Công Viên Khủng Long Kỷ Jura

5. CON ĐƯỜNG



 

uldoon quẹo chỗ cong thật nhanh, chiếc Jeep trượt trên bùn. Gennaro nắm chặt tay lại. Họ đang chạy như đua theo con đường men vách núi đá, nằm cao trên con sông, lúc này là một giải đen nằm trong bóng đêm phía dưới. Muldoon nhấn ga, mặt căng thẳng. Gennaro hỏi:

 

– Còn bao xa?

 

– Hai, hoặc ba dặm.

 

Ellie và Harding ở lại khu nhà khách. Gennaro đề nghị đi theo Muldoon.

 

– Phải cả tiếng rồi. Một tiếng đồng hồ, không có tin tức gì về mấy chiếc xe kia. – Muldoon nói.

 

– Nhưng họ có vô tuyến.

 

– Chúng tôi không gọi được họ.

 

Gennaro cau mày:

 

– Nếu tôi phải ngồi cả tiếng trong xe, chắc là tôi phải dùng radio để gọi ai đó.

 

– Tôi cũng thế.

 

– Ông nghĩ có thể có điều gì xảy đến cho họ không?

 

– Tôi cho là hoàn toàn yên ổn. Nhưng tôi sẽ vui hơn nếu cuối cùng gặp được họ. Chỉ vài phút nữa thôi.

 

Con đường uốn cong và chạy lên một ngộn đồi. Tại chân đồi Gennaro thấy vật gì trăng trắng nằm giữa đám cây dương xỉ bên cạnh đường. Gennaro la lên “Dừng lại” và Harding đạp thắng. Gennaro nhảy ra khỏi xe chạy tới trong ánh đèn xe để xem vật ấy là cái gì. Trông như một mảnh vải.

 

Gennaro dừng lại. Dù còn cách xa hơn hai mét, Gennaro vẫn có thể thấy rõ đấy là vật gì. Ông ta bước tới chầm chậm. Muldoon nhoài người ra khỏi xe:

 

– Cái gì vậy?

 

– Một cái chân.

 

Thịt của chiếc cẳng chân xanh xám, toe ra dính đầy máu ở chỗ đầu gối đứt lìa. Dưới ống chân, ông thấy một chiếc tất trắng và một chiếc giày da nâu. Đấy là loại giầy Ed Regis vẫn thường mang.

 

Lúc này Muldoon đã ra khỏi xe, chạy đến bên chiếc cẳng, cúi xuống xem. Ôi Chúa, – ông nhấc chiếc cẳng ra khỏi đám lá, đưa lên trước ánh đèn xe, và máu ở chỗ đứt tràn ra tay ông. Gennaro vẫn đứng cách một mét. Ông cúi nhanh người xuống, đặt hai tay lên đầu gối, nhắm nghiền mắt, thở mạnh, cố không để buồn nôn.

 

– Gennaro. – Muldoon gọi.

 

– Sao?

 

– Tránh đi. Ông đang che ánh đèn.

 

Gennaro thở một hơi và tránh đi. Khi ông mở mắt, ông thấy Muldoon đang ngắm nghía mẩu chân cụt.

 

– Bị mất đứt ở khớp. – Muldoon nhận xét – Không phải cắn đứt. Day và giật đứt lìa. – Muldoon đứng dậy, dốc ngược chiếc cẳng lên cho máu còn lại chảy giọt lên đám cây đuôi chồn. Bàn tay dính đầy máu của ông dây bẩn chiếc tất trắng, khi ông cầm nơi mắt cá. Gennaro lại thấy buồn nôn

 

– Không còn nghi ngờ gì nữa. Con T-rex tấn công anh ta. – Muldoon nhìn lên đồi, rồi nhìn lại Gennaro:

 

– Không việc gì chứ? Có thể tiếp tục đi không?

 

– Được. Tôi đi tiếp được.

 

Muldoon đi lui về chiếc xe Jeep, đem theo chiếc chân:

 

– Tôi cho là chúng ta nên đem thứ này theo, không nên để lại đây. Ôi nó sẽ làm bẩn xe mất. Ông xem giùm có thứ gì trong xe không? Tấm nilon hay tờ báo…

 

Gennaro mở cửa sau và lục tìm trong xe. Ông tìm thấy một túi vải bố đựng đồ nghề, một miếng bánh xe, một thùng các tông, và có hai tấm vải dầu.

 

– Lấy cho tôi một tấm.

 

Muldoon vẫn đang đứng ngoài xe, mở tấm vải dầu gói gọn chiếc chân lại rồi trao cho Gennaro:

 

– Để vào băng sau. Kiếm cách chèn lại, đừng cho lăn lóc.

 

– Ô kê.

 

Gennaro đỡ lấy chiếc gói và ngạc nhiên thấy khá nặng. Ông đặt nó vào băng sau và Muldoon leo vào sau tay lái. Ông ấn ga. Bốn bánh xe quay trong bùn, cày lên. Chiếc Jeep xông lên ngọn đồi chẳng mấy chốc nó lên đỉnh dốc, hai ánh đèn trước vẫn chiếu thẳng lên các tàu lá. Và ánh đèn quay xuống, Gennaro có thể thấy con đường trước mặt họ. Muldoon kêu lên:

 

– Chúa ơi! – và thắng xe lại.

 

Gennaro thấy một chiếc Land Cruiser nằm lật nghiêng ở chính giữa đường, còn chiếc kia không thấy đâu cả.

 

– Chiếc kia đâu?

 

Muldoon nhìn quanh, rồi chỉ về phía trái:

 

– Nó kia. – Chiếc Land Cruiser thứ hai nằm cách đấy khoảng mười mét, bẹp gí một đống dưới gốc cây.

 

– Tại sao nó vào đấy?

 

– Con T-rex ném vào đấy.

 

– Con T-rex ném?

 

Mặt Muldoon đăm đăm:

 

– Chúng ta tới xem sao. – ông leo ra khỏi xe Jeep. Hai người chạy nhanh đến bên chiếc Land Cruiser thứ hai. Ánh đèn rọi của họ quét tới quét lui trong bóng đêm.

 

Khi họ đến gần hơn, Gennaro có thể thấy tình trạng bẹp gí của chiếc xe như thế nào. Ông thận trọng để Muldoon nhìn vào trong xe trước. Muldoon:

 

– Chẳng có gì dễ sợ cho tôi thấy đâu. Hầu như chắc chắn là chúng ta sẽ chẳng tìm thấy được người nào.

 

– Không thể tìm được người nào?

