Công Viên Khủng Long Kỷ Jura

3. ĐIỀU KHIỂN



 

hi trở lại phòng điều khiển, Malcolm nói:

 

– Tôi có một câu hỏi nữa, tiến sĩ Wu à. Cho đến lúc này, tiến sĩ đã có được bao nhiêu loại khủng long rồi?

 

– Tôi không biết chắc chắn. Nhưng vào lúc này, tôi tin là đã có được mười lăm. Mười lăm chủng loại. Anh biết không, anh Regis?

 

Regis gật đầu:

 

– Đúng. Mười lăm.

 

Malcolm hỏi, vẻ ngạc nhiên:

 

– Ông không biết chắc chắn à?

 

Wu mỉm cười:

 

– Chúng tôi không đếm nữa, sau khi có được một tá đầu tiên. Và quý vị phải thấy rằng đôi khi chúng tôi tưởng là có được một con thú đúng như chúng tôi muốn có – Đúng như DNA mà chúng tôi rút được – Và con vật lớn lên, rồi một rủi ro gì đấy xảy ra. Và chúng tôi nhận thấy có điềụ gì đó sai sót. Một gen định chủng không hoạt động. Một hormone không phát sinh. Hoặc một vấn đề gì đó trong sự phát triển liên tục. Và thế là chúng tôi phải trở lại từ đầu với con thú đó. Đại loại như vậy. – ông ta mỉm cười – Có lúc chúng tôi tưởng đã có hơn hai mươi loại, nhưng bây giờ chỉ có mười lăm.

 

Malcolm:

 

– Và có phải là một con trong số mười lăm chủng loại đó là con – ông ta quay sang Grant – con gì nhỉ?

 

Grant:

 

– Con procompsognathus.

 

– Ông đã tạo ra một số procompsognathus? – Malcolm hỏi.

 

– Ồ, vâng – Wu trả lời ngay – Procompsognathus, hay con compys, là những con thú rất khác biệt. Và chúng tôi tạo một số rất lớn loài này.

 

– Tại sao thế?

 

– Vâng, chúng tôi muốn có một môi trường càng đúng với kỷ Jurassic chừng nào càng tốt chứng ấy. Và loài compys đúng là loại thú ăn xác súc vật chết ở kỷ Jurassic. Vì thế chúng tôi muốn có loài này để dọn sạch môi trường.

 

– Ông có ý nói để dọn dẹp các con thú chết?

 

– Vâng, nếu có thú chết. Nhưng với chỉ hai trăm ba mươi tám con thú lạ trong toàn thể số thú ở đây, chúng tôi không có nhiều xác thú chết. Đấy không phải là mục đích chính. Thật sự, chúng tôi cần lũ compys này để giải quyết toàn bộ các thứ chất thải khác.

 

– Thứ gì?

 

– Vâng, chúng tôi có một số thú ăn cỏ rất lớn. Đặc biệt chúng tôi đã không nuôi tạo những con sauropod lớn nhất, nhưng dù vậy vẫn có những con to quá ba mươi tấn sống đó đây trên đảo, và nhiều con khác từ năm tới mười tấn. Việc này đặt ra cho chúng tôi hai vấn đề lớn. Một là thức ăn cho chúng và dĩ nhiên là chúng tôi phải nhập thức ăn lên đảo hai tuần một lần. Không còn cách nào khác vì hòn đảo nhỏ thế này không thể bảo đảm thức ăn cho những con thú lớn như thế quanh năm. Và vấn đề thứ hai là phân. Tôi không biết quý vị đã từng thấy con voi “đi cầu” chưa, nhưng đúng là cả một khối phân. Một cục phân gần bằng một quả bóng đá. Hãy tưởng tượng cục phân của một con brontosaur, mười lần to hơn. Và bây giờ xin hãy tưởng tượng đống phân của một đàn súc vật như thế, mà chúng tôi có ở đây. Và các con thú lớn không phải là tiêu hóa hết thức ăn, vì thế chúng thải ra rất nhiều. Đã sáu mươi triệu năm trôi qua kể tử khi loài khủng long tiệt giống, rõ ràng là loại vi khuẩn chuyên việc tiêu hủy phân của chúng cũng tiệt giống luôn. Như thế, phân của lũ sauropod không phân hủy ngay được.

