Công Viên Khủng Long Kỷ Jura
Phần Sáu – 1. TRỞ VỀ
– Tại sao nó có vẻ khó thở vậy?
– Vì bác bắn nó với mũi tên có thuốc mê.
– Nó có sắp chết không?
– Bác hy vọng là không.
– Chúng ta đem nó về làm gì?
– Để chứng minh với mọi người ở trung tâm rằng lũ khủng long thật sự đang sinh sản.
– Làm sao bác biết chúng đang sinh sản?
– Vì con này rất non. Và vì nó là con đực.
– Con đực à? – Lex rọi đèn dọc theo con thú.
– Đúng thế. Bây giờ dọi đèn ra phía trước. – ông đưa cổ tay ra, xây đồng hồ về phía cô bé – Mấy giờ rồi?
– Để cháu xem . .. Mười giờ ba lăm.
– Ô kê.
– Có nghĩa là chúng ta còn mười lăm phút nữa để tiếp xúc với chiếc tàu. – Tim góp ý.
– Chúng ta sẽ về kịp. Bác đoán là chúng ta sẽ đến khu nhà khách hầu như ngay lúc này thôi. – Ông không chắc, nhưng ông cảm thấy con đường hầm đang hơi lên dốc, dẫn họ lên mặt đất, và…
– Ôi chao! – Tim la lớn
Họ lao ra nơi ánh sáng ban ngày với tốc độ choáng người. Có sương nhẹ đang bay là đà, che một phần tòa nhà ẩn hiện mờ mờ ngay trên đầu họ. Grant thấy ngay lập tức đấy là khu nhà khách. Họ đã lái xe về ngay trước garage.
– Ngon lành quá! – Lex la lớn – Chúng ta về đến nơi. Ngon lành quá!
Cô bé nhún người nhấp nhổm trên nệm khi Grant cho xe vào đỗ trong nhà xe. Dọc theo tường có những chuồng thú. Họ để con velociraptor vào một chuồng với một chút nước. Và họ bắt đầu lên cầu thang lối vào tầng trệt của khu nhà khách.
– Cháu sẽ có một miếng hamburger, và món cá chiên. Và sữa khuấy với chocolate. Không còn khủng long nữa! Là la la…
Họ đi vào tiền sảnh. Và họ mở cánh cửa.
Và lặng người.
Trong tiền sảnh khu nhà khách, các cánh cửa gương đều bị đập vỡ và một làn sương xám lạnh thổi qua căn phòng tiếp tân chính. Tấm biển ghi câu WHEN DINOSAURS RULED THE EARTH rời khỏi tường đu đưa trên đinh treo, kêu cút kít trong gió. Con robot khủng long khổng lồ bị lộn ngược nằm hai chân chĩa lên trời, với những ống, những dây nhợ trong ruột tung cả ra ngoài. Bên ngoài khu nhà, qua khung cửa gương, họ thấy những hàng cây cọ dừa, in hình trong sương.
Tim và Lex đứng tựa người vào chiếc bàn sắt của người bảo vệ. Grant cầm tay máy vô tuyến của người gác và thử hết các băng tần.
– Hello. Đây là Grant. Có ai ở đây đó không? Hello, đây là Grant.
Lex nhìn người bảo vệ nằm trên nền nhà. Cô bé chẳng thấy gì ngoài đôi chân và bàn chân.
– Hello, đây là Grant. Hello.
Lex đang chồm người tới trước, nhìn quanh mép bàn. Grant chụp tay cô bé:
– Này, đừng có làm thế.
– Ông ta chết rồi à? Thứ gì trên nền nhà vậy? Máu?
– Đúng. – Tim đáp.
– Tại sao nó không thật đỏ?
– Mày dốt quá rồi đấy.
– Em mà dốt à?
Radio kêu xè xè. Một giọng vang lên:
– Lạy Chúa tôi. Grant đấy à? Phải tiến sĩ Grant không? – Và rồi – Tiến sĩ Grant? Tiến sĩ Grant? – Đấy là giọng Ellie.
– Tôi đây.
– Cám ơn Chúa. Ông không hề gì chứ?
– Vâng, tôi chẳng hề gì.
– Thế còn hai đứa bé? Tiến sĩ có thấy chúng không?
– Hai đứa đang ở đây với tôi. Chúng đều bình yên.
– Ôi cám ơn Chúa.
Lex đang bò quanh mép bàn. Grant đập vào mắt cá cô bé:
– Trở lại đây.
Radio lại tích tích:
– Ông đang ở đâu vậy?
– Ở tiền sảnh. Ở tiền sảnh khu nhà chính.
Ông nghe tiếng Wu qua radio:
– Ôi lạy Chúa. Chúng đang ở đây.
– Tiến sĩ Grant, nghe đây. – Giọng Ellie – Mấy con raptor đều đã sổng chuồng. Chúng có thể mở được cửa. Chúng có thể đang ở trong cùng tòa nhà với ông.
– Ôi chà. Thế cô ở đâu đấy? – Grant hỏi.