 

– Không. – Muldoon giải thích là, trong những năm ở châu Phi, ông đã đến xem các quang cảnh hiện trường của năm sáu vụ thú tấn công người ở các bụi rậm. Một vụ tấn công của loài báo: con báo đã xé lều lúc ban đêm và mang đi một đứa bé ba tuổi. Rồi vụ trâu nước tấn công ở Amboseli; hai vụ tấn công của sư tử; một vụ khỉ độc ở miền bắc gần Meru. Trong tất cả mọi trường hợp, đều ngạc nhiên là không có một dấu vết gì để lại.

 

Nạn nhân dường như biến mất, như thể anh ta đi dạo chơi trong rừng và không bao giờ trở về. Một con thú ăn thịt có thể giết một đứa trẻ bằng cách day day khi nó ngoạm cổ đứa bé. Thường thường thì không có chút máu mủ nào.

 

Và phần lớn những vụ đó, người ta không bao giờ tìm thấy thứ gì còn rơi rớt lại của nạn nhân. Đôi khi có thể thấy một hột nút áo, một miếng đế giày cao su. Nhưng phần lớn không tìm thấy gì.

 

Nhưng khi nhìn lại vào trong xe, ông ta ngạc nhiên:

 

– Tôi thật đáng nguyền rủa.

 

Muldoon cố thử lắp ráp lại các cảnh. Cửa chắn gió trước của chiếc xe bị vỡ, nhưng không có nhiều mảnh vỡ quanh đây. Ông đã chú ý đến những mảnh vỡ ông thấy trên đường. Vì thế cửa chắn gió chắc chắn đã bị vỡ ở ngoài kia, trước khi con T-rex nhấc chiếc xe quẳng vào đây. Nhưng chiếc xe đã chịu một cú ghê gớm. Muldoon rọi đèn chiếu vào trong xe. Gennaro căng thẳng, hỏi:

 

– Xe trống?

 

– Không hẳn. – ánh đèn phản chiếu lại từ một chiếc máy vô tuyến và trên sàn xe, ông thấy một vật gì khác, một vật đen đen, cong cong. Cửa trước méo mó và kẹt cứng, nhưng ông leo cửa sau vào và bò qua nệm ngồi nhặt lấy một vật đen đen.

 

– Một chiếc đồng hồ. – ông đưa lên ánh đèn ngắm nghía. Một chiếc đồng hồ chữ số rẻ tiền, vỏ bằng nhựa mềm. Mặt nhựa đã vỡ. Ông cho rằng đứa bé có lẽ đã mang chiếc đồng hồ này, dù ông không chắc. Nhưng đấy là loại đồng hồ mấy đứa nhỏ ưa thích.

 

Gennaro hỏi:

 

– Cái gì thế? Phải đồng hồ không?

 

– Phải. Và có máy vô tuyến nữa, nhưng đã vỡ.

 

– Mấy thứ ấy có ý nghĩa gì không?

 

– Có chứ. Và có cái gì đây nữa… – Muldoon khịt mũi. Có mùi chua trong xe. Ông rọi đèn xung quanh cho đến khi ông thấy có ai đó đã nôn ra, dính ở khung cửa. Ông sờ thử: còn ướt.

 

– Một trong hai đứa bé có thể còn sống.

 

Gennaro liếc nhìn Muldoon:

 

– Điều gì khiến ông tin vậy?

 

– Chiếc đồng hồ. Chiếc đồng hồ chứng tỏ thế. – Muldoon trao chiếc đồng hồ cho Gennaro, ông này đưa lên ánh đèn xem xét, lật lật trong tay.

 

– Mặt kính đã vỡ. – Gennaro nói.

 

– Đúng thế. Và dây đeo không bị đứt.

 

– Có nghĩa là?

 

– Thằng bé cởi đồng hồ ra.

 

– Việc ấy có thể xẩy ra bất cứ lúc nào. Bất cứ lúc nào trước vụ tấn công.

 

– Không đâu. Mặt kính ấy khó vỡ. Phải va chạm mạnh mới làm nó vỡ được. Mặt đồng hồ vỡ khi đang xẩy ra cuộc tấn công.

 

– Vì thế thằng bé cởi vứt đi?

 

– Cứ nghĩ lại xem. Nếu ông đang bị khủng long tấn công, ông có tìm cách cởi đồng hồ ra không?

 

– Có thể nó bị tuột ra.

 

– Hầu như khó mà rứt một chiếc đồng hồ ra khỏi tay ai, mà không rứt luôn cả bàn tay. Vả lại, dây đeo còn nguyên. Vậy đúng là thằng bé tự cởi ra. Nó nhìn đồng hồ, thấy vỡ và tháo ra. Nó có thì giờ để làm việc ấy.

 

– Lúc nào?

 

– Chỉ có thể sau lúc bị tấn công. Thằng bé hẳn phải ở trong xe sau khi con thú tấn công. Và chiếc radio bị vỡ, nên nó cũng để lại luôn. Nó là đứa thông minh, và hiểu rằng mấy thứ đó chẳng còn dùng được.

 

Gennaro thắc mắc:

 

– Nếu nó thông minh thì nó bỏ đi đâu? Bởi vì nó phải chờ đây để có người tới đem về.

 

– Vâng, nhưng có lẽ nó không thể chờ đây. Có thể con tyrannosaur trở lại. Hay một con nào khác. Dù sao có điều gì đó khiến nó bỏ đi.

 

– Vậy nó đi đâu được chứ?

 

– Hãy thử xem nó có loanh quanh đâu đây không. – Muldoon trả lời và bước về phía đường chính.

 

Gennaro đứng trông Muldoon chiếu đèn rọi lên mặt đường để quan sát. Mặt Muldoon chỉ cách mặt đường đầy bùn vài centimet, căng thẳng tìm kiếm. Muldoon tin là ông đang then dõi được dấu vết gì đó, và ít nhất một trong hai đứa trẻ vẫn còn sống. Gennaro thì vẫn không có chút hy vọng nào. Cú choáng vì thấy chiếc cẳng chân đã dẫn ông tới một quyết định cương quyết là phải đóng cửa công viên và phá hủy nó đi.

 

– Ông có thấy những dấu này không? – Muldoon hỏi, vẫn nhìn vào mặt đường.

 

– Dấu gì?

 

– Dấu chân. Xem đi, những dấu chân tập trung về phía chúng ta từ đầu đường? Và có cả dấu chân người lớn nữa. Một loại dấu giày đế cao su. Hãy chú ý những kiểu bước đi…

 

Gennaro chỉ thấy toàn bùn. Nước bùn làm mờ cây đèn rọi. Muldoon tiếp:

 

– Ông có thể thấy đấy, dấu chân người lớn đến chỗ này rồi nhập với các dấu khác. Dấu nhỏ, dấu trung bình,… đi xung quanh thành những vòng tròn, dường như họ tụm lại với nhau để nói chuyện… Nhưng còn đây thì, dường như họ chạy. – Ông chỉ về phía xa – Chạy vào đó, vào trong công viên.

