không thể đi đâu được.
– Vậy nó đâu?
– Nó giấu mình. Nó hơi e thẹn.
Malcolm ngạc nhiên:
– E thẹn? Khủng long bạo chúa mà e thẹn?
– Vâng thường nó luôn luôn ẩn mình. Quý vị không bao giờ thấy nó ngoài trời, đặc biệt là dưới ánh nắng.
– Tại sao vậy?
– Chúng tôi cho rằng da chúng mẫn cảm và dễ bị rám nắng.
Malcolm bắt đầu cười ra tiếng. Grant thở dài:
– Anh đang phá hoại nhiều ảo ảnh.
Regis:
– Nhưng tôi nghĩ là quý vị sẽ không thất vọng. Cứ chờ xem.
Họ nghe tiếng kêu be be nho nhỏ. Ở chính giữa cánh đồng, một chiếc lồng sắt được nâng bằng thủy lực từ dưới hầm lên mặt đất. Các thanh lồng bằng sắt trượt xuống và con dê vẫn bị buộc ở giữa đồng, kêu be be não nùng. Tiếng Regis nhắc lại:
– Xin chú ý, sự việc xẩy ra bất cứ phút nào.
Họ nhìn chăm chú qua cửa sổ.
– Hãy nhìn họ xem. Chồm hết ra ngoài cửa xe, có vẻ háo hức. Họ không thể chờ để xem con vật. Họ đang đến gần sự nguy hiểm.
Muldoon:
– Đấy là điều tôi đang lo sợ. – Ông ta xoay xoay mấy chiếc chìa khóa quanh ngón tay, nhìn mấy chiếc Land Cruiser căng thẳng. Đây là lần đầu tiên có khách tham quan công viên, và Muldoon cùng chia sẻ nỗi lo ngại với Arnold.
Robert Muldoon là một người to con, năm mươi tuổi, râu mép rậm màu xám chì, mắt xanh sâu. Lớn lên ở Kenya, ông đã dùng phần lớn cuộc đời mình làm người hướng dẫn cho các tay đi săn lớn ở châu Phi, như cha ông ta đã làm trước đó. Nhưng từ năm 1980, ông làm việc chủ yếu cho những nhóm bảo tồn thiên nhiên và những nhà thiết kế sở thú với tư cách là người tư vấn về thú hoang. Ông nổi tiếng, và tờ Time ra ngày chủ nhật ở London đã viết: “Những gì ông Robert Jones làm là cho các sân chơi golf còn của Robert Muldoon là cho sở thú: một nhà thiết kế với kỹ năng và kiến thức không ai qua mặt được”.
Năm 1986, ông làm việc cho một công ty ở San Francisco, tức công ty đang xây cất một công viên tư nuôi thú hoang trên một đảo ở Bắc Mỹ. Muldoon đã thiết kế những khu ở cho các loại thú khác nhau, xác định những yêu cầu về khoảng không gian và nơi sinh cho sư tử, voi, ngựa vằn và hà mã. Ông phân loại các thú nào có thể nuôi chung được với nhau, con nào cần phải nuôi riêng.
Trước đó, công việc này vẫn theo một lề thói cũ. Và rồi ông thấy rất thích thú với một công viên ở Ấn Độ gọi là Tiger World ở miền nam Kashmir.
Rồi cách đây một năm, ông được đề nghị làm người tổ chức các trò thăm thú giải trí ở công viên kỷ Jura. Việc này trùng hợp với ý muốn rời châu Phi của ông; lương tháng thì quá tuyệt diệu. Muldoon đã theo công việc này trong một năm. Ông ngạc nhiên phát hiện ra công viên này thật sự là một nơi tập trung những thú tiền sử có được do kỹ thuật di truyền.
Đấy dĩ nhiên là một công việc thú vị, nhưng suốt những năm ở châu Phi, Muldoon đã phát triển một quan điểm bất di bất dịch về loài thú – quan điểm phi lãng mạn – gây cho ông sự cãi cọ thường xuyên với ban quản đốc công viên kỷ Jura ở California. Theo ý kiến Muldoon, tái tạo được khủng long trong phòng thí nghiệm là một việc, duy trì chúng sống được trong hoang dã là một việc khác.
Chính là do quan điểm của Muldoon cho rằng một số loài khủng long quá nguy hiểm để nuôi nhốt trong công viên. Họ vẫn còn biết quá ít về số loài khủng long này. Ví dụ không ai cho rằng các con dilophosaur có mang chất độc cho đến khi quan sát được chúng lúc săn mồi: chúng cắn những con chuột trên đảo rồi bước lui, chờ chuột chết. Và thậm chí chẳng ai ngờ rằng các con dilophosaur có thể thè lưỡi phóng độc cho đến khi một người chăm sóc gần như mù mắt vì chất độc chúng phóng ra.