 

Malcolm:

 

– Đúng là một vấn đề.

 

Wu nói tiếp, không cười:

 

– Một vấn đề quá đi chứ. Chúng tôi đã mất bao nhiêu thời gian để giải quyết vấn đề này. Có thể quý vị đã biết là ở châu Phi có một loài bọ hung đặc biệt, chuyên ăn phân voi. Nhiều loại thú lớn khác cũng có những sinh vật nhỏ hơn “cộng tác” làm vệ sinh các thứ chúng thải ra. Ở đây loài compys hóa ra chuyên ăn phân của các con thú ăn cỏ rồi tiêu hóa thêm lần nữa. Và phân của compys sẽ tiêu hủy nhờ vi khuẩn. Vì thế, có nhiều compys, vấn đề đã được giải quyết.

 

– Ông đã tạo ra được bao nhiêu compys rồi?

 

– Tôi không nhớ được chính xác, nhưng chúng tôi nhắm đến con số năm mươi. Và chúng tôi đã đạt được, hay gần đạt được. Trong ba lứa ấp. Sáu tháng chúng tôi cho ấp một lứa. Cho đến khi có đủ.

 

Malcolm:

 

– Năm mươi con. Quá nhiều để có thể theo dõi được.

 

– Phòng điều khiển được thiết lập để làm việc ấy. Họ sẽ chỉ cho ông xem phòng làm việc.

 

– Tôi hiểu. Nhưng nếu một trong những con compys này thoát khỏi đảo…

 

– Chúng không thể thoát.

 

– Tôi biết thế, nhưng giả sử có một con thoát được…

 

Wu nhướn mày:

 

– Ông muốn nói con thú được tìm thấy trên bờ biển? Con vật đã cắn cô bé Mỹ?

 

– Vâng, ví dụ thế.

 

– Tôi chưa biết giải thích vụ đó như thế nào, nó là con gì. Nhưng tôi biết nó không thể là một trong những con thú của chúng tôi, vì hai lý do. Thứ nhất là ở quá trình kiểm soát: thú của chúng tôi được computer đếm vài phút một lần. Nếu thiếu đi một con, chúng tôi biết ngay.

 

– Còn lý do thứ hai?

 

– Đất liền cách đảo bằng hàng trăm dặm. Phải mất gần một ngày để đi tàu đến đấy. Và ra khỏi đảo, những con thú của chúng tôi sẽ chết trong vòng mười hai tiếng.

 

– Làm sao ông biết được?

 

– Chúng tôi biết chính xác những gì xẩy ra. – Wu trả lời và bắt đầu tỏ vẻ hơi khó chịu – Thử nghĩ xem, chúng tôi đâu có điên. Chúng tôi hiểu đây là loài thú tiền sử, là một phần của môi trường sinh thái đã biến mất. Chúng tôi không muốn chúng sống sót ngoài hoang dã. Vì thế chúng tôi đã làm cho chúng phải phụ thuộc vào chất lysine. Tôi cho vào một gen tạo nên một enzyme sai trong trao đổi protein. Do kết quả đó, con vật không thể tự tạo ra lysine có acid amino dược. Chúng phải dùng đến thức ăn có chất đó từ bên ngoài, do chúng tôi cung cấp, dưới dạng viên. Chúng sẽ lên cơn co giật trong vòng mười hai tiếng và chết luôn nếu thiếu các viên đó trừ khi chúng kiếm được một nguồn thức ăn giàu chất lysine exogen. Mấy con thú này được tạo nên bằng kỹ thuật di truyền khiến cho chúng không có khả năng sống sót ở thế giới tự nhiên thật sự. Chúng chỉ có thể sống ở đây, trong công viên này. Chúng thật sự không có chút tự do. Về bản chất chúng là những tù nhân của chúng tôi.