 

Gennaro lắc đầu:

 

– Ông có thể thấy được gì với đám bùn này.

 

Muldoon đứng dậy bước lui. Ông nhìn xuống mặt đất và thở dài:

 

– Ông muốn nói gì thì nói, nhưng tôi đánh cuộc là một trong hai đứa bé còn sống. Và có thể cả hai. Có lẽ cả một người lớn nữa, nếu những dấu chân người lớn này thuộc về một người nào đó không phải Regis. Chúng ta phải tìm trong công viên.

 

– Ngay đêm nay?

 

Nhưng Muldoon không nghe câu hỏi. Ông đã bỏ đi, đến chỗ một đụn đất mềm do nước chảy đùn lại, gần một ống thoát nước. Và lại bò khum người:

 

– Con bé ấy ăn mặc thế nào nhỉ?

 

– Ôi, tôi không nhớ được.

 

Bò tới dần dần, Muldoon tiến xa hơn qua bên kia đường. Rồi hai người nghe thấy tiếng phì phì. Rõ ràng đây là tiếng một con thú. Gennaro cảm thấy sợ hãi, bảo Muldoon:

 

– Nghe kìa… Tôi nghĩ tốt hơn chúng ta nên…

 

– Suỵt… – Muldoon đưa tay lên, dừng lại, lắng tai.

 

– Chắc là tiếng gió thôi.

 

Họ lại nghe thấy tiếng phì phì, lần này rõ hơn. Đấy không phải tiếng gió. Âm thanh xuất phát từ đám tàn lá ngay phía trước họ.

 

Nghe như không phải tiếng con thú, nhưng Muldoon tiến tới rất thận trọng. Ông lắc cây đèn rọi và la lớn, nhưng tiếng phì phì không thay đổi.

 

Muldoon đẩy đám tán lá cọ dừa ra một bên. Gennaro hỏi:

 

– Cái gì thế?

 

– Ôi, ông Malcolm.

 

Ian Malcolm nằm ngửa người, da trắng bệch, miệng há. Hơi thở tuôn ra từng quãng phì phò. Muldoon trao cây đèn cho Gennaro rồi cúi xuống xem xét thân trên của Malcolm. Ông nói:

 

– Tôi không tìm thấy vết thương nào. Đầu không can gì, ngực, hai tay…

 

Rồi Gennaro đưa ánh đèn xuống chân.

 

– Ông ta đã thắt một dây cầm máu. – Muldoon nói.

 

Dây nịt của Malcolm quấn chặt trên vế. Gennaro rọi đèn xuống bàn chân. Mắt cá chân phải vênh lên tạo thành một góc kỳ cục với bàn chân, ống quần vấy máu dính sát vào da. Muldoon đưa tay chạm nhẹ vào mắt cá, và Malcolm rên lên.

 

Muldoon bước lui và cố suy nghĩ xem phải làm gì tiếp đây. Malcolm có thể có những vết thương khác. Lưng ông ta có thể gãy. Nếu di chuyển có thể giết chết ông ta. Nhưng nếu để ông ở đây thì ông sẽ chết vì ngất. Chỉ nhờ ông ta nhanh trí dùng dây nịt làm dây cầm máu mới khỏi bị mất máu đến chết. Và có lẽ ông ta cũng chết thôi. Vậy họ phải chuyển ông ta về.

 

Gennaro giúp Muldoon nhấc nhà toán học lên, đỡ vào vai ông ta. Malcolm rên rỉ, thở gấp từng hồi. Ông kêu nhỏ:

 

– Lex. Lex… đi… Lex…

 

Muldoon hỏi:

 

– Lex là ai?

 

– Con bé. – Gennaro đáp.

 

Hai người khiêng Malcolm trở lại xe Jeep và đặt ông nằm gọn ở đằng sau. Gennaro buộc chặt lại dây nịt cầm máu quanh chân. Malcolm lại rên rỉ. Muldoon vén ống quần lên và thấy thịt mềm nhão ở bên dưới, những mảnh vụn xương trắng lòi ra.

 

– Chúng ta phải đem ông ta về. – Muldoon nói.

 

– Đi khỏi chỗ này mà không tìm mấy đứa nhỏ?

 

Muldoon lắc đầu:

 

– Nếu chúng đi vào công viên, thì cả hai mươi dặm vuông. Cách duy nhất chúng tôi có thể tìm ra được gì trong công viên là nhờ các bộ cảm ứng với chuyển động. Nếu mấy đứa bé sống sót và đang quanh quẩn trong công viên, các bộ cảm ứng sẽ phát hiện ra, và chúng ta sẽ đến đúng chỗ để đem chúng về. Còn nếu chúng ta không đem tiến sĩ Malcolm về ngay ông ta sẽ chết.

 

– Thế thì chúng ta phải trở về.

 

– Vâng, tôi thấy thế.

 

Họ leo vào xe. Gannaro hỏi:

 

– Ông sẽ nói với Hammnold là mấy đứa bé đã mất tích?

 

– Không. Ông nói.

 
ĐIỀU KHIỂN
Donald Gennaro nhìn Hammnold. Ngồi trong phòng ăn vắng người, ông già đang ăn kem, bình tĩnh.

 

– Vậy Muldoon tin là hai đứa nhỏ ở đâu đó trong công viên.

 

– Ông ta cho vậy. Vâng.

 

– Vậy thì tôi chắc chắn là ông ta sẽ tìm ra chúng.

 

– Tôi hy vọng vậy. – Gennaro nhìn ông già thong thả múc kem ăn, và ông ta cảm thấy hơi mất tin tưởng.

 

– Ồ, tôi chắc chắn là chúng ta sẽ tìm được chúng. Vả chăng, tôi vẫn nói với mọi người, công viên này được tạo dựng cho lũ trẻ.

 

– Chỉ vì thế mà ông hiểu rằng chúng đang đi lạc, thưa ông?

 

– Đi lạc? – ông già ngắt lời – Dĩ nhiên, tôi biết là chúng đi lạc. Đừng để mọi sự tồi đi. Chúng ta gặp trở ngại hư hỏng do giông bão hay gì đó và do vậy ta đã chịu đựng một tai nạn không may đáng tiếc. Và cũng chỉ có thế. Chúng ta đang liên hệ xem xét. Arnold sẽ tìm cách cho computer hoạt động trở lại. Muldoon sẽ tìm được mấy đứa nhỏ và tôi tin chắc là ông ta sẽ đem chúng về vào lúc chúng ta ăn xong chỗ kem này. Vậy chúng ta hãy cứ chờ xem…

 

Gennaro:

 

– Vâng, thì cứ theo lời ông nói thế đã.

 
– Tại sao phải kiểm tra lại? – Wu hỏi, mắt nhìn màn hình điều khiển.