– Chúng tôi đang ở trong khu nhà nghỉ.
– Và những người khác? Muldoon, mọi người?
– Chúng tôi thất lạc vài người. Nhưng những người khác có đủ trong nhà nghỉ này.
– Các điện thoại đều hoạt động chứ?
– Không. Toàn bộ hệ thống đều ngừng. Không bộ phận nào hoạt động cả.
– Làm thế nào để hệ thống hoạt động trở lại.
– Chúng tôi đang cố gắng.
– Chúng ta phải cho hệ thống hoạt động lại ngay. Nếu không, trong vòng nửa tiếng nữa, những con raptor sẽ đến được đất liền.
Ông giải thích về việc chiếc tàu. Muldoon xen vào:
– Tôi nghĩ là ông không hiểu, tiến sĩ Grant. Chúng tôi chẳng làm gì có được nửa tiếng.
– Thế là sao?
– Có mấy con raptor đang theo chúng tôi. Lúc này trên mái nhà có hai con.
– Vậy thì sao? Tòa nhà ấy quá kiên cố, làm sao chúng vào được.
Tiếng Muldoon dặng hắng:
– Giờ thì rõ ràng là chẳng kiên cố gì. Không ai nghĩ rằng mấy con thú ấy có thể leo lên mái nhà. – Tiếng radio tít tít – Mấy con raptor leo qua hàng rào rồi lên mái nhà. Vả lại, những chấn song trên mái nhà thường là có truyền điện, nhưng điện đã bị cắt. Chúng đang gặm dần các song sắt.
– Gặm những song sắt à? – ông cau mày cố tưởng tượng tình huống – Bao lâu thì chúng cắn đứt?
– Vâng. Sức mỗi cú cắn của chúng có áp lực đến sáu ngàn ký trên mỗi phân vuông. Chúng giống loài linh cẩu, chúng cắn đứt kim loại và… – Rađio mất truyền sóng trong chốc lát.
– Bao lâu thì chúng cắn đứt. – Grant hỏi lại.
Giọng Muldoon:
– Tôi đoán chỉ chừng mười lăm phút nữa là chúng cắn đứt hoàn toàn và sẽ chui qua mái kính lộ thiên vào nhà, và một khi chúng đã vào được… A, chờ một chút, tiến sĩ Grant.
Radio rẹt tắt.
Ở mái kính lộ thiên bên trên giường của Malcolm, mấy con raptor đã cắn đứt thanh sắt thứ nhất. Một con níu thanh sắt kéo mạnh. Nó giẫm chiếc chân sau đầy móng vuốt của nó lên mái kính, tấm kính vỡ tan, mảnh vụn rơi xuống giường Malcolm bên dưới. Ellie đưa tay nhặt những mảnh lớn vứt đi. Malcolm nhìn lên:
– Chúa ơi, chúng ghê gớm thật.
Bây giờ kính đã vỡ, họ có thể nghe tiếng khịt mũi và tiếng gầm gừ của mấy con raptor, tiếng kèn kẹt của răng chúng nghiến vào sắt. Có những chỗ bị thưa đi do chúng đã cắn đứt. Nước giải đầy bọt của chúng rơi vung vãi lên nệm giường, lên bàn ngủ.
– Ít nhất chúng cũng chưa vào được. – Ellie nói – Chưa vào được cho đến khi chúng cắn đứt thêm một thanh nữa.
Giọng Wu:
– Nếu tiến sĩ Grant bằng cách nào đó có thể vào được nhà bảo quản…
– Ôi lũ súc sinh. – Muldoon khập khiễng bước quanh phòng với một chân bị sưng ở mắt cá – Ông ấy không thể đến đấy kịp. Ông ấy không thể làm cho máy điện chạy kịp. Không kịp để ngăn việc này.
Malcolm ho lên:
– Đúng thế. – giọng ông như nghe như tiếng gió thoảng.
– Ông ấy nói gì vậy? – Muldoon hỏi.
– Đúng thế. – Malcolm lặp lại – Có thể…
– Có thể gì?
– Đánh lạc hướng… – ông nhăn mặt.
– Đánh lạc hướng thế nào?
– Đi đến… hàng rào…
– Vâng? Và làm gì?
Macolm nhăn mặt cười yếu ớt:
– Đưa tay… qua hàng rào.
– Ôi Chúa – Muldoon quay đi.
Wu nói:
– Chờ một tí. Ông ấy nói đúng đấy. Chí có hai con raptor ở đấy, có nghĩa là ít nhất cũng còn bốn con ngoài kia. Chúng ta có thể đi ra ngoài và cố đánh lạc hướng chúng tới đây.
– Và rồi thì sao?
– Và rồi Grant có thể thoát khỏi chúng để đến tòa nhà bảo quản và cho máy điện chạy.
– Và rồi đi trở lại phòng điều khiển để cho hệ thống hoạt động trở lại?
– Chính xác.
– Không còn thì giờ. Không còn thì giờ. – Muldoon lắc đầu.