 

Ed Regis nói với mọi người:

 

– Đây là phòng điều khiển. Đến lúc này, quý vị đã biết là thú được tạo ra như thế nào, hẳn quý vị muốn xem phòng điều khiển công viên như thế nào, trước khi chúng ta đi ra ngoài kia…

 

Anh ta đứng lại. Qua cánh cửa kính dày, căn phòng tối mờ. Các màn hình điều khiển đều tắt, trừ cái đang hiện ra những con số và hình một chiếc tàu lớn. Regis nói, giọng lấy làm lạ:

 

– Chuyện gì thế này nhi? Ồ, quỷ thật, họ đang cập bến.

 

– Cập bến?

 

– Cứ hai tuần một lần, tàu cung cấp từ đất liền đến đảo. Một trong những điều mà đảo này không có là một cảng tốt, hay thậm chí một bến tốt. Thành thử hơi khó khăn một tí khi cho tàu vào bờ, khi biển động. Có thể vài phút nữa. – Anh ta gõ cửa nhưng mấy người ngồi trong phòng không chú ý đến – Tôi e là chúng ta phải chờ vậy.

 

Ellie quay sang Wu:

 

– Ông có nói là đôi khi ông tạo được một con thú trông có vẻ tốt nhưng khi lớn lên, nó lại tỏ ra không hoàn thiện.

 

– Vâng. Chúng tôi cho là không có cách nào ngăn ngừa được. Chúng tôi có thể nhân bản DNA nhưng để phát triển việc này phải mất nhiều thời gian, và chúng tôi cũng không biết được liệu mọi thứ có hoạt động tốt không trừ phi chúng tôi thấy con vật thật sự phát triển đúng hướng.

 

Grant:

 

– Làm sao ông biết được nó phát triển đúng hướng?

 

Wu mỉm cười:

 

– Chúng tôi đã suy nghĩ nhiều về chuyện ấy. Rồi cuối cùng tôi chỉ biết hy vọng là các nhà cổ sinh vật như ông sẽ so sánh các con thú của chúng tôi với các hóa thạch tìm được để xác định xem chúng có phát triển đúng như tổ tiên của chúng thời tiền sử không.

 

Ellie:

 

– Nhưng con thú chúng tôi mới thấy đó, con velociraptor – ông nói đấy là một con monggoliensis?

 

– Vâng, chúng tôi lấy được DNA của nó trong hổ phách mua từ Trung Quốc.

 

Grant:

 

– Thú vị thật. Tôi vừa đào được một con antirrhopus. Có con raptor trưởng thành nào ở đây không?

 

– Có. – Regis trả lời ngay không do dự – Tám con cái. Những con cái thật sự là những con săn mồi. Chúng săn mồi theo đàn.

 

– Chúng tôi sẽ thấy chúng trong chuyến đi xem?

 

– Không. – Wu trả lời đột nhiên có vẻ không thoải mái. Và có lúc yên lặng bối rối. Wu nhìn Regis.

 

Regis vui vẻ nói:

 

– Không thấy được ngoài công viên . Các con velociraptor chưa được chuẩn bị đủ điều kiện để cho vào công viên. Chúng tôi nuôi chúng trong chuồng riêng.

 

Grant hỏi:

 

– Tôi xem chúng trong chuồng được không?

 

– Ồ vâng, dĩ nhiên. Trong khi chờ đi – anh ta nhìn đồng hồ – có lẽ quý vị muốn tới chuồng xem qua chúng.

 

Grant:

 

– Tôi chắc chắn là muốn rồi.

 

Ellie:

 

– Tôi cũng rất muốn.

 

Tim cũng háo hức:

 

– Cháu cũng muốn đến xem.

 

Regis:

 

– Chỉ việc đi quanh ra đằng sau ngôi nhà này, qua khỏi cái chái chứa dụng cụ quý vị sẽ thấy chuồng. Nhưng xin đừng đến quá gần hàng rào. – anh ta hỏi cô bé – Cháu muốn đi xem không?

 

– Không, – Lex nhìn Regis – Chú muốn chơi bóng không? Ném vài quả với cháu?

 

– Ờ, rất muốn. Chú cháu ta xuống dưới kia chơi một lát trong khi chờ phòng điều khiển mở cửa.