 

– Vì tôi nghĩ là gã Nedry đã làm điều gì đó ở mã. Đấy là lý do tại sao tôi đang kiểm tra lại.

 

– Được rồi. Nhưng ông đã thử các phần khác chưa?

 

– Như cái gì?

 

– Tôi không biết. – Wu bảo – Như, hệ thống an toàn còn hoạt động không? Các bộ kiểm soát? Vân vân?

 

– Chúa ơi! – Arnold gõ mấy ngón tay – Phải kiểm tra mấy thứ này. Hệ thống an toàn không thể tắt đi trừ ở bảng điều khiển chính.

 

– Vậy, nếu các bộ kiểm soát vẫn còn hoạt động, ông có thể lần theo những gì gã làm.

 

– Chắc chắn là thế.

 

Arnold bắt đầu bấm các nút. Tại sao ông không nghĩ đến từ trước nhỉ? Việc ấy thật rõ ràng. Hệ thống computer của công viên có gắn một số các hệ thống an toàn. Một trong những hệ thống này là chương trình kiểm soát, có nhiệm vụ ghi lại tất cả các tín hiệu lập chương trình do điều hành viên đưa vào hệ thống computer. Thoạt tiên chương trình kiểm soát này được đưa vào như là một dụng cụ để phát hiện những thiếu sót, nhưng sau nó được giữ lại luôn để bảo đảm an toàn.

 

Trong một chốc có ba dãy số và những lệnh do Nedry bấm phím đưa vào xuất hiện chiếm hết cả màn hình. Arnold trố mắt nhìn và kêu lên:

 

– Đến thế ư? Gã khốn này dường như đã mất cả tiếng đồng hồ để tương đủ các thứ này vào.

 

Đấy là một cái bẫy sập. Gã vô lại mập ú này cho vào đấy một thứ thoạt nhìn tưởng đâu dùng để gọi object, nhưng thật sự đấy là một lệnh nối lệnh an toàn với hệ thống số, và rồi gã cắt: cho phép gã ta vào được mọi nơi trông công viên.

 

– Vậy thì chúng ta có thể nối lại?

 

– Vâng, chúng ta phải nối trở lại. – Arnold cau mày nhìn màn hình – Những gì ta phải làm là tìm cho ra lệnh. Tôi sẽ lục tìm hết tất cả những gì gã đưa vào qua bộ kiểm soát an toàn.

 

Wu bỗng đứng dậy khỏi ghế:

 

– Trong lúc đó, có ai đó đã vào phòng lạnh cách đây khoảng một tiếng. Tôi nghĩ tốt hơn là tôi phải xuống đếm lại các phôi của tôi xem sao.

 
Ellie đang ở trong phòng mình, sắp sửa thay bộ áo quần ướt thì có tiếng gõ cửa.

 

– Giáo sư Grant? – Nhưng khi mở cửa Ellie thấy Muldoon đứng đấy, với một gói bọc bằng vải dầu kẹp dưới tay. Muldoon ướt sũng và có nhiều vết bùn dính trên áo quần.

 

– Xin lỗi nhưng tôi cần cô giúp. – Muldoon nói ngắn gọn – Hai chiếc Land Cruiser bị tấn công cách đây một tiếng. Chúng tôi mang Malcolm về nhưng ông ta bị ngất. Ông ta bị thương rất nặng ở chân. Vẫn còn mê man. Tôi để ông ta nằm trên giường trong phòng ông ta. Harding thì ra ngoài kia.

 

– Harding? Mấy người kia thì sao?

 

Muldoon trả lời, chậm chạp:

 

– Chúng tôi chưa tìm được mấy người kia, tiến sĩ Ellie à.

 

– Ôi lạy Chúa.

 

– Nhưng tôi nghĩ là tiến sĩ Grant và hai đứa bé vẫn còn sống. Chúng tôi cho là họ đã vào trong công viên.

 

– Đi vào trong công viên?

 

– Chúng tôi nghĩ vậy. Trong lúc đó, Malcolm cần giúp đỡ. Chúng tôi đã gọi Harding về.

 

– Sao không mời một bác sĩ?

 

– Trên đảo không có bác sĩ. Người biết thuốc men tốt nhất ở đây là Harding.

 

– Nhưng chắc chắn là ông có thể mời được một bác sĩ chứ?…

 

– Không. – Muldoon lắc đâu – Các đường điện thoại đều bị tắc. Chúngtôi không thể gọi ra ngoài đảo. – Ông đổi tay cầm cái gói.

 

– Cái gì vậy? – Ellie hỏi.

 

– Không có gì. Hãy vào giúp Malcolm giùm tôi. – và ông quay người bỏ đi.

 

Ellie ngồi lên giường. Ellie Sattler không phải là loại đàn bà dễ tỏ ra sợ hãi khi không cần thiết, và cô biết giáo sư Grant trước đây đã từng thoát được nhiều tình huống nguy hiểm.

 

Có lần ông lạc lối trong vùng đất cằn suốt bốn ngày khi một dốc đá chuồi dưới chân ông và ông bị rơi xuống một khe núi từ trên cao cả ba mươi mét. Chân phải Grant bị gãy. Ông không có nước uống. Thế mà ông đã đi bộ về đến trại với chiếc chân gãy.

 

Phần khác, còn mấy đứa bé.

 

Cô lắc đầu xua những ý nghĩ sang chiều hướng khác. Mấy đứa trẻ có lẽ cùng đi với Grant. Và nếu Grant ở ngoài kia trong công viên, ờ… còn có ai đem chúng đi qua được công viên kỷ Jura tốt hơn một chuyên gia về khủng long.

TRONG CÔNG VIÊN
– Cháu mệt quá. – Lex than thở – Bế cháu đi, tiến sĩ Grant.

 

– Em lớn quá ai ẵm được. – Tim bảo em.

 

– Nhưng em mệt.

 

– Ôkê, Lex, để bác bế. – Grant nhấc cô bé lên – Ô ô, cháu nặng thật đấy.

 

Lúc này vào khoảng 9 giờ tối. Ánh trăng tròn mờ mờ qua làn sương bay, và bóng họ ngả trên mặt đất dẫn họ đi ngang qua một cánh đồng trống, về phía khu rừng tối đen bên kia. Grant chìm sâu vào suy nghĩ cố khẳng định xem mình đang ở đâu. Vì thoạt tiên họ đã đi qua hàng rào do con khủng long đè rạp xuống, Grant lý luận chắc rằng hiện họ đang ở đâu đó trong khu nuôi khủng long bạo chúa. Là một nơi mà ông không muốn có mặt. Trong trí ông, ông vẫn còn thấy việc theo dõi khu vực sinh hoạt của con tyrannosaur của computer, những đường dợn sóng vẽ nên sự di chuyển của nó trong một diện tích nhỏ. Ông và hai đứa nhỏ hiện ở trong diện tích ấy.

