Công Viên Khủng Long Kỷ Jura

Phần Ba – 1. CÔNG VIÊN KỶ JURA



Họ đi vào một con đường, dưới những tán lá cọ dừa đan nhau thành một mái vòm xanh dẫn đến tòa nhà khách chính. Khắp nơi là những khu trồng cây trải dài làm mọi người tăng thêm cảm giác là họ đang đi vào một thế giới mới, một thế giới nhiệt đới thời tiền sử, để lại thế giới bình thường sau lưng.

 

Ellie nói với Grant:

 

– Lũ thú trông khá tuyệt.

 

– Vâng. Tôi muốn đến gần xem chúng. Tôi muốn cầm chân chúng dơ lên xem mấy ngón chân, sờ vào da chúng, banh hàm chúng ra quan sát các hàm răng. Chưa làm được thế thì tôi chưa tin chắc được. Nhưng đúng, trông chúng thật tuyệt.

 

Malcolm:

 

– Tôi chắc là chúng làm thay đổi lĩnh vực của ông chút ít.

 

Grant gật đầu:

 

– Thay đổi tất cả ấy chứ.

Một trăm năm mươi năm nay, kể từ lúc phát hiện được đống xương không lồ ở châu Âu, việc nghiên cứu khủng long chỉ là công việc suy đoán có tính khoa học. Ngành cổ sinh vật học về bản chất giống như công việc thám tử tìm kiếm đầu mối ở đám xương hóa thạch và lần theo dấu vết của những con thú khổng lồ biến mất từ lâu. Nhà cổ sinh vật học giỏi nhất là người có thể đưa ra những suy đoán thông minh nhất.
Toàn bộ các cuộc bàn cãi của ngành cổ sinh vật đều tiến hành trong lối suy đoán này – kể cả các cuộc cãi vã cay cú, trong đó Grant là khuôn mặt chủ yếu, rằng khủng long có phải loại máu lạnh hay không.
Các khoa học gia xếp khủng long vào loài bò sát có máu lạnh, lấy nhiệt cần thiết cho cơ thể từ môi trường chúng sống. Một con động vật có vú có thể biến đổi thức ăn làm sinh ra nhiệt cho cơ thể, nhưng một con bò sát thì không làm thế được. Cuối cùng một nhóm các nhà nghiên cứu – đứng đầu là giáo sư Jhon Ostrom và Robert Bakker ở đại học Yale – cho rằng quan điểm “khủng long là loài có máu lạnh không được giải thích những phát hiện tử hóa thạch. Theo cách suy diễn cổ điển, họ rút ra những kết luận: các loài thằn lằn và bò sát chân có móng cong bám vào mặt đất để lấy nhiệt. Chúng không có khả năng đứng trên hai chi sau hơn vài giây. Nhưng khủng long đứng thẳng trên hai chi sau, và nhiều loại đi thẳng bằng hai chi sau. Trong số các loài thú, dáng đứng thẳng chỉ có ở các loài thú có vú máu nóng và loài cầm. Vì thế, dáng đứng thẳng của khủng long cho ta ý niệm chúng có máu nóng.
Kế đến, họ khảo sát thức ăn, tính toán áp lực cần thiết để đẩy máu lên đầu qua chiếc cổ dài hơn năm mét của một con brachiosaur, và kết luận rằng nó chỉ có thể thực hiện được nhờ một quả tim máu nóng có bốn tâm thất.

 

Họ xem xét đường đi ăn, những dấu chân hóa thạch để lại trên bùn, và kết luận rằng khủng long chạy nhanh như người, một hoạt động nhanh nhẹn như thế chỉ có ở loài máu nóng. Họ đã tìm thấy những vết tích khủng long ở phía trên Bắc cực, một môi trường lạnh không thể tưởng tượng được đối với loài bò sát, và những khảo cứu mới về sinh hoạt quần thể, phần lớn dựa trên công trình riêng của Grant, cho thấy khủng long có một cuộc sống quần thể phức tạp, và biết nuôi con, mà loài bò sát không có.