 

Grant cùng với Ellie và Malcolm đi quanh ra sau tòa nhà chính. Cậu bé Tim lẽo đẽo theo sau. Grant vốn thích trẻ – không thể nào không thích bất cứ đứa trẻ nào nhiệt tình với khủng long – Grant vẫn thường ngắm lũ trẻ trong các nhà bảo tàng khi chúng há hốc mồm chăm chú nhìn vào những bộ xương khổng lồ cao quá đầu chúng.

 

Ông tự hỏi say mê của chúng biểu hiện điều gì. Cuối cùng ông khẳng định rằng trẻ con thích khủng long vì những sinh vật khổng lồ này là hiện thân của một sức mạnh không thể kiểm soát nổi của một thứ quyền lực khó xác định được. Thứ quyền lực này làm say mê và cũng làm sợ hãi, như cha mẹ chúng. Và trẻ con yêu thích khủng long, cũng như yêu thích cha mẹ chúng.

 

Grant cũng nghĩ rằng đấy là lý do tại sao ngay cả trẻ còn nhỏ cũng học thuộc tên các khủng long. Ông luôn luôn thấy ngạc nhiên khi một đứa bé ba tuổi la lớn lên “Stegosourus!” Nói lên cái tên phức tạp này là một cách biểu lộ sức mạnh của mình đối với khủng long, một cách thức điều khiển.

 

Grant hỏi Tim:

 

– Cháu biết gì về velociraptor?

 

– Đấy là một loài ăn thịt sống, săn bắt mồi theo đàn, giống như con deinonychus.

 

– Đúng lắm. Điều này suy đoán được là do vẻ bên ngoài của con thú, vốn có dáng nhanh nhẹn và mạnh mẽ, nhưng nhỏ con so với khủng long. Con raptor chỉ nặng từ bảy mươi kí đến một trăm năm mươi kí. Chúng ta đoán rằng chúng đi săn mồi thành đàn là vì chúng phải mang những con mồi lớn. Và đã có những hóa thạch trong đó tìm thấy chúng biết săn tập thể. Và, raptor là loài có bộ não lớn, dĩ nhiên chúng thông minh hơn phần lớn các khủng long khác.

 

Malcolm:

 

– Thông minh như thế nào?

 

– Tùy thuộc vào người anh hỏi. Do các nhà cổ sinh vật học vừa cùng đi đến một ý tưởng khủng long là loài máu nóng, rất nhiều người chúng tôi cho rằng một số khủng long có lẽ thông minh. Nhưng không ai biết chắc.

 

Họ bỏ lại khu nhà khách sau lưng, nghe tiếng rì rì của những máy phát điện, phảng phất mùi dầu máy. Họ đi ngang qua một khu trồng cọ dừa và thấy một cái lán rộng, thấp, xây bê tông, lợp tôn. Tiếng rì rì dường như xuất phát từ đấy. Họ nhìn vào lán. Ellie:

 

– Chắc là một máy phát điện.

 

Grant nhìn vào trong:

 

– Một máy lớn.

 

Nhà máy năng lượng có hai tầng, xây dưới mặt đất. Những tua-bin lớn với ống và dây chạy xuống, những bóng đèn tròn cháy sáng. Malcolm nhận xét:

 

– Không cần xài một nhà máy như thế này cho một khu nghỉ mát. Họ đang sản xuất điện cho cả một thành phố.

 

– Có lẽ cho các computer.

 

– Có lẽ thế!

 

Grant nghe tiếng kêu be be. Ông đến một chuồng nhốt dê. Đếm qua, ông ước chửng có năm mươi hoặc sáu mươi con. Ellie hỏi:

 

– Họ nuôi dê làm gì nhỉ?

 

– Thử đoán xem.

 

Malcolm:

 

– Có lẽ họ dùng làm thức ăn cho khủng long.

 

Nhóm người tiếp tục đi tới, theo một con đường mòn hơi bẩn ngang qua một khu trồng tre nhỏ dày đặc. Cuối khu trồng tre, họ đến bên một hàng rào gồm hai lớp lưới sắt cao ba mét rưỡi, với dây thép gai bên trên. Có tiếng ù ù của điện chạy theo hàng rào ngoài.