 

Nhưng Grant cũng nhớ rằng những tyrannosaur bị cách ly khỏi những con khác, có nghĩa là họ biết họ sẽ rút khỏi khu tyrannosaur nếu qua một rào chắn – một hàng rào, một cái mương, hoặc cả hai.

 

Nhưng cho đến gào ông chưa thấy một rào chắn nào cả.

 

Cô bé tựa đầu lên vai ông, lồng mấy ngón tay vào tóc. Chẳng mấy chốc, cô bắt đầu ngáy. Tim lê bước theo sát Grant.

 

– Còn đi nổi không, Tim?

 

– Không sao. Nhưng cháu nghĩ có lẽ mình vẫn còn ở trong vùng con tyrannosaur.

 

– Bác nghĩ chắc là thế, bác hy vọng chúng ta sẽ sớm ra khỏi đây.

 

– Bác đang đi vào khu rừng?

 

Khi họ đến gần, khu rừng tối và có vẻ đe dọa. Grant gật đầu:

 

– Đúng thế. Bác nghĩ là chúng ta có thể định hướng được nhờ những con số ghi ở các bộ cảm ứng.

 

Các bộ cảm ứng với chuyển động là những hộp màu xanh lục đặt cao khỏi mặt đất chừng hơn một mét. Một số đứng riêng rẽ, một số gắn trên các cây. Không một bộ nào hoạt động vì rõ ràng là năng lượng đã bị cắt. Mỗi hộp cảm ứng có một bộ thấu kính ở trung tâm, và một mã số viết bằng sơn ở dưới. Ở đàng trước, trong ánh trăng nhòa lẫn với sương, Grant có thể thấy một hộp đánh số T/S/04.

 

Họ vào khu rừng, các cây to đứng lờ mờ xung quanh. Dưới ánh trăng, một đám sương trắng la đà trên mặt đất, luẩn quẩn quanh mấy rễ cây. Trông rất đẹp, nhưng dễ đánh lừa bước chân. Và Grant đang trông chừng các bộ cảm ứng. Chúng dường như đánh số theo thứ tự nhỏ dần. ông đi ngang T/S/03, và T/S/02. Cuối cùng, họ đến T/S/01. Ông đã mệt vì phải bế con bé, và hy vọng bộ này sẽ nằm ở đường ranh cuối cùng của khu tyrannosaur, nhưng lại có một hộp khác ở giữa rừng. Và hộp kế hộp này được đánh số T/N/01, tiếp theo là T/N/02. Grant nhận thấy là các con số được đánh quanh một tâm điểm, như một compas. Họ đang đi từ nam tới bắc, vì thế các con số nhỏ dần khi đến trung tâm và rồi lớn dần lên.

 

– Ít nhất, chúng ta cũng đang đi đúng hướng. – Tim nhận xét.

 

– Cháu giỏi đấy.

 

Tim mỉm cười, và vấp ngã vì một đám dây leo. Cậu bé đứng ngay dậy. Họ đi tiếp lát nữa. Cậu bé nói chuyện:

 

– Ba mẹ cháu đang lo chuyện ly dị nhau.

 

– Ừ, ừ…

 

– Ba cháu đã ở riêng cả tháng rồi. Lúc này, ông ấy đã có nhà riêng ở Mill Valley.

 

– Ừ, ừ…

 

– Ba chẳng bao giờ bế em cháu nữa. Thậm chí chẳng bao giờ nhấc nó lên.

 

– Và ông ấy nói cháu có khủng long trong óc.

 

– Vâng. – Tim thở dài

 

– Cháu nhớ ba?

 

– Thật ra thì không hẳn vậy. Thỉnh thoảng thôi. Lex nhớ nhiều hơn.

 

– Thế mẹ cháu?

 

– Me có bạn trai. Mẹ biết ông ấy ở chỗ làm việc.

 

Họ yên lặng đi thêm một chốc nữa, ngang qua T/N/03 và T/N/04. Grant hỏi:

 

– Cháu có gặp “bạn trai” mẹ cháu không?

 

– Có.

 

– Ông ta ra sao?

 

– Cũng được được. Ông ấy trẻ hơn ba, nhưng hói đầu.

 

– Ông ta đối xử với cháu thế nào?

 

– Cháu không biết. Cũng tạm được. Cháu không biết sắp tới sẽ ra sao. Thỉnh thoảng mẹ nói sẽ bán nhà đi ở chỗ khác. Thỉnh thoảng ông ấy với mẹ đánh lộn nhau trong đêm khuya. Cháu ngồi trong phòng chơi với computer, nhưng cháu có thể nghe hết.

 

– Ờ, ờ…

 

– Bác li dị à

 

– Không. Vợ bác chết lâu rồi.

 

– Và bây giờ bác ở với tiến sĩ Ellie.

 

Grant mỉm cười trong bóng đêm:

 

– Không, cô ấy là học trò của bác.

 

– Bác có ý nói cô ấy vẫn còn đi học?

 

– Ờ, tốt nghiệp rồi nhưng vẫn học.

 

Grant nghỉ một lúc lâu đủ để đổi Lex qua vai khác, rồi họ tiếp tục đi qua T/N/05 và T/N/06. Có tiếng sấm rền ở xa xa. Cơn giông bão đã chuyển về phía nam. Có rất ít tiếng động trong rừng trừ tiếng râm ran của ve rừng và tiếng ì oạp của ếch nhái trong các hốc cây.

 

Tim lại hỏi:

 

– Bác có con không?

 

– Không.

 

– Bác có cưới tiến sĩ Ellie không?

 

– Không. Cô ấy sắp lấy chồng là một bác sĩ rất đẹp trai ở Chicago, vào năm tới.

 

– Ô, ô. – Tim dường như rất ngạc nhiên nghe vậy. Họ đi thêm một lúc nữa. – Thế bác sắp cưới ai?

 

– Bác nghĩ là bác chưa sắp cưới ai.

 

– Cháu cũng thế.

 

Họ đi tiếp. Tim lại hỏi:

 

– Chúng ta sẽ đi suốt đêm để về chăng?

 

– Bác nghĩ là không thể được. Chúng ta phải kiếm chỗ nghỉ, ít nhất cũng vài tiếng. – ông nhìn đồng hồ – Được thôi. Chúng ta còn hơn mười lăm tiếng đồng hồ trước khi phải có mặt ở chỗ họ. Trước khi con tàu đến đất liền.

 

– Chúng ta sẽ nghỉ ở đâu đây? – Tim hỏi ngay lập tức.

 

Grant cũng đang tự hỏi như thế. Ý nghĩ đầu tiên của ông là họ có thể leo lên một cái cây, và nghỉ trên ấy. Nhưng họ phải leo thật cao mới an toàn tránh khỏi các con thú và Lex có thể rơi trong khi nó ngủ. Và cành cây thì cứng; họ sẽ khó mà nghỉ được, ít nhất ông cũng không nghỉ được.