 

Cuộc tranh luận máu nóng máu lạnh kéo dài trong mười lăm năm trước khi có sự thừa nhận khủng long là một loài thú cử động nhanh nhẹn, nhẹ nhàng, nhưng không phải là không có những tức khí kéo dài. Tại các hội nghị, nhiều đồng sự không thèm nói chuyện với nhau.

 

Nhưng giờ đây, nếu khủng long có thể tái sinh được – thì lĩnh vực khảo sát của Grant sắp thay đổi. Ngành cổ sinh vật học khảo cứu khủng long đã chấm dứt. Các phòng bảo tàng với những bộ xương khổng lồ cùng các đàn học sinh nhỏ om sòm chỉ trỏ, các phòng thí nghiệm với những khung xương, những bài khảo cứu, báo chí… tất cả sắp chấm dứt.

 

Malcolm:

 

– Hình như anh không bị bất ngờ?

 

Grant lắc đầu:

 

– Việc này đã từng được bàn đến. Nhiều người nghĩ là nó sẽ đến. Nhưng không quá sớm thế này.

 

Malcolm cười:

 

– Câu chuyện chủng loại của chúng ta. Mọi người biết nó sẽ đến, nhưng không quá sớm đến thế.

 

Khi đi xuống con đường mòn, họ không còn thấy mấy con khủng long nữa, nhưng vẫn nghe chúng đang hí lên nhẹ nhàng ở xa xa. Grant:

 

– Thắc mắc duy nhất của tôi là, họ lấy được DNA ở đâu.

Grant biết rõ suy nghĩ nghiêm túc của các phòng thí nghiệm ở Berkeley, ở Tokyo, và ở London, là rồi ra có thể tái sinh một con thú tiệt giống như con khủng long – nếu họ có thể lấy được một số DNA khủng long. Vấn đề là tất cả các khủng long đều hóa thạch, và sự hóa thạch hủy diệt phần lớn DNA, thay vào đấy bằng chất vô cơ. Dĩ nhiên, nếu một con khủng long đông lạnh, hay bị chôn vùi dưới một đồng lầy, hay được ướp xác trong một môi trường sa mạc, thì DNA của nó có thể lấy lại được. Nhưng không một ai tìm được một con khủng long ở một trong những tình trạng như thế. Vì vậy việc tái sinh là không thể thực hiện được. Không có cái gì để mà tái sinh. Tất cả kỹ thuật di truyền hiện đại đều vô dụng. Cũng giống như một tấm giấy nhận được bản sao màu nhưng không có cái gì để sao. Ellie nói:

 

– Ông không thể tái tạo được con khủng long thật, vì không thể có được DNA của khủng long.

 

– Trừ khi có một cách mà chúng ta chưa nghĩ tới.

 

– Cách gì? – Ellie hỏi.

 

Grant đáp:

 

– Tôi không biết.

 

Họ đến một bể bơi, nước bể chảy xuống một loạt các thác nước và hồ đá nhỏ hơn. Toàn vùng trồng những cây dương xỉ to lớn. Regis nói:

 

– Quý vị có thấy kỳ diệu không. Nhất là những ngày sương mù như hôm nay, rửng cây này thật sự tạo nên không khí tiền sử. Đây là những cây dương xỉ của kỷ Jurassic.

 

Ellie dừng lại nhìn đám dương xỉ kỹ hơn. Đúng như Regis nói, cây Serenna veriformans, một loại cây thấy rất nhiều ở các hóa thạch có tuổi hơn hai triệu năm, bây giờ còn nhiều ở các vùng đất ẩm Brazil và Columbia. Những kẻ trồng loại dương xỉ này cạnh các ao hồ rõ ràng không biết mầm cây veriformans chứa một chất độc chết người, chất aikaloid beta-carboline. Ngay cả sờ vào những cọng lá xanh tươi hấp dẫn cũng làm nhiễm độc được, và nếu một đứa trẻ ăn một nhúm lá, hầu như chắc chắn là nó sẽ chết – mức độc của cây này lớn hơn cây oleauder đến năm mươi lần.