 

Bên trong hàng rào, Grant thấy nhiều nhóm cây đuôi chồn trồng dày đặc, cao trên một mét rưỡi. Ông nghe tiếng khịt khịt, một âm thanh phát ra từ mũi rồi tiếng bước chân bồm bộp lên mặt đất đến gần. Im lặng một lúc lâu. Cuối cùng, Tim lên tiếng, thì thầm:

 

– Cháu chẳng thấy gì cả.

 

– Suỵt.

 

Grant chờ. Nhiều giây trôi qua. Ruồi bay vù vù trong không khí. Ông vẫn không thấy gì.

 

Ellie khẽ đập vào vai ông và chỉ.

 

Giữa đám cây đuôi chồn, Grant thấy chiếc đầu của một con thú. Chiếc đầu bất động, một phần ẩn sau đám lá đuôi chồn, hai con mắt đen to lạnh lùng quan sát đám người.

 

Chiếc đầu dài chừng sáu tấc. Từ đầu mõm, một hàm răng chạy dài ngược về phía sau đến một mấu thịt lồi dùng như cái tai. Chiếc đầu nhắc ông hình ảnh một con thằn lằn không lổ, hay một con cá sấu. Đôi mắt không nhấp nháy và con thú không cử động. Da trông như da thuộc với hoa văn hình sỏi nhỏ, và cơ bản có cùng màu với con non họ đã thấy ở phòng ươm: vàng nâu với những vết hình sỏi đỏ đậm, như vằn của một con hổ.

 

Khi Grant quan sát, một chi trước của con vật đưa ra chầm chậm, rẽ đám lá đuôi chồn trước mặt nó. Chi trước, “tay” của con vật, có những bắp thịt mạnh mẽ. Bàn tay có ba ngón, đầu mỗi ngón là vuốt nhọn hoắt cong lại. Bàn tay nhẹ nhàng, chầm chậm đẩy đám lá đuôi chồn qua một bên.

 

Grant cảm thấy ớn lạnh và nghĩ: Nó đang rình bắt chúng ta.

 

Chẳng lấy gì làm lạ khi con người ghét loài bò sát. Vẻ bất động, lạnh lùng, bộ dạng, tất cả đều xấu. Đối chiếu với đám cá sấu hay những con bò sát khổng lồ khác, con vật này nhắc ta một sự sống khác, một thế giới khác, đã biến mất trên quả đất.

 

Cú tấn công thật bất ngờ, từ trái sang phải. Mấy con raptor vụt qua đoạn đường dài mười mét đến bên hàng rào với tốc độ kinh người. Grant có một ấn tượng mờ mờ về các thân hình đầy sức lực cao gần hai mét, những chiếc đuôi mạnh mẽ giữ thăng bằng, các chi với móng vuốt nhọn cong, những chiếc hàm mở rộng răng lởm chởm.

 

Mấy con thú gầm gừ khi xông tới, rồi nhảy cả thân hình lên không trung, đưa cao hai chi trước với mấy chiếc vuốt nhọn bén như dao găm. Rồi chúng chạm phải hàng rào trước mặt, làm bắn ra những tia lửa điện tung tóe.

 

Mấy con velociraptor nhào ngược trở lại, rít lên. Mấy người khách xem đều tiến tới trước, bị thu hút bởi cảnh tượng ấy. Vào đúng lúc này con thứ ba mới tấn công, nhảy tông vào hàng rào với độ cao ngang ngực. Tim khiếp đảm hét lên khi các đám lửa điện bắn tung tóe quanh cậu bé. Mấy con thú gừ gừ, thứ âm thanh của loài bò sát, và nhảy lui vào giữa đám cây đuôi chồn. Chúng đi khuất, để lại một mùi hăng hắc và mấy làn khói cay xè. Tim hoàn hồn:

 

– Ôi, đúng là lũ quỷ!

 

Ellie:

 

– Chúng nhanh ghê gớm thật.

 

Grant:

 

– Những con thú săn mồi tập thể. Phục kích phối hợp theo bản năng… Thật kỳ lạ.