– Nhưng nếu chúng ta có thể nhử hai con raptor trên kia xuống đây, thậm chí có thể làm chúng đi khỏi mái lộ thiên kia. Có thể thực hiện được đấy. Đáng thử lắm.
– Làm mồi? – Muldoon hỏi.
– Đúng.
– Ai sẽ làm mồi đây. Tôi không làm mồi được. Mắt cá tôi sưng.
– Tôi sẽ làm – Wu xung phong.
– Không. – Muldoon bảo – Anh là người duy nhất biết qua về computer. Anh cần hướng dẫn Grant khởi động hệ thống.
– Vậy tôi sẽ làm mồi. – Harding nói.
– Không, – Ellie nói – ông Malcolm cần ông. Tôi sẽ làm.
– Không được đâu. – Muldoon nói – Cô sẽ bị raptor vây, raptor trên mái nhà…
Nhưng Ellie đã cúi xuống buộc dây giày:
– Chỉ có điều là đừng nói với Grant. Ông ấy sẽ căng thẳng.
Khu tiền sảnh thật yên tĩnh. Vài làn sương lạnh trôi ngang qua họ. Máy vô tuyến đã im trong mấy phút. Tim hỏi:
– Tại sao họ không nói chuyện với chúng ta nữa?
– Cháu đói bụng. – Lex rên rỉ.
– Họ đang bàn kế hoạch.
Radio kêu tít tít:
– Tiến sĩ Grant, ông có đấy không? Henry Wu đang nói đây.
– Tôi nghe đây. – Grant đáp.
– Xin nghe đây. Ông có thấy phía sau cửa khu nhà khách nơi ông đang có mặt không?
Grant nhìn qua cửa kính cuối phòng ra những hàng cọ dừa và sương.
– Vâng, có thấy.
– Có môt con đường ngang qua đám cọ dừa đến khu nhà bảo quản. Đấy là nơi đặt các thiết bị điện và các máy phát điện. Tôi tin là hôm qua ông đã nhìn thấy căn nhà bảo quản?
– Vâng, – Grant trả lời, dẫu ông thoáng ngạc nhiên. Ông đã nhìn ngôi nhà bảo quản ấy chỉ mới hôm qua ư? Thế mà như đã mấy năm trôi qua rồi.
– Bây giờ, nghe tôi đây. Chúng tôi tin là có thể nhử tất cả mấy con raptor đến đây, cạnh tòa nhà nghỉ mát này, tuy là không chắc lắm. Vì thể hãy cẩn thận. Cho chúng tôi năm phút.
– Ôkê.
– Ông có thể để mấy đứa nhỏ tại phòng ăn, và chúng sẽ an toàn. Đem radio đi theo khi ông đi.
– Ôkê.
– Tắt máy trước khi đi để khỏi gây ồn khi ông ra ngoài. Và gọi tôi khi ông vào được lán bảo quản.
– Ô kê.
Grant tắt máy vô tuyến. Lex bò lui:
– Chúng cháu sẽ xuống nhà ăn hả?
– Ừ. – Họ bắt đầu đi xuyên qua đám sương trong tiền sảnh.
– Cháu muốn một miếng hamburger. – Lex nói.
– Bác nghĩ là không có điện để nướng bánh đâu.
– Thế thì kem vậy .
– Tim, cháu phải ở bên Lex và giúp em.
– Dạ.
– Bác phải đi một chốc.
– Cháu biết.
Họ đến lối vào nhà ăn. Khi mở cửa, họ thấy các bàn ăn vuông và ghế, các cửa quay bằng inox ở bên kia phòng. Gần đấy, một quầy thu tiền và một tủ kệ chứa đầy kẹo bánh.
– Ôkê, hai đứa, bác muốn hai đứa ở đây cho dù có chuyện gì. Được chứ?
– Để máy vô tuyến cho cháu.
– Không được. Bác cần máy. Cứ việc ở đây. Bác chỉ đi chừng năm phút. Ôkê chứ?
– Ô kê.
Grant đóng cửa. Nhà ăn tối lại. Lex đập tay anh:
– Bật đèn lên chứ.
– Điện đâu mà bật. – Nhưng cậu bé mang kính nhìn đêm lên.
– Anh thế là ngon. Còn em làm sao thấy đây?
– Cứ việc nắm tay anh. Chúng ta sẽ kiếm thức ăn. – Cậu dẫn em đi tới. Trong ánh sáng xanh lân tinh, cậu thấy bàn và ghế. Về phía phải là chiếc quầy thu tiền sáng lên màu lục và dãy kệ với kẹo cao su và các thứ kẹo bánh khác. Cậu bốc một nắm các thỏi kẹo. – Em đã bảo anh, em thích ăn kem, em không thích kẹo.
– Ăn tạm thứ này đã.
– Kem thôi, anh Tim.
– Được rồi, được rồi.
Tim nhét nắm kẹo vào túi và dẫn Lex đi sâu vào phòng ăn. Cô bé giật tay áo anh:
– Em không thấy đường.