 

Họ cần một chỗ nào đó an toàn. Ông nhớ lại các bản vẽ thiết kế ông đã xem khi ở trên chiếc phản lực. Ông nhớ là có những dãy nhà nằm bên ngoài phạm vi của mỗi khu khác nhau. Grant không biết các dãy nhà đó như thế nào, vì những thiết kế riêng cho mỗi dãy nhà ấy không có trong tập sách. Và ông không thể nhớ chắc chắc chúng ở đâu, nhưng nhớ là chúng nằm rải rác khắp công viên. Có thể những tòa nhà ấy gần đâu đây.

 

Nhưng đến được đấy, có một điều kiện là phải qua một rào chắn và ra khỏi khi vực của con tyrannosaur. Tìm một ngôi nhà cũng phải có một chiến lược, và chiến lược tốt nhất là…

 

– Tim à, cháu có thể đỡ em cháu cho bác một lát? Để bác leo lên cây nhìn quanh xem sao.

 

Ngồi cao trên mấy cành cây, ông có thể nhìn rõ quang cảnh của khu rừng, các ngọn cây trải dài về phía trái và phía phải. Họ đang ở gần rìa khu rừng – ngay trước các dãy cây chấm dứt bằng một khoảng trống với hàng rào điện và con mương bê tông xám. Phía bên kia là một cánh đồng trống mà ông đoán là khu nuôi sauropod. Phía xa hơn, lại cây, và ánh trăng nhòa với sương lấp lánh trên mặt nước biển.

 

Ông nghe đâu đó tiếng gầm của một con khủng long, nhưng ở xa xa. Ông mang cặp kính đêm của Tim lên và nhìn lần lượt. Ông theo dõi chỗ uốn quanh của con mương, và rồi ông thấy điều ông đang tìm, một dải đen của con đường dẫn tới một mái bằng hình chữ nhật. Mái nhà không cao quá mặt đất nhiều, nhưng nó có đấy và nó không xa lắm. Có lẽ chỉ một phần tư dặm kể từ đây đến đấy.

 

Khi ông leo xuống, Lex đang khịt mũi.

 

– Gì vậy Lex?

 

– Cháu nghe tiếng một con thú.

 

– Nó chẳng làm rầy chúng ta đâu. Cháu đã tỉnh chưa? Đi tiếp.

 

Ông dẫn cô bé tiến đến bên hàng rào. Hàng rào cao ba mét rưỡi với dây thép gai xoắn tròn nằm dài theo phía trên, và dường như vươn quá cao trên đầu họ trong ánh trăng. Con hào nằm ngang bên kia hàng rào. Lex nhìn lên hàng rào tự lượng sức mình.

 

– Cháu leo được không? – Grant hỏi.

 

Cô bé trao cho ông đôi găng tay, và quả bóng:

 

– Được chứ. Dễ òm. – Cô bắt đầu leo – Nhưng cháu cá là anh Tim không leo được.

 

Tim nổi tức:

 

– Này im mồm đi.

 

– Anh Tim sợ leo cao lắm.

 

– Tao không sợ đâu.

 

– Sợ chứ. – cô bé leo cao hơn.

 

– Không sợ.

 

– Vậy thì leo theo em đi.

 

Grant quay nhìn Tim Mặt tái mét trong bóng đêm, thằng bé không cử động.

 

– Cháu leo được chứ Tim?

 

– Chắc rồi.

 

– Có muốn bác đỡ không?

 

– Anh Tim là một con mèo nhát. – Lex gọi xuống.

 

– Con bé này nói vớ vẩn. – Và cậu bắt đầu leo.

 

– Nước lạnh quá – Lex kêu lên.

 

Họ đang đứng dưới mương trong nước sâu đến thắt lưng. Họ đã leo qua được hàng rào không xẩy ra việc gì, trừ chuyện Tim bị rách áo sơ mi do thép gai cuộn tròn trên đỉnh rào. Rồi cả ba người tuột xuống mương, và bây giờ Grant đang tìm cách leo lên.

 

– Ít nhất thì cháu cũng đã kéo anh Tim qua hàng rào giùm bác. – Lex nói – Anh ấy đúng là lúc nào cũng sợ hãi.

 

Tim nói mỉa:

 

– Xin cám ơn sự giúp đỡ của bà lớn.

 

Dưới ánh trăng, cậu bé có thể thấy một khúc gỗ nổi lềnh bềnh trên mặt nước. Cậu lội dọc theo con hào, nhìn thành hào cao phía bên kia. Bờ thành hào bê tông phẳng, họ không thể nào leo lên được.

 

– Eo ơi! – Lex chỉ vào khúc gỗ.

 

– Nó không làm gì mày đâu.

 

Cuối cùng, Grant tìm được một chỗ bê tông nứt và một cây leo mọc buông thõng xuống mặt nước. Ông nắm thân cây leo giật thử, thấy nó chịu được sức nặng của mình.

 

– Nào, hai đứa. Leo lên.

 

Họ bắt đầu leo theo cây, lên được cánh đồng bên trên.

 

Họ chỉ mất mấy phút đi ngang qua cánh đồng trống để tới một con đường chưa đạt tiêu chuẩn, dành cho việc phục vụ và tòa nhà bảo quản nằm bên phải. Họ đi ngang qua hai hộp cảm ứng, và Grant cảm thấy không vui khi nhận thấy chúng vẫn không hoạt động, cũng như chưa có ánh đèn. Hơn hai tiếng đồng hồ trôi qua kể từ khi năng lượng bị cúp, thế mà vẫn chưa sửa chữa được. Ở một nơi nào đó xa xa, họ nghe tiếng con tyrannosaur rống. Lex hỏi:

 

– Nó có gần đây không?

 

– Không đâu. Chúng ta ở trong một khu khác rồi.

 

Họ tuột xuống một bờ đường đầy cỏ và đi về phía tòa nhà đúc bê tông. Trong bóng đêm, trông nó có vẻ chắc chắn, như một cái lô cốt

 

– Đây là chỗ gì hở bác? – Lex hỏi .

 

– Chỗ này an toàn – Grant trả lời, hi vọng đúng thế.

 

Cửa vào rộng đủ cho một xe tải đi lọt. Cửa làm bằng những song sắt to. Bên trong, họ thấy, tòa nhà là một cái lán trống trải, với những đống cỏ tươi và những kiện cỏ khô nằm giữa những đồ dùng khác. Cửa được khóa bằng một ổ khóa to, chắc chắn. Khi Grant đang còn ngắm nghía ồ khóa, Lex đã chen qua các chấn song vào lọt bên trong.

 

– Vào đi mấy người.