 

Malcolm:

 

– Tôi chẳng thích gọi chúng là những con vật thông minh cực kỳ.

 

Phía bên kia hàng rào, họ lại nghe tiếng sịt sịt giữa đám cọ dừa. Mấy chiếc đầu chầm chậm thò ra khỏi đám lá. Grant đi đến.

 

Mấy con thú quan sát họ, trừng trừng, lạnh lùng.

 

Một người da đen mặc đồ bảo hộ chạy đến gần họ:

 

– Quý vị không việc gì chứ?

 

Grant:

 

– Chúng tôi ổn cả.

 

– Có báo động cho chúng tôi biết. – anh ta nhìn hàng rào, bị lõm vào và cháy đen – Chúng tấn công quý vị?

 

– Vâng, ba con.

 

Người da đen gật đầu:

 

– Chúng cứ luôn luôn làm thế, tông hàng rào, bị điện giật choáng. Hình như chúng không đếm xỉa gì đến chuyện đó.

 

Malcolm:

 

– Cũng chẳng thông minh lắm, phải không?

 

Người da đen dừng lại. Anh ta liếc nhìn nhà toán học trong ánh sáng buổi chiều:

 

– Hãy lấy làm mừng vì có chiếc hàng rào ấy, thưa ông.

 

Và anh ta bỏ đi.

 

Từ lúc bắt đầu cho tới lúc chấm dứt, toàn bộ cuộc tấn công không thể lâu hơn sáu giây. Grant vẫn đang cố sắp đặt lại ấn tượng ấy. Tốc độ thật kinh người, mấy con thú quá nhanh, ông khó mà thấy được chúng di động.

 

Khi đi lui, Malcolm nói:

 

– Lũ này nhanh nhẹn ghê gớm thật.

 

Grant:

 

– Đúng thế. Nhanh hơn bất cứ loài bò sát nào. Một con sấu trâu có thể di động nhanh, nhưng chỉ với khoảng cách ngắn, từ một mét rưỡi đến hai mét. Những con kỳ nhông lớn, như kỳ nhông rồng có tên là komodo dài một mét rưỡi ở Indonesia có thể chạy với tốc độ ba mươi dặm một giờ, nhanh đủ đuổi kịp một người. Và chúng giết người thưởng xuyên. Nhưng chúng tôi đoán lũ thú bên trong hàng rào có thể nhanh hơn gấp hai lần.

 

Malcolm:

 

– Tốc độ của một con mèo rừng chutat. Sáu mươi, bảy mươi dặm giờ.

 

– Chính xác.

 

– Dường như chúng phóng mình tới. Gần như chim.

 

– Đúng thế.

 

Trong thế giới đương thời, chỉ có loài thú có vú rất nhỏ như con cầy mongoose mới có tốc độ nhanh tương ứng. Phải là loại thú có vú nhỏ, và dĩ nhiên kể cả chim. Loài chim bắt rắn ở châu Phi, hay đà điểu đầu mào ở Úc. Thật sự, mấy con velociraptor mang đầy đủ chính xác cái ấn tượng đe dọa nhanh khiếp người mà Grant đã chứng kiến ở con đà điểu đầu mào, một loài cầm có móng vuốt sống ở New Guinea.

 

Malcolm:

 

– Vậy thì những con velociraptor này trông giống loài bò sát về da và bề ngoài, nhưng chúng di chuyển như chim, với tốc đô và sự thông minh của một con chim săn mồi thịt. Đúng các tính chất như thế không?

 

– Đúng Tôi có thể bảo là chúng pha trộn những nét ấy.

 

– Việc ấy có làm anh ngạc nhiên không?

 

Grant:

 

– Không hẳn vậy. Thật sự thì điều đó gần đúng với những gì các nhà sinh vật học tin vậy từ lâu.

 

Từ khi những bộ xương lớn được tìm thấy vào những thập niên 1820 và 1830, các nhà khoa học cảm thấy bắt buộc phải giải thích là các bộ xương xem như thuộc các chủng loại thú khổng lồ của thế giới đương đại. Là bởi vì người ta tin rằng không một loài thú nào có thể tiệt giống được, vì Chúa không cho phép một sinh vật nào mà Ngài sáng tạo ra chết mất giống được.