– Cứ đi với anh, cầm tay anh.
– Thế anh đi chậm lại.
Phía bên kia các dãy bàn ghế là hai cánh cửa quay có những cửa sổ tròn trên cửa. Có lẽ cửa này dẫn tới nhà bếp. Cậu bé đẩy một cánh và giữ cho nó mở rộng.
Ellie bước ra bên ngoài cửa trước khu nhà nghỉ và cảm thấy sưong lạnh phả vào mặt và chân. Tim cô đánh thình thịch, cho dù cô biết là mình hoàn toàn an toàn sau hàng rào. Ngay trước mặt cô thấy những thanh sắt to trong sương mờ.
Nhưng cô không thấy gì nhiều bên kia hàng rào. Cách hàng rào hai mươi mét về phía ngoài phong cảnh có màu trắng đục. Và cô chẳng thấy con raptor nào cả. Thật sự, các khu vườn và rừng cây hầu như yên ắng một cách kỳ dị. Cô cố ý la lớn cho tiếng cô vọng đến lớp sương:
– Ê ê!
Muldoon tựa vào khung cửa. Ông nói:
– Tôi e rằng như thế chẳng ăn thua gì. Chúng ta phải làm ồn lên.
Ông khập khiễng bước ra, đem theo một khúc sắt lấy ở phòng chứa vật liệu xây dựng. Ông đánh khúc sắt vào các thanh hàng rào nghe như tiếng kẻng:
– Mời tất cả đến đây. Bữa ăn đã dọn sẵn rồi đấy.
– Buồn cười quá. – Ellie nói, và cô lo lắng nhìn về phía mái nhà. Cô không thấy con raptor nào cả.
– Chúng không hiểu tiếng Anh. – Muldoon cười – Nhưng tôi tưởng tượng là chúng nắm được ý tưởng tổng quát.
Ellie vẫn thấy căng thẳng, và thấy sự khôi hài của ông hơi khó chịu. Cô nhìn về phía khu nhà khách, bao phủ trong sương. Muldoon ngừng đánh vào hàng rào. Trong giới hạn tầm nhìn, hầu như lẫn trong sương, Ellie thấy một chiếc bóng xám ma quái. Một con raptor.
– Vị khách ăn đầu tiên. – Muldoon la lớn.
Con raptor biến mất, và rồi xuất hiện lại, nhưng nó không đến gần hơn, và dường như nó lấy làm tò mò về tiếng ồn đến từ khu nhà nghỉ. Ellie bắt đầu lo lắng. Trừ khi cô nhử được mấy con raptor đến khu nhà nghỉ, nếu không Grant sẽ gặp nguy hiểm. Ellie nói với Muldoon:
– Ông làm quá ồn.
– Ồn quái gì đâu.
– Đúng thế đấy.
– Tôi biết mấy con thú này mà.
– Ông hơi say rồi đấy. – Ellie bảo – Để tôi liệu.
– Cô sẽ làm sao với nó?
Ellie không trả lời. Cô đi đến cổng:
– Họ nói raptor rất thông minh?
– Đúng thế. Ít nhất cũng thông minh như loài vượn người.
– Và chúng rất thính?
– Vâng, thính giác chúng tuyệt hảo.
– Vậy có thể chúng hiểu được âm thanh này. – Ellie mở cổng. Các bản lề sắt, bị gỉ sét vì dầm sương, kêu kèn kẹt thật to. Cô đóng cửa lại, rồi lại mở ra với những tiếng kèn kẹt khác. Và cô để cửa mở. Muldoon bảo:
– Tôi sẽ không làm thế dâu. Nếu cô định làm thế để tôi vào lấy súng phóng.
– Lấy súng phóng đi.
Muldoon thở dài:
– Gennaro đã giữ hết đạn.
– Thế thì, hãy trông chừng ra ngoài cho. – và Ellie đi ra cửa, bước ra ngoài những chấn song sắt. Tim cô đập mạnh đến nỗi cô không nghe được tiếng bước chân mình trên đất. Cô di chuyển ra xa hàng rào. Và hàng rào nhanh chóng biến mất trong màn sương một cách đáng sợ. Chẳng mấy chốc nó biến mất hẳn sau lưng cô.
Đúng như cô chờ đợi, Muldoon bắt đầu kêu lớn lên với cô trong tâm thần kích động vì hơi rượu:
– Này đồ con gái hư, cô bé, đừng có điên thế. – ông ta gào lên.
Cô la lớn trở lại:
– Đừng có gọi tôi là cô bé.
– Tôi muốn gọi cô bằng thứ gì mặc tôi.
Ellie không nghe tiếng Muldoon. Cô đang quay người chầm chậm, quan sát khắp mọi phía. Lúc này cô cách hàng rào ít nhất cũng hai mươi mét, và cô có thể thấy sương bay như mưa nhẹ hạt qua đám tàn lá. Cô đứng xa tàn lá. Cô di chuyển qua một đám bóng râm xám. Bắp chân và vai cô đau nhức vì căng thẳng. Mắt cô căng to để nhìn.