Sau đó, Hammond bằng lòng cho nghiên cứu chất độc của con dilophosaur và tìm thấy có chứa bảy độc tố khác nhau. Và họ cũng phát hiện ra là con dilophosaur có thể phóng độc tới con mồi khoảng cách mười lăm mét! Vì điều này cho thấy khả năng du khách có thể bị phóng độc làm mù mắt, ban quản đốc quyết định mổ lấy đi túi chứa nọc độc. Các bác sĩ thú ấy đã cố thử hai lần, với hai con khác nhau, những chẳng lần nào thành công. Không một ai biết được chất độc nằm ở chỗ bí mật nào, và sẽ không một ai biết được cho đến khi có dịp khám nghiệm và mổ xác một con chết – nhưng dĩ nhiên ban quản lý chưa cho phép một con nào bị giết chết.
Muldoon thậm chí còn lo ngại hơn về mấy con velociraptor. Lũ thú này săn mồi theo bản năng, và không bao giờ bỏ qua con mồi. Chúng giết mồi ngay cả khi chúng không đói. Chúng giết vì niềm vui của việc giết mồi. Chúng là những con vật chạy rất nhanh, và nhảy cao đáng ngạc nhiên. Bốn chân chúng có nhiều móng vuốt chết người, một cú chụp của chi trước có thể xẻ dọc một người, banh cả ruột gan ra ngoài. Và chúng có đôi hàm mạnh mẽ có thể xé thịt thay vi cắn. Chúng thông minh hơn các con khủng long khác rất nhiều và chúng hình như là các con thú chuyên phá chuồng do bản tính tự nhiên.
Các chuyên gia sở thú biết rằng một số thú nhất định nào đó đặc biệt ưa trốn thoát khỏi chuồng. Khỉ và voi, có thể mở cửa chuồng. Một số khác, như lợn rừng, thông minh một cách bất thường, có thể nâng then gài cửa chuồng bằng mõm. Nhưng có ai ngờ rằng một con cừu khổng lồ là một con vật chuyên phá chuồng? Hay con nai Bắc Mỹ. Loài nai này hầu như rất thiện nghệ trong việc dùng mõm như voi dùng ngà vòi. Chúng luôn thoát được chuồng, rất tài trong việc này.
Và mấy con velociraptor cũng thế!
Raptor ít ra cũng khôn như loài hắc tinh tinh. Và như con hắc tinh tinh, lũ raptor có đôi tay khéo léo cho phép chúng mở được cửa và sử dụng các đồ dùng bằng tay. Chúng có thể thoát chết dễ dàng. Và, như Muldoon đã từng lo so, khi cuối cùng một con trốn thoát, giết chết hai công nhân công trường và làm bị thương nặng một người khác trước khi bị bắt lại. Sau tai biến đó, khu dành cho khách viếng được xây dựng lại với các hàng rào chấn song to, chắc và cao. Các cửa sổ được thay bằng loại kính không bể, khu nhốt raptor được xây lại với nhiều bộ cảm ứng để báo động khi có raptor sắp trốn thoát. Muldoon muốn trang bị súng nữa. Ông muốn có những khẩu súng phóng hỏa tiễn TOW bắn bằng cách vác trên vai. Các tay đi săn đều biết là rất khó khăn mới hạ được một con voi châu Phi bốn tấn, thế mà một vài con khủng long ở đây nặng gấp mười lần hơn.
Ban quản đốc sợ, nhất quyết không cho có súng ở trên đảo. Khi Muldoon dọa sẽ thôi việc, và đem chuyện này phanh phui cho báo chí, họ mới có được một thỏa thuận. Cuối cùng, hai súng phóng hỏa tiễn điều khiển bằng tia laser được chế tạo riêng cho đảo được cất giữ trong một phòng khóa kỹ ở tầng hầm. Chỉ Muldoon có chìa khóa mở phòng. Mấy chiếc chìa khóa mà lúc này Muldoon đang quay quanh ngón tay. Ông nói:
– Tôi xuống hầm đây.
Arnold đang nhìn màn hình điều khiển, gật đầu. Hai chiếc Land Cruiser đỗ tại đỉnh rồi, chờ con T-rex xuất hiện.
Nedry từ bảng điều khiển ở góc phòng, gọi với lại:
– Ê, khi nào lên, nhớ mang cho tôi một chai coca, nhé?
– Việc gì sẽ xẩy ra cho con dê? Con T-rex có ăn thịt nó không?