Con người quá ngây thơ về cây cối, Ellie thầm nghĩ. Họ chỉ chọn cây theo bề ngoài, như chọn một bức tranh thích hợp để treo tường. Không bao giờ con người nghĩ rằng cây cối thực sự là những vật sống, chúng cũng vận động để hoàn thiện các chức năng sống của chúng như thở, tiêu hóa, bài tiết, tái tạo và phòng vệ.
Ellie biết rằng, với lịch sử quả đất, thực vật cũng đã cạnh tranh sinh tồn để phát triển, và trong một số trường hợp, tàn khốc vô cùng. Chất độc trong cây Serena veriformans là một ví dụ nhỏ về chất arsenal, một chất độc phức tạp mà cây cối đã “bào chế” để làm vũ khí bảo vệ. Còn các chất terpene mà cây tẩm vào đất để đánh bả đất đai, gây độc cho những cây cùng cạnh tranh sinh tồn. Chất alkaloid làm cho vỏ cây trở nên bất khả xâm phạm đối với côn trùng, với các loài thú ăn cây cỏ (và cả trẻ con nữa); chất pheromone cây dùng để thông tin hên lạc với nhau. Khi một cây thông douglass bị một đàn côn trùng có cánh tấn công, cây lập tức tổng hợp ra một chất hóa học “chống tiêu hóa”, – và các cây douglass ở các vùng khác rất xa trong khu rừng cũng đồng thời tiết ra chất ấy.

 

Những người tưởng rằng sự sống trên trái đất chỉ là những động vật chuyển động trong khung cảnh thực vật bất động đã hiểu lầm nghiêm trọng về những gì họ thấy. Khung cảnh thực vật ấy luôn biến động. Cây cỏ mọc lên, di chuyển, luồn lách, đấu tranh với nhau để chiếm lấy ánh nắng mặt trời; và chúng hoạt động liên tục cùng với muông thú, chống lại sự tấn công của thú vật bằng vỏ xù xì hoặc gai góc, đánh bả một số thú khác; hoặc cung cấp thức ăn cho một số động vật để chúng thuận lợi trong việc tái sản xuất, rải rắc phấn hoa và hạt mầm. Đấy là một quá trình phức tạp và năng động mà Ellie bao giờ cũng tìm thấy ở đấy niềm say mê.

 

Nhưng nếu trồng các cây dương xỉ có chất độc chết người này tại các bờ ao đầm thì quả là các tay thiết kế công viên chưa đủ cẩn thận cần phải có.

Regis tiếp tục giới thiệu:

 

– Không kỳ diệu sao, thưa quý vị? Nếu nhìn tới trước, quý vị sẽ thấy khu nhà nghỉ Safari của chúng tôi. Đấy là nơi nghỉ của tất cả quý vị khi lưu lại công viên kỷ Jura.

 

Ellie thấy một khu nhà thấp với một dãy mái kính hình chóp.

 

Gian phòng của Grant xây bằng đá màu beige, đồ đạc bày biện màu xanh, kiểu dáng có đường nét rửng rú. Các phòng chưa xây xong. Những khúc gỗ trong phòng vệ sinh, những mẩu dây điện trên nền nhà. Một ti vi đặt ở góc phòng với một tấm bìa trên máy:

Kênh 2: Vùng đồi nuôi hypsilophodont.

 

Kênh 3: Khu vực nuôi triceraptor.

 

Kênh 4: Khu đầm lầy nuôi sauropod.

 

Kênh 5: Khu vực loài ăn thịt.

 

Kênh 6: Khu phía nam nuôi stegosaurus.

 

Kênh 7: Thung lũng nuôi velociraptor.