– Có nghe tôi không, đồ quỷ? – Muldoon lại gào lên.
Mấy con thú này khôn tới mức nào? Ellie tự hỏi. Khôn đủ để cắt đường thoái lui của mình? Quãng đường lui lại hàng rào chẳng xa mấy, không hẳn…
Chúng tấn công.
Không nghe lấy một tiếng động.
Con thú đầu tiên tấn công một cách hung dữ từ đám tàn lá dưới gốc một cây cao ở phía trái. Nó nhảy vọt tới và Ellie bắt đầu chạy, và nó nhảy lên trên không, móng giương lên trong thế chụp. Ellie lao như một vận động viên chạy đường trường bứt nước rút khi về tới đích, và con thú chụp hụt nhào trên đất. Bây giờ cô đang chạy thục mạng, không dám nhìn lui, thở hổn hển muốn đứt hơi, nhìn thấy các chấn song của hàng rào ló ra từ đám sương mờ trước mắt, nhìn thấy Muldoon xô cánh cửa mở rộng ra, nhìn thấy ông với tay tới cô, la lên với cô, chụp lấy tay cô và kéo cô quá mạnh đến nỗi cô hẫng chân nhào lăn trên đất. Và cô ngoái lại để kịp nhìn thấy con thứ nhất, rồi con thứ hai, rồi con thứ ba, tông vàn hàng rào và gầm gừ.
– Được việc rồi đấy. – Muldoon la lớn. Lúc này ông đang chọc mấy con thú, và chúng gầm gừ lại, man rợ. Chúng ném mình vào hàng rào, nhảy lên và một con nhảy lên gần tới đầu hàng rào – Chúa ơi, mấy con súc sinh này có thể nhảy qua được đấy.
Ellie đứng dậy, nhìn mấy vết xước và mấy chỗ bầm tím, máu chảy theo chân. Tất cả điều cô nghĩ đến là: ba con thú đã ở đây. Và hai con trên mái. Có nghĩa là vẫn còn sót một con, đang ở đâu đấy.
Grant rời khu nhà khách, đi thật nhanh, lẫn vào đám sương mù. Ông tìm được con đường giữa đám cọ dừa và theo nó đi về phía bắc. Ở trước mặt, căn lán bảo quản vuông vắn hiện ra trong lớp sương mù.
Ông chẳng thấy cánh cửa nào cả. Ông tiếp tục di. Ra phía sau, Grant thấy một bệ đúc bê tông dành cho việc bốc hàng lên xe hơi nằm khuất sau mấy hàng cây. Ông leo lên và thấy mình đứng đối diện với một cánh cửa sắt có nếp gấp để mở theo chiều thẳng đứng. Cửa khóa. Xa hơn về phía trái, Grant thấy một cánh cửa thường. Cánh cửa được chèn mở bởi một chiếc giày.
Grant bước vào trong và nhấp nháy mắt trong bóng tối. Ông lắng tai nghe động tĩnh, không nghe thấy gì. Ông cầm radio lên và bật:
– Đây là Grant. Tôi đã vào trong lán.
Wu nhìn lên mái lộ thiên. Hai con raptor vẫn nhìn xuống phòng của Malcolm, nhưng dường như chúng phân tâm vì tiếng ồn bên ngoài. Anh đi đến bên cửa sổ của tòa nhà nghỉ. Bên ngoài, ba con velociraptor vẫn tiếp tục tấn công hàng rào. Ellie đang chạy lui chạy tới, an toàn bên trong hàng rào. Nhưng mấy con raptor dường như không còn chú tâm đến việc tìm cách chụp bắt cô nữa. Lúc này chúng dường như đùa giỡn. Từ hàng rào chúng chạy quanh, lui rồi tới và gầm gừ, rồi ngồi thấp người xuống, chạy vòng tròn lại và cuối cùng tấn công. Kiểu cách hoạt động của chúng dường như đang biểu lộ một tập tính nào đó, hơn là chuẩn bị một cuộc tấn công nghiêm túc. Muldoon nói:
– Giống như chim.
Wu gật đầu:
– Chúng rất thông minh. Chúng thấy là không thể chụp được cô gái. Chúng không cần cố gắng nữa.
Tiếng radio tít tít:
– …lán.
Wu chụp lấy vô tuyến:
– Nói lại đi tiến sĩ Alan Grant.
– Tôi đã vào trong lán.
– Tiến sĩ Alan Grant, ông hiện đang ở trong căn nhà bảo quản?
– Vâng, – Và ông thêm – cứ gọi tôi là Grant.
– Vâng, ông Grant. Nếu ông đang đứng trong cánh cửa phía đông, ông sẽ thấy nhiều ống dẫn và các khoanh ống. – Wu nhắm mắt, nhìn khu lán trong trí – Ngay trước mặt là một miệng cầu thang lớn nằm ở trung tâm lán dẫn xuống hai tầng dưới mặt đất. Bên trái ông là một lố đi men có lót sắt với lan can sắt.