 

Cuối cùng thì mọi người thấy quan niệm như thế là nhầm lẫn, và mấy bộ xương thuộc về những con thú đã tiệt giống. Nhưng là những con thú nào?

 

Năm 1842, Richard Owen, nhà cơ thể học hàng đầu của Anh quốc vào những ngày ấy, gọi chúng là những con dinosauria, nghĩa là những con “thằn lằn kinh khủng”. Owen nhận ra rằng con dinosaur – khủng long – dường như có tính cách tổng hợp của thằn lằn, cá sấu, và chim. Đặc biệt hông khủng long giống chim, không giống thằn lằn. Và không như thằn lằn, nhiều khủng long dường như đứng thẳng. Owen tưởng tượng khủng long cử động nhanh nhẹn, là loài sinh vật lanh lợi, và quan điểm của ông được thừa nhận suốt bốn mươi năm sau đó.

 

Nhưng khi những bộ xương khổng lồ thật sự được phát hiện – con vật mà khi sống cân nặng một trăm tấn – các nhà khoa học bắt đầu hình dung khủng long là một con vật khổng lồ ngốc ngếch, chuyển động chậm chạp, mà số phận đã định trước như thế để rồi chết mất giống. Hình ảnh một con thú bò sát uể oải dần dần thay chỗ hình ảnh con chim chuyển động nhanh nhẹn. Trong những năm gần đây, các nhà khoa học như Alan Grant lại bắt đầu quay trở lại ý tưởng về những con khủng long hoạt động nhanh nhẹn. Các đồng sự của Grant xem ông như là người khởi xướng quan niệm về tập tính của khủng long. Nhưng bây giờ ông phải thừa nhận rằng quan điểm của ông quá thiếu thực tế của những con thú săn mồi to lớn nhanh nhẹn một cách khó tin này.

 

Malcolm hỏi Grant:

 

– Thật sự điều tôi đang để tâm suy nghĩ là thế này: Đây có thật là một con khủng long?

 

– Tôi cho là thế, vâng.

 

– Với tập tính săn mồi tập thể.

 

– Chúng tôi suy đoán thế. – Grant trả lời – Theo các ghi nhận về hóa thạch, những đàn velociraptor có khả năng mang đi các thú vật nặng một ngàn tấn, như con tenontosaurus có thể chạy nhanh như ngựa. Chúng phải hợp tác mới làm được việc ấy.

 

– Làm thế nào chúng hợp tác với nhau, mà không có ngôn ngữ?

 

– Ồ, ngôn ngữ không cần thiết trong hợp tác săn bắt. – Ellie góp chuyện – Vượn tinh tinh vẫn làm thế. Một bầy tinh tinh sẽ vây bắt được con khỉ và giết đi. Tất cả mọi thông tin đều bằng mắt.

 

– Mấy con khủng long hồi nãy đúng là tấn công chúng ta?

 

– Vâng.

 

– Chúng sẽ giết chúng ta và ăn thịt nếu chúng làm được?

 

– Tôi nghĩ vậy.

 

– Lý do khiến tôi hỏi là – Malcolm tiếp – tôi nghe nói các thú vật săn mồi thịt lớn như sư tử và cọp bẩm sinh không ăn thịt người. Có đúng thế không? Mấy con thú này hẳn phải biết được rằng con người rất dễ bắt giết. Chỉ sau đó chúng mới trở thành thú săn người.

 

Grant:

 

– Vâng, tôi tin đúng như thế.

 

– Vậy thì những con khủng long này không chỉ có cơ hội để có được kinh nghiệm như sư tử và cọp. Chúng xuất hiện trên quả đất lúc có loài người – hoặc loài thú có vú lớn. Có Chúa biết chúng nghĩ gì khi chúng thấy chúng ta. Vì thế tôi tự hỏi: chúng học biết được ở đâu đó theo con đường sinh trưởng, rằng con người dễ giết?

 

Cả nhóm im lặng bước đi.

 

Malcolm:

 

– Dù sao, tôi cũng rất muốn được xem phòng điều khiển ngay bây giờ.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.