 

Kênh 8: Đỉnh núi nuôi pterosaur.

Ông thấy các tên gọi có vẻ hấp dẫn. Grant bật máy nhưng chỉ thấy các bản thống kê. Ông tắt và đi vào phòng ngủ thảy chiếc vali nhỏ lên giường. Phía trên giường là một mái hình tháp bằng kính cho ánh sáng trời rọi xuống. Mái tạo cảm giác ở trang trại, như ngủ dưới bầu trời sao. Chỉ tiếc một điều là mái được bảo vệ bằng những thanh sắt to khiến các bóng đen của chúng nằm ngang dọc trên giường.

 

Grant dừng lại. Ông đã đọc qua và xem bản thiết kế khu nhà nghỉ, nhưng ông không nhớ đến những thanh sắt trên mái kính. Thực tế, các thanh sắt này thêm vào khiến cho mái có vẻ thô lỗ. Đấy là một khung với các thanh sắt xếp thành ô vuông hàn chắc với nhau nằm bên ngoài lớp kính. Hơi ngạc nhiên, Grant đi tử phònh ngủ qua phòng khách. Cửa sổ phòng ông nhìn ra bể bơi.

 

Ellie bước vào phòng, nhìn ông:

 

– Giáo sư nhớ là các cây thông đuôi chồn ấy độc lắm đấy. Nhưng ông có chú ý các phòng không?

 

– Họ đã thay đổi các bản thiết kế ban đầu.

 

– Vâng, tôi cũng nghĩ vậy. Các cửa kính đều có các khung sắt đặt bên ngoài cho kiên cố thêm. Các cửa lớn gài bằng những thanh sắt. Điều đó thật ra quá mức cần thiết. Và giáo sư có thấy hàng rào khi chúng ta vào không?

 

Grant gật đầu. Toàn bộ khu nhà nghỉ đều nằm trong một vòng rào với các song sắt dày mấy centimet. Hàng rào cố tạo vẻ thanh nhã, sơn đen trông cho có vẻ là một hàng rào sắt thường, nhưng không che giấu được độ dày của các thanh sắt và chiều cao đến ba mét rưỡi của nó.

 

– Tôi cho rằng hàng rào này cũng không có trong bản thiết kế. – Ellie nói tiếp – Trông như họ đang biến khu nhà nghỉ này thành một đồn lũy.

 

Grant nhìn đồng hồ tay:

 

– Thế nào chúng ta cũng phải hỏi lý do tại sao. Mười phút nữa thì chuyến tham quan bắt đầu.

 
KHI KHỦNG LONG NGỰ TRỊ QUẢ ĐẤT
Họ tụ tập trong nhà khách hai tầng, xây toàn bằng kính với các cột sắt có phủ lớp sơn chống rỉ, các đòn tay và khung nâng kiên cố. Grant thấy nhà được cấu trúc với kỹ thuật cao cấp. Một thính phòng nhỏ mà ngay lối vào đứng sừng sững một robot khủng long bạo chúa – con tysannosaurus rex – với dáng đe dọa. Bên trong có một khu trưng bày với tấm bảng: KHI KHỦNG LONG NGỰ TRỊ QUẢ ĐẤT. Xa hơn nữa là các khu trưng bày khác: KHỦNG LONG LÀ CON THÚ GÌ? và QUẢ ĐẤT Ở KỶ MESOZOIC. Nhưng những vật trưng bày chưa chuẩn bị xong, dây điện, dây cáp nằm ngổn ngang trong phòng. Gennaro leo lên sân khấu nói chuyện với Grant, Ellie và Malcolm. Giọng ông ta vang khắp phòng. Hammond ngồi phía sau, tay khoanh trước ngực. Gennaro nói:

 