– Tôi thấy rồi.
– Đi dọc theo lối đi men.
– Tôi sắp đi đây. – Radio truyền đi nhè nhẹ tiếng bước chân ông đi trên con đường lát kim loại.
– Sau khi ông đi được sáu hay bảy, tám mét, ông sẽ thấy một lối đi khác rẽ về phải.
– Rồi, tôi thấy rồi.
– Đi theo lối ấy.
– Ôkê.
– Khi ông tiếp tục đi – Giọng Wu hưởng dẫn tiếp – ông sẽ thấy một cầu thang về phía trái. Bước vào đầu cầu thang.
– Tôi thấy rồi.
– Đi xuống cầu thang.
Một lúc thật lâu. Wu đưa năm ngón tay vuốt mớ tóc ướt đẫm. Muldoon căng thẳng, nhăn mặt.
– Rồi. Tôi đã xuống cầu thang.
– Tốt. Bây giờ ngay trước mặt ông phải là hai thùng chứa nhiên liệu lớn màu vàng có sơn chữ “Flammable”.
– Chúng có chữ “Inflammable” và thêm chữ gì bên dưới. Bằng tiếng Tây Ban Nha.
– Phải rồi, tôi nhớ nhầm. Đấy là hai bình nhiên liệu cho máy phát điện. Một trong hai thùng đã dùng hết, vì thế chúng ta phải mở thùng kia. Nếu ông nhìn xuống đáy hai thùng, ông sẽ thấy ống dẫn màu trắng.
– Ống nhựa polivinyl cỡ một centimet?
– Phải, ống bằng nhựa polivinyl. Lần theo ống nhựa ấy.
– Ôkê. Tôi đang đi theo… ôi chao?
– Gì vậy?
– Không sao. Nó va vào đầu tôi.
Một lúc yên lặng. Rồi Wu:
– Ông không sao chứ?
– Ừ, ừ… không sao. Chỉ… u đầu. Ngu quá.
– Cứ theo ống dẫn.
– Ôkê, ôkê – Giọng Grant hơi chịu đau – Ôkê. Mấy ống dẫn dẫn đến một thùng nhôm lớn với những tấm giải nhiệt ở bốn phía. Có chữ “Honda”. Trông giống máy phát điện.
– Vâng. Đấy là máy phát điện. Nếu ông đi quanh một bên ông sẽ thấy tấm bảng có hai nút bấm.
– Tôi thấy rồi. Một vàng một xanh?
– Đúng đấy. Ấn nút vàng trước, cứ giữ thế và ấn tiếp nút xanh.
– Vâng.
Một lúc yên lặng khác. Kéo dài đến cả phút. Wu và Muldoon nhìn nhau.
– Grant? – Wu gọi.
– Nó không chạy.
– Ông bấm nút vàng trước rồi nút xanh sau chứ?
– Vâng. Tôi đã làm đúng như thế – Giọng ông hơi bực mình – Có tiếng ro ro, rồi những tiếng tách tách tách rất nhanh. và rồi tiếng ro ro dừng, và chẳng có gì sau đó.
– Làm lại lần nữa.
– Tôi đã làm rồi. Nó vẫn không chạy.
– Được rồi, thế thì chờ cho một chút. – Wu cau mày – Nghe như máy phát điện cố khởi động nhưng không chạy được vì lý do gì đó. Ông Grant?
– Tôi nghe.
– Đi quanh ra phía sau máy phát điện, nối chỗ đường ống dẫn vào.
– Ôkê. – Một lúc yên lặng; rồi Grant nói – Ống dẫn đi vào một ống kim loại tròn trông giống như một ống bơm.
– Đấy, đúng rồi đấy. Đấy là ống bơm nhiên liệu. Hãy tìm ống van có khóa phía trên.
– Ống van?
– Ống van hẳn phải nằm ở đầu ống bơm, với một khóa có thể xoay được.
– Tôi thấy rồi, nhưng nó nằm một bên, không nằm phía trên.
– Ôkê. Xoay mở nó ra.
– Thấy có bọt khí đang tuôn ra.
– Tốt….
– Bây giờ, chất lỏng đang tuôn ra. Ngửi như mùi xăng.
– Ôkê. Khóa van lại. – Wu quay sang Muldoon, lắc đầu – Bơm khô dầu. – anh nói vào máy – Grant?
– Đây.
– Thử bấm nút lại.
Wu nghe thoang thoáng tiếng ho và tiếng xình xịch khi máy điện bắt đầu chạy, và rồi tiếng nổ đều đều êm ro. Grant reo lên:
– Máy chạy rồi.
– Tốt quá, Grant! Tốt quá!
– Bây giờ làm gì đây? – Giọng ông nghe có vẻ rầu rầu – Đèn vẫn không thấy sáng lên ở đây.
– Trở lại phòng điều khiển, và tôi sẽ hướng dẫn ông cách cho hệ thống hoạt động trở lại bằng tay.
– Ấy là những việc tôi phải làm lúc này
– Vâng.