Một giọng trả lời cô bé:
– Chắc là vậy.
Và Ellie vặn nhỏ vô tuyến lại. Rồi họ ngửi thấy mùi hôi thối của thức ăn thối rữa bốc lên. Grant thì thào:
– Nó kia rồi.
Con dê bị buộc giữa cánh đồng cách đấy gần nhất cũng phải ba mươi mét, con khủng long hẳn ở đâu đó giữa đám cây, nhưng vào lúc này, Grant không thấy gì cả. Rồi ông nhận ra rằng ông đang nhìn quá thấp: đầu con vật đứng cao cách mặt đất sáu mét, nửa ẩn nửa hiện sau những tán lá của đám cọ dừa.
– Ôi, Chúa ơi, con vật to bằng cả tòa nhà.
Grant nhìn chăm chăm vào chiếc đầu vuông khổng lồ dài một mét rưỡi, lốm đốm vằn nâu đỏ, với đôi hàm bự và răng nanh. Đôi hàm của con khủng long cử động, mỏ ra rồi ngậm lại. Nhưng con vật khổng lồ không ra khỏi chỗ núp:
– Nó sẽ chờ trong bao lâu?
– Có lẽ ba hay bốn phút. Có lẽ…
Con khủng long bạo chúa yên lặng nhảy vọt tới bày ra toàn thể thân hình khổng lồ của nó. Với bốn cú nhảy nó đã vượt hết khoảng cách tới con dê, cúi xuống, và cắn vào cổ con mồi. Tiếng be be tắt ngấm. Yên lặng.
Với tư thế đàng hoàng khi giết con mồi, con khủng long bỗng nhiên tỏ vẻ ngần ngại. Chiếc đầu hình khối vĩ đại quay trên chiếc cổ đầy bắp thịt, nhìn khắp mọi phía. Nó nhìn chòng chọc vào mấy chiếc Land Cruiser, đang đỗ trên đồi cao. Malcolm thì thào.
– Nó có thấy chúng ta không?
Giọng Regris qua intercom:
– Ồ, thấy chứ. Hãy xem xem nó ăn ngay ở đấy trước mặt chúng ta, hay nó sẽ kéo con mồi đi.
Con tyrannosaurus cúi xuống, khịt mũi ngửi xác con dê. Một tiếng chim kêu chíp chíp: nó ngẩng đầu lên cảnh giác, trông chừng. Nó nhìn tới nhìn lui, đầu giật giật. Ellie nhận xét:
– Trông như con chim.
Con khủng long vẫn do dự. Malcolm thì thầm:
– Nó sợ gì?
Grant đáp nhỏ:
– Có lẽ nó sợ một con khác.
Những con thú to lớn ăn thịt sống như sư tử và cọp thường rất cẩn thận sau khi giết con mồi, hành động như là có thể bất ngờ bị phát hiện. Các nhà nuôi thú thế kỷ 19 nghĩ rằng chúng cảm thấy có tội vì những gì chúng vừa làm. Nhưng các nhà khoa học hiện đại cho rằng đấy là chúng cảnh giác sau cố gắng giết mồi – sau những giờ kiên nhẫn bám theo trước khi tung cú chụp cuối cùng. Ý tưởng cho rằng “vuốt đã đỏ thì răng cũng đỏ” là sai; phần lớn các con mồi thường bị chiếm mất. Khi một con thú hạ được con mồi nó rất cảnh giác vì sợ bị tấn công và cuỗm mất phần. Con khủng long này cũng đang sợ.
Sinh vật khổng lồ cúi xuống con dê lần nữa. Một chân sau to lớn đè lên xác con vật khi đôi hàm bắt đầu xé thịt. Regis thì thầm:
– Nó sẽ ăn tại chỗ. Thật tuyệt.
Con khủng long lại ngẩng đầu lên, các miếng thịt tươi đầy máu dính ở hàm. Nó nhìn mấy chiếc Land Cruiser. Nó bắt đầu nhai. Họ nghe tiếng xương kêu rào rạo sởn cả gai ốc.
Và rồi, dường như sự cẩn thận cuối cùng làm nó cảm thấy yên tâm hơn, con tyrannosaur nhấc phần còn lại của con dê bằng hàm rồi lặng lẽ lui vào giữa đám cây.
Giọng thu thanh:
– Thưa quý ông quý bà. Đấy là con tyrannosaurus- rex.
Hai chiếc Land Cruiser lại khởi động, yên lặng rời chỗ, xuyên qua đám tán lá. Malcolm dựa vào ghế:
– Thật kỳ quái.
Gennaro chùi mồ hôi trán. Mặt ông ta xám ngắt.
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.