– Chúng ta sắp đi một vòng xem các thứ. Tôi chắc rằng ông Hammond và cộng sự sẽ chỉ cho chúng ta mọi việc. Trước khi đi, tôi muốn nhắc lại là tại sao chúng ta đến đây, và những gì tôi cần quyết định trước khi chúng ta rời đảo. Về cơ bản, như quý vị đã nhận thấy, đây là một chỗ có các loại khủng long tái sinh theo kỹ thuật di truyền được nuôi giữ trong một khung cảnh như một công viên thiên nhiên, tạo thành một địa điểm thu hút du khách. Đảo chưa khai trương, nhưng sẽ mở cửa trong vòng một năm nữa. Và bây giờ câu hỏi của tôi là một câu đơn giản thôi. Đảo này có an toàn không? Có an toàn cho khách đến thăm, và có nuôi giữ khủng long một cách an toàn không?

 

Gennaro nói tiếp:

 

– Có hai sự việc làm chứng cứ mà chúng tôi cần xét đến. Trước hết là tiến sĩ Grant đã có nhận dạng được một con khủng long chưa từng biết đến trước đây ở Costa Rica. Con khủng long này chỉ là những phần còn lại của một cơ thể không toàn vẹn. Nó được phát hiện vào khoảng tháng bảy năm nay, sau khi được xem là nó đã cắn một bé gái người Mỹ. Tiến sĩ Grant sẽ kể với quý vị sau. Những chứng cứ ấy đang nằm ở một phòng thí nghiệm New York và chúng tôi đã yêu cầu gửi đến đây bằng máy bay để chúng ta có thể trực tiếp xem xét. Còn một chứng cứ thứ hai.

 

– Costa Rica, – Gennaro tiếp tục – có một hệ thống y tế công cộng tuyệt hảo, theo dõi mọi loại dữ kiện. Vào đầu tháng ba, có những báo cáo về các con kỳ nhông hoặc kỳ đà cắn trẻ con trong nôi – và tôi có thể thêm là, cắn cả người lớn đang ngủ. Những vụ kỳ nhông cắn này được báo cáo từ những ngôi làng ven biển xa xôi, từ Ismaloya đến Puntarenas. Sau tháng ba, các vụ cắn không còn được báo cáo nữa. Tuy nhiên tôi có một biểu đồ của sở y tế San José về tử vong của trẻ em tại các thị trấn nằm trên bờ biển phía tây.

 

Gennaro lấy ra một biểu đồ biểu diễn sự biến thiên tử vong của trẻ em từ tháng hai đến tháng bảy và giải thích:

 

– Xin quý vị chú ý vào hai đặc điểm của biểu đồ này. Thoạt tiên, tử suất của trẻ em thấp vào các tháng giêng và tháng hai, rồi lên cao vào tháng ba, thấp dần vào tháng tư. Nhưng từ tháng năm trở đi thì lên rất cao cho đến tháng bảy, là tháng mà bé gái Mỹ bị cắn. Sở y tế cảm thấy có điều gì đó ảnh hưởng đến số tử vong của trẻ, và điều đó không thấy nhắc đến trong các báo cáo. Đặc điểm thứ hai là đường biểu diễn đưa lên đến đỉnh cao nhất từng hai tuần một, như gợi lên một hiện tượng gì đó luân phiên hoạt động. Bây giờ, quý vị có thể…

 

Malcolm:

 

– Tôi sẽ giải thích điều ấy cho ông.

 

– Ông giải thích được? – Gennaro hỏi.

 

– Vâng. Trước hết, các con thú có thể đã thoát ra khỏi đảo.

 

Hammond ở đằng sau lên tiếng:

 

– Ồ chuyện này…

 

– Thứ đến, biểu đồ của sở y tế hầu như không liên quan gì đến các con thú đã trốn thoát được.

 

Grant hỏi:

 

– Làm sao ông biết dược?

 

– Quý vị sẽ nhận thấy rằng biểu đồ có điểm cao thấp xen kẽ. Đấy là tính chất của nhiều hệ thống phức tạp. Ví như nước nhỏ giọt ra tử vòi nước. Nếu quý vị chỉ mở vòi một tí thôi, quý vị sẽ thấy nước giọt từng giọt đều đặn. Nếu mở vòi thêm một chút nữa quý vị sẽ có những giọt nước lớn nhỏ xen kẽ nhau Đấy là do sự hỗn loạn của áp suất gây ra. Sự hỗn loạn gây ra sự xen kẽ. Và quý vị sẽ có một biểu đồ cao thấp xen kẽ như thế này đối với bất cứ loại bệnh mới phát nào.

 

Grant:

 

– Nhưng sao ông biết không phải do khủng long thoát khỏi đảo.

 

Malcolm:

 

– Vì đấy là tính chất của một biểu đồ không liên tục. Phải hàng trăm khủng long thoát khỏi đảo mới gây nên tình trạng như biểu đồ mới ghi nhận. Mà tôi không tin là có được hàng trăm khủng long trốn khỏi đảo. Vì thế, tôi kết luận là có một hiện tượng nào khác, như một bệnh cúm mới, đã gây nên sự biến thiên của biểu đồ

 

Gennaro:

 

– Nhưng ông cho rằng có khủng long thoát khỏi đảo.

 

– Vâng có thể như thế.

 

– Tại sao?

 

– Vì những gì quý vị đang cố thực hiện ở đây. Xem nào, đảo này là một cố gắng tái tạo lại môi trường thiên nhiên như trong quá khứ. Tạo nên một thế giới riêng cách biệt trong đó các sinh vật tiệt giống sinh sống tự do. Đúng vậy không?

 

– Đúng.

 

– Nhưng theo quan điểm của tôi, một việc như thế không thể thực hiện được. Toán học đã có bằng cứ rõ ràng đến nỗi không còn phải tính toán. Rõ ràng như khi tôi hỏi quý vị, với một tỷ đô la lợi tức liệu quý vị có trả thuế không. Quý vị không cần phải lôi máy tính bỏ túi ra tính toán. Quý vị biết ngay là phải trả thuế thôi. Và, tương tự, tôi biết một cách rất rõ là người ta không thể nào sao lại thiên nhiên theo cách này, hoặc hy vọng là tách biệt nó.

 

– Tại sao không? Chúng ta cũng đã có những sở thú…

 

– Sở thú không tái tạo lại thiên nhiên. – Malcolm giải thích – Chúng ta hãy nói rõ hơn điều này. Các sở thú lấy thiên nhiên sẵn có và chỉ hơi thay đổi để tạọ những nơi ở cho thú. Thậm chí những thay đổi nhỏ như thế cũng thất bại. Lũ thú trốn thoát đều đều. Nhưng công viên này không theo kiểu một sở thú. Nó đang cố gắng thực hiện một tham vọng xa hơn nhiều. Thực hiện một điều gì đó tương tự như một trạm không gian trên quả đất.

 

Gennaro lắc đầu:

 

– Tôi không hiểu.

 

– Vâng, rất đơn giản. Trừ không khí ra, mọi thứ dính líu trên đảo này đều bị cách ly. Thú vật nuôi giữ ở đây không bao giờ sống lẫn với hệ sinh thái lớn hơn. Chúng không bao giờ thoát khỏi đây.

 

Hamrnond khịt mũi:

 

– Và chúng chưa bao giờ thoát được.

 

Malcolm nói, rõ ràng:

 

– Một sự cách ly như thế là không thể tồn tại được. Chỉ vì không thể thực hiện được.

 

– Có thể thực hiện được. Rõ là ông không biết ông đang nói điều gì. Ông là một anh chàng ba hoa đấy. – Hammond nói, đứng dậy rời khỏi phòng.

 

Gennaro:

 

– Thưa quý vị, thưa quý vị…

 

Malcolm:

 

– Tôi rất tiếc nhưng vấn đề là vậy. Điều mà chúng ta gọi là “thiên nhiên” thật là một hệ thống rắc rối, tinh vi quá sức hiểu của chúng ta. Chúng ta tạo nên một hình ảnh đơn giản của tạo vật và làm sai cả những gì liên quan đến nó. Tôi không phải là một nhà môi trường học, nhưng chúng ta phải cố biết những gì chúng ta chưa biết. Chúng ta đã xây đập Aswam và tuyên bố là nó sẽ làm cho đất đai màu mỡ. Nhưng thật ra, nó đã tàn phá vùng châu thổ sông Nile, sản sinh thực vật ký sinh, tàn phá kinh tế Ai Cập. Chúng ta xây dựng…

 

Gennaro:

 

– Xin lỗi. Hình như tôi nghe thấy tiếng trực thăng. Đấy có thể là mẫu nghiệm cho tiến sĩ Grant. – ông ta ra khỏi phòng, mọi người đều ra theo.

 

Tại chân núi, Gennaro đang hét lớn hòng át tiếng trực thăng, các đường gân cổ trương to:

 

– Ông đã làm cái gì thế này? Ông đã mời ai hả?

 

Hammond:

 

– Hãy bình tĩnh đã nào.

 

Gennaro hét lớn:

 

– Ông mất trí rồi đấy à?

 

– Nào, để xem nào. – Hammond cố bình tĩnh – Tôi cho là chúng ta cần phải nói rõ vấn đề…

 

– Không, không. Ông phải nói rõ vấn đề chứ không có chúng ta nào cả. Đây đâu phải là một cuộc đi chơi với gia đình. Đây không phải là một đợt nghỉ cuối tuần…

 

– Đây là đảo của tôi. Và tôi có thể một ai mà tôi muốn mời.

 

– Đây là một cuộc điều tra nghiêm túc hòn đảo của ông vì các nhà đầu tư vào đây cho rằng đảo đang ở ngoài vòng pháp luật. Chúng tôi nghĩ rằng đây là một nơi rất nguy hiểm và…

 

– Anh sẽ chẳng dẹp công việc của tôi được, Gennaro.

 

– Tôi sẽ dẹp nếu tôi thấy cần phải dẹp.

 

– Đây là một nơi an toàn, cho dù cái tay toán học chết rấp kia nói gì đi nữa.

 

– Đảo không an toàn…

 

– Tôi sẽ chứng minh là rất an toàn.

 

– Và tôi muốn ông cho chúng nó trở lại ngay lập tức vào chiếc trực thăng kia.

 

– Không thể được, – Hammond chỉ về phía những đám mây – trực thăng đã bay xa rồi. – Và thực vậy, tiếng động cơ trực thăng không còn nghe thấy nữa.

 

– Đồ máy bay chết rấp. – Gennaro bực tức – Ông có thấy là ông đang liều lĩnh một cách không cần thiết không?

 

– Chuyện đó chúng ta bàn sau. Bây giờ tôi không muốn làm rối trí mấy đứa trẻ.

 

Grant quay lại, và thấy hai đứa bé đang đi xuống dốc đồi, dẫn đầu là Regis. Đấy là một bé trai mang kính trắng vào khoảng mười một tuổi, và một bé gái nhỏ hơn vài tuổi, có lẽ bảy hay tám tuổi mái tóc vàng hoe dưới mũ lưỡi trai thể thao, một cặp găng chơi bóng ném đeo lủng lẳng dưới vai. Hai đứa trẻ từ chỗ bãi đáp trực thăng đi từng bước một xuống đồi, rồi dừng lại cách Gennaro và Hammond một quãng.

 

– Ôi Chúa ơi – Gennaro nói nhỏ qua hơi thở.

 

– Nào, cứ bình tĩnh đi nào, – Hammond nói – cha mẹ chúng đang lo chuyện ly dị, và tôi muốn chúng vui cuối tuần ở đây.

 

Cô bé vẫy tay:

 

– Ê. Chào ông nội. Bọn cháu đến dây.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.