– Ôkê. Tôi sẽ gọi khi tôi đến đấy.
Có tiếng xì xì cuối cùng, và rồi yên lặng.
– Grant?
Máy vô tuyến tắt lịm.
Tim bước qua cánh cửa quay ở cuối phòng ăn và vào nhà bếp. Một chiếc bàn sắt inox thật lớn nằm chính giữa phòng, một lò lớn với rất nhiều rá và vỉ nướng ở phía trái. Các tủ lạnh lớn đứng thành một dãy. Tim bắt đầu mở các tue lạnh để tìm kem. Hơi lạnh bốc ra trong không khí ẩm ướt khi cậu bé mở cửa tủ lạnh. Lex buông tay anh:
– Làm sao mà các lò lại đang hoạt động.
– Chúng đâu có hoạt động?
– Lò nào cũng có ngọn lửa xanh cả.
– Đấy là đèn báo bật gas.
– Đèn báo bật gas là gì?
– Lò này không dùng điện, mà dùng khí đốt. Đèn báo thế cho biết đang sẵn sàng để dùng. Chỉ cần mở gas là lò hoạt động, Và như thế có nghĩa là chúng mình sẽ nướng được thứ gì đó.
Trong tủ lạnh kế, Tim tìm thấy đủ thứ sữa tươi trong hộp giấy, rau quả và cả thịt bít tết, cá – nhưng không có kem.
– Em vẫn còn thích kem à?
– Em đã bảo anh rồi mà, phải không?
Chiếc tủ lạnh kế đó thật khổng lồ. Một cửa bằng sắt không gỉ, tay nắm nằm ngang. Cậu bé giật tay nắm, mở cửa tủ và thấy một ngăn đông lớn. Giống như cả một căn phòng, và bốc hơi lạnh.
– Anh Tim…
– Mày chờ một tí được không? – Cậu bảo em, giọng bực mình – Tao vẫn tìm kem cho mày đây.
– Anh Tim… Có cái gì ở kia.
Cô bé đang thì thào, và hai tiếng cuối hầu như chẳng nghe gì cả Rồi Tim lùi khỏi ngăn đông, thấy mép cửa tủ lạnh bọc trong làn hơi lân quang chói sáng qua kính nhìn đêm. Lex đứng bên chiếc bàn làm bếp bằng sắt. Cô bé đang nhìn về phía cửa bếp.
Cậu nghe tiếng phì phì rất trầm, như của một con rắn rất lớn. Âm thanh phát ra rồi giảm xuống nghe rất nhỏ. Hầu như khó mà nghe thấy. Thậm chí đấy có thể là tiếng gió, nhưng cậu biết đấy không phải là tiếng gió.
– Anh Tim… – cô bé thì thầm – em sợ quá.
Cậu bò tới cửa bếp và nhìn ra ngoài.
Trong căn phòng tối om cậu chỉ thấy hình vuông của mặt bàn. Và di chuyển giữa đám hình vuông ấy, yên lặng như một bóng ma, trừ tiếng phì phì của hơi thở, là một con velociraptor.
Trong bóng tối của căn phòng bảo quản, Grant lần theo các đường ống, trở lại chỗ cầu thang. Ông thấy khó khăn khi tìm đường đi trong bóng tối, lại còn tiếng nổ của máy phát điện làm cho ông khó định hướng. Ông đến chân cầu thang, leo lên thì nghe một tiếng gì khác nữa ngoài tiếng máy ở trong phòng. Grant dừng lại, lắng nghe.
Đấy là tiếng một người đang la lớn. Nghe như tiếng la của Gennaro. Grant la to:
– Ông ở đâu?
– Ở đây. – Gennaro trả lời – Trong xe tải.
Grant không trông thấy chiếc xe tải nào. Ông nhấp nháy mắt trong bóng tối. Ông tìm quanh. Ông thấy mấy điểm xanh xanh chói sáng, di chuyển trong bóng tối. Và rồi ông thấy chiếc xe tải, và ông quay về phía ấy.
Tim thấy căn phòng yên lặng đến sởn gáy.
Con velociraptor cao gần hai mét, thân hình rắn chắc, đôi chân mạnh khỏe và chiếc đuôi khuất dưới những dãy bàn. Tim chỉ có thể thấy những bắp thịt của phần nửa thân trên, hai chi trước buông sát theo thân hình, mấy chiếc vuốt cong lại. Cậu có thể thấy những đốm ngũ sắc óng ánh trên lưng. Con velociraptor rất cảnh giác; khi tiến tới, nó nhìn hết bên này đến bên kia, chiếc đầu cử động, giật tới giật lui như loài chim.
Một con chim săn mồi yên lặng, khổng lồ.
Căn phòng ăn tối om, nhưng rõ ràng là con raptor thấy rất rõ đủ để di chuyển rất vững vàng tới trước. Thỉnh thoảng, nó cúi mình, đầu thấp xuống dưới mấy mặt bàn. Tim nghe tiếng khịt mũi nhanh hơn. Rồi chiếc đầu lại ló lên, cảnh giác, ngóc tới ngóc lui như đầu chim.