 

Tim vào theo Lex . Cậu bản Grant:

 

– Chắc bác cũng vào lọt, bác Grant à.

 

Cậu bé nói đúng. Dù chui qua chật vật một tí, nhưng Grant cũng lọt người qua được khe song vào bên trong lán. Ngay khi vào được lán, một cơn mệt nhoài chiếm cứ ông.

 

– Không biết có thứ gì ăn được không? – Lex hỏi.

 

– Chỉ toàn cỏ khô. – Grant tháo một bó cỏ, rải lên sàn bê tông. Họ nằm xuống nghỉ, cảm thấy ấm áp. Lex cuộn tròn người bên ông, và nhắm mắt. Tim đặt tay qua người cô bé, ôm lấy em.

 

Cậu nghe tiếng sauropod hí lên nhè nhẹ đâu đây.

 

Không đứa nào nói gì. Hình như chúng ngủ ngay lập tức. Grant đưa tay nhìn đồng hồ, nhưng quá tối không thấy được. Ông cảm thấy hơi ấm hai đứa bé truyền qua người ông.

 

Grant nhắm mắt, và ngủ thiếp.

 
ĐIỀU KHIỂN
Muldoon và Gennaro bước vào đúng lúc Arnold vỗ hai tay vào nhau và thốt lên:

 

– Đồ quỷ! Mày, đồ con hoang.

 

Gennaro bước tới một bên:

 

– Cái gì vậy?

 

Arnold chỉ vào màn hình, vẻ bằng lòng.

 

– Đấy, thế đấy.

 

Gennaro nhìn màn hình:

 

– Cái gì thế?

 

– Cuối cùng thì tôi cũng tìm được lệnh để hồi phục lại mã gốc.

 

– Tốt. – Muldoon gật đầu.

 

– Nhưng nó gây nên chuyện khác. – Arnold nói – Nó sẽ xóa hết tất cả các đường mã liên hệ tới nó. Nó hủy hết tất cả mọi chứng cứ ghi lại từ trước đến nay. Khá mệt đấy.

 

Gennaro lắc đầu:

 

– Tôi chẳng biết gì nhiều về computer. Đấy là những vấn đề lớn, rất lớn.

 

– Vậy thì, xem đây. – Arnnld bấm phím đánh lệnh: FINI OBJ.

 

Màn hình nhấp nháy và thay đổi.

 

Muldoon chỉ về phía cửa sổ

 

– Xem kìa!

 

Bên ngoài ánh sáng bửng lên khắp công viên. Họ đến bên cửa sổ, nhìn ra ngoài. Arnold nói:

 

– Đồ quỷ, gã mập.

 

Gennaro hỏi:

 

– Thế thì có nghĩa các hàng rào đã được truyền điện trở lại?

 

– Đúng vậy. Nhưng phải mất vài giây để có điện cùng khắp, vì chúng tôi có đến năm mươi dặm hàng rào, và máy phát điện phải sạc điện vào các bộ chứa dọc theo hàng rào. Nhưng chỉ trong vòng nửa phút nữa, chúng ta sẽ trở lại như cũ. – Arnold chỉ tay vào tấm bản đồ trong suốt của công viên.

 

Trên chiếc bản đồ dựng thẳng đứng, những đường đỏ sáng đang bò ra khỏi nhà máy điện, chạy khắp công viên, khi điện truyền vào các hàng rào. Gennaro hỏi:

 

– Còn các bộ cảm ứng?

 

– Vâng. Các bộ cảm ứng cũng đã hoạt động. Sẽ mất vài phút khi computer đếm số thú. Nhưng mọi thứ đang hoạt động. – Arnold nhìn đồng hồ – Chín giờ rưỡi, và chúng ta đã đưa toàn bộ mọi thứ vào hoạt động trở lại.

 
Grant mở mắt. Ánh sáng chói lòa tràn vào lán qua chấn song cửa. Ánh sáng đèn thạch anh: năng lượng đã được phục hồi. Ông giụi mắt, nhìn đồng hồ. Chín giờ rưỡi. Ông chỉ mới thiếp đi vài phút. Ông quyết định có thể ngủ thêm vài phút nữa, và rồi đi trở lại cánh đồng, đứng trước một bộ cảm ứng và vẫy tay cử động. Phòng điều khiển sẽ định vị được ông; họ sẽ cho xe tới đem ông và hai đứa trẻ về, ông sẽ bảo Arnold gọi chiếc tàu cung cấp trở lại, hai đứa nhỏ cùng ông sẽ ngủ qua hết đêm trong giường của mình ở khu nhà nghỉ. Ông sẽ làm những việc đó ngay thôi. Chỉ trong vài phút nữa. Ông ngáp, và nhắm mắt lại lần nữa.
 
Trong phòng điều khiển, Arnold nhìn vào bản đồ công viên.

 

– Không hỏng nhiều lắm. Chỉ có ba chỗ bị cắt. Tốt hơn tôi chờ đợi nhiều.

 

– Bị cắt? – Gennaro hỏi.

 

– Hàng rào được tự động ngắt những phần bị chạm điện. – Arnold giải thích – Ông có thể thấy một chỗ to ở đây, ở khu ô 12, gần đường chính.

 

– Đấy là chỗ tyrannnsaur đạp hàng rào xuống. – Muldoon nói.

 

– Đúng thế. Và một chỗ khác ở đây, ở khu 11. Gần nhà bảo quản ở khu sauropod.

 

– Tại sao khu đó lại bị cắt?

 

– Có chúa biết. Có thể do cơn giông hay một cây đổ. Chúng ta có thể kiểm tra điều này ở bộ phận thu hình trong chốc nữa. Chỗ cắ thứ ba ở kia, gần bên con sông. Chẳng biết tại sao chỗ ấy lại bị cắt.

 

Khi Gennaro nhìn, bản đồ trở nên phức tạp hơn, có đầy những điểm xanh và những con số.

 

– Các thứ gì vậy?

 

– Các con thú đấy. Các bộ cảm ứng đang hoạt động trở lại và computer bắt đầu định vị và định loại tất cả các thứ trong công viên. Và bất cứ người nào nữa nếu có.

 

Gennaro nhìn chăm chăm vào bản đồ:

 

– Anh có ý nói là Grant và hai đứa nhỏ…?

 

– Vâng. Chúng tôi đặt con số tìm trên bốn trăm. Vì thế nếu ngoài ấy có họ, các bộ cảm ứng sẽ đếm thêm họ như là các con thú. – Arnold nhìn vàn bản đồ – Nhưng tôi chưa thấy có thêm con thú phụ trội nào cả.

 

– Tại sao mất lâu thì giờ thế?

 

– Ông thấy đó, ông Gennaro, có rất nhiều chuyến động khác nhau ngoài công viên. Cành cây gió lay đông, chim bay, mọi thứ. Computer phải loại bỏ những chuyển động nền. Máy có thể mất đến… à, máy đã đếm xong.