Tim nhìn theo cho đến khi cậu thấy chắc chắn là con velociraptor đang đi về phía bếp. Có phải nó đang theo mùi của chúng không? Tất cả các sách đều nói là khủng long có khứu giác rất tồi, nhưng con này dường như đang ngửi rất tốt. Dù sao, làm sao mà sách biết rõ được.
Đây mới là sự thật.
Nó đang tiến về phía cậu.
Câu bé rút lui vào căn bếp. Lex hỏi:
– Có gì ngoài ấy thế?
Tim không trả lời. Cậu đẩy em xuống dưới một chiếc bàn nằm sau một thùng rác lớn. Cậu gí mắt sát vào em và thì thầm với giọng ra lệnh quyết định:
– Ở đấy nghe chưa. – Và rồi cậu chạy tới chiếc tủ lạnh.
Cậu vốc ra một nắm những miếng bít tết lạnh và chạy vội lại phía cửa bếp. Cậu yên lặng đặt miếng thứ nhất xuống nền nhà, lui vài bước, và đặt miếng thứ hai. Qua kính đêm, cậu thấy Lex thò đầu ra một bên thùng rác. Cậu vẫy tay cho cô bé thụt vào. Cậu đặt miếng thứ ba, và miếng thứ tư lần lần sâu vào bếp.
Tiếng phì phì nghe to thêm, và rồi bàn tay đầy móng vuốt nắm lấy mép cửa, và chiếc đầu to lớn ló ra nhìn quanh thận trọng. Con velociraptor dừng lại ở lối vào bếp.
Tim đứng cúi khom người ở gần cuối phòng cạnh chiếc bàn làm bếp. Nhưng cậu không còn thì giờ giấu mình. Đầu và vai cậu vẫn nhô lên khỏi mặt bàn. Cậu ở trong tầm nhìn của con velociraptor.
Chầm chậm, Tim cúi người xuống dưới mặt bàn… Con velociraptor gật đầu tìm quanh, nhìn thẳng vào Tim.
Tim sợ cứng người. Cậu vẫn còn ở trong tầm nhìn, nhưng cậu nghĩ, mình đừng có động đậy.
Con velociraptor đứng bất động ở lối đi. Và khịt mũi.
Ở đây tối hơn, Tim nghĩ. Nó không thấy rõ. Và bóng tối làm nó thận trọng.
Lúc này cậu bé có thể ngửi thấy mùi tanh của con bò sát to lớn, và qua kính đêm, cậu thấy con velociraptor yên lặng ngáp, đưa chiếc mõm dài lên cao, bày ra hai hàm răng nhọn bén như dao cạo. Con velociraptor lại bắt đầu tiến tới, đầu gật gật nhìn bên này bên kia. Đôi mắt tròn vo láo liên trong hai hốc xương.
Tim cảm thấy tim mình đập mạnh. Thật tệ hại khi phảiđương đầu với một con vật như thế này trong nhà bếp, thay vì ngoài rừng trống.
Khi nhìn gần, nó là con thú gây kinh khiếp hơn cả con khủng long bạo chúa. Con khủng long bạo chúa tuy là một con thú khổng lồ sức lực ghê gớm nhưng không ranh ma. Con velociraptor chỉ bằng cỡ con người nhưng rõ ràng nó rất nhanh nhẹn và thông minh. Tim thấy sợ đôi mắt lục lọi cũng như sợ hàm răng nhọn của nó.
Con velociraptor khịt mũi. Nó bước thẳng tới chỗ Lex! Hẳn nó đã ngửi thấy mùi con bé! Tim Tim đập thình thịch.
Con velociraptor dừng lại. Nó cúi xuống từ từ.
Nó nhìn thấy miếng thịt.
Tim muốn khom người xuống, nhìn dưới mặt bàn, nhưng cậu không dám cử động. Cậu đứng cứng người trong tư thế khom lưng, lắng nghe tiếng nhai rào rào. Con khủng long đang ăn miếng thịt. Lẫn cả xương.
Con raptor ngẩng chiếc đầu mảnh mai lên, và nhìn xung quanh. Nó khịt mũi. Nó thấy miếng thịt thứ hai. Nó đi nhanh tới bên miếng thịt. Nó cúi xuống.
Yên lặng.
Con raptor không ăn.
Chiếc đầu ngẩng lên. Chân Tim tê rần vì đứng khom nhưng cậu vẫn không cử động.
Tại sao con thú không ăn miếng thịt thứ hai? Nhiều ý nghĩ thoáng qua trong óc cậu bé – nó không thích mùi vị miếng thịt, nó không thích thịt lạnh, nó không thích miếng thịt không phải của con mồi sống, nó ngửi thấy có một chiếc bẫy, nó ngửi thấy Lex và nó ngửi thấy Tim, nó thấy Tim…
Lúc này con velociraptor cử động rất nhanh. Nó tìm thấy