 

– Anh không thấy mấy đứa bé?

 

Arnold xoay người trong ghế, và nhìn bản đồ lại:

 

– Không thấy. Vào lúc này, không thấy con số phụ trội trên bản đồ. Tất cả mọi thứ ngoài ấy phải được đếm như những con khủng long. Có lẽ họ leo lên cây, hay ở một nơi nào đấy và không cử động. Mấy người ấy có thể cũng đang ngủ.

 

Muldoon lắc đầu:

 

– Tốt hơn, chúng ta không nên tiếp tục việc này. Chúng ta cần phải chữa hàng rào và xua lũ thú vào bãi nuôi. Theo máy điện toán đếm ở kia, chúng ta phải đem năm con về chỗ của chúng. Tôi sẽ đem đội bảo quản ra ngoài kia bây giờ.

 

Arnold quay sang Gennaro:

 

– Chắc ông muốn xem thử tiến sĩ Malcolm giờ này ra sao. Bảo với Harding là Muldoon sẽ cần ông ấy khoảng một tiếng để trông chừng việc xua thú. Và tôi sẽ báo cho ông Hammond hay là chúng tôi đang bắt dầu việc dọn dẹp cuối cùng.

 

Gennaro bước qua cánh cổng sắt và đi vào cửa trước khu nhà nghỉ Safari. Ông thấy Ellie đang đi xuống hành lang, đem theo khăn mặt và một xô nước bốc hơi. Cô nói:

 

– Có nhà bếp đằng kia. Tôi đang dùng để nấu nước sôi rửa vết thương.

 

– Ông ta ra sao rồi?

 

– Tốt, rất đáng ngạc nhiên.

 

Gennaro theo Ellie vào phòng Malcolm, và nghe thấy tiếng cười. Nhà toán học nằm ngửa trên giường, Harding đang tiêm tĩnh mạch. Malcolm kể một chuyện tiếu lâm gì đấy khiến Harding cười to.

 

– Không tệ lắm, phải không? – Malcolm hỏi, mỉm cười. – A, ông Gennaro. Ông đã đến thăm tôi. Nào, giờ thì ông biết chuyện gì xẩy ra từ việc nhặt một chiếc chân bên đường rồi chứ.

 

Gennaro đến bên giường, Harding nói:

 

– Vừa tiêm cho ông ấy một liều morphine cao.

 

– Chưa đủ cao đâu. – Malcolm nói – Lạy Chúa, ông ta chích ngon lành quá. Họ đã tìm được mấy người kia chưa?

 

– Chưa thấy. Nhưng tôi thấy rất vui khi thấy ông khỏe.

 

– Tôi làm gì khác được, với một chỗ xương vỡ ở ống chân, mà dường như đã nhiễm trùng và bắt đầu có mùi… ái, đau quá. Nhưng như tôi vẫn nói, nếu người ta không giữ được tính hài hước thì…

 

Gennaro mỉm cười:

 

– Ông có nhớ việc gì xẩy ra không?

 

– Dĩ nhiên là tôi nhớ. Ông có nghĩ rằng ông bị một con tyrannosaur rex cắn rồi việc đó sẽ thoát khỏi trí nhớ ông? Không đời nào, phải không. Ông sẽ nhớ việc ấy suốt cuộc đời còn lại của mình. Trong trường hợp tôi, có lẽ thời gian bị nạn không kéo dài ghê gớm lắm. Nhưng, vâng, tôi nhớ chứ.

 

Malcolm tả lại khi ra khỏi xe Land Cruiser và chạy trong mưa rồi bị con T-rex đuổi theo:

 

– Đấy là lỗi tại tôi. Nó đã đến gần quá rồi, tôi quá kinh hoàng. Và có chạy thế nào nữa thì nó cũng dùng đôi hàm ngoạm lấy tôi.

 

– Sao? – Gennaro hỏi.

 

– Nó ngoạm ở mạng sườn tôi. – Malcolm đưa tay lên. Một vết bầm tím lõm sâu vào theo hình một cung tròn thật lớn chạy từ vai xuống rốn – nhấc tôi lên trong đôi hàm của nó, day tôi như điên rồi ném tôi xuống. Và tôi không can gì – kinh khủng, dĩ nhiên, nhưng vẫn nằm yên và không can gì, ngay vào lúc nó ném tôi. Tôi gãy chân vì cú rơi. Nhưng cú cắn thì đau không bằng một nửa.

 

Malcolm thở dài.

 

Harding:

 

– Phần lớn những thú ăn thịt lớn không có đôi hàm manh. Sức mạnh thật sự của nó nằm ở cần cổ. Hàm chỉ có việc giữ mồi trong khi chúng dùng cổ để rứt xé mồi. Nhưng với một con mồi nhỏ như tiến sĩ Malcolm, con vật chỉ day và rồi hất đi.

 

– Tôi e đúng như thế. Tôi ngỡ không thể nào sống sót, thì ra con thú bự ấy không có quả tim. Nói đúng sự thật, nó quật tôi một cách vụng về, như tấn công vào một vật gì nhỏ hơn chiếc xe hơi hay một ngôi nhà nhỏ.

 

– Ông cho là nó không thật tâm tấn công?

 

– Nói thế thì cũng đau lòng tôi, nhưng một cách trung thực, tôi cảm thấy là nó không hoàn toàn chú tâm đến việc tấn công. Nó chớp được tôi, dĩ nhiên. Nhưng, nó nặng đến tám tấn. Còn tôi, chẳng có kí nào, so với nó.

 

Gennaro quay qua Harding:

 

– Họ sắp sửa ra chữa lại mấy chỗ hàng rào hỏng. Arnold nói ông Muldoon sẽ phải cần ông giúp xua lũ thú vào khu nuôi.

 

– Ô kê. – Harding gật đầu.

 

Malcolm nói với Ellie:

 

– Chừng nào cô rời phòng, tiến sĩ Ellie, xin cho một ống morphine. Và chừng nào chúng ta chưa có hiệu ứng Malcolm.

 

– Hiệu ứng Malcolm là gì? – Gennaro hỏi.

 

– Sự khiêm nhường ngăn tôi nói với ông những chi tiết về một hiện tượng mang tên tôi. – Malcolm lại thở dài, và nhắm mắt lại. Trong một chốc, ông ta thiếp ngủ.

 

Ellie di ra hành lang nói với Gennaro:

 

– Đừng có lo. Ông ấy quá căng thẳng. Chửng nào thì ông có trực thăng đến dây?

 

– Trực thăng à?

 

– Chân của ông ấy cần phải mổ. Phải đảm bảo là họ đang cho gọi một chiếc trực thăng, và đem ông ta ra khỏi đảo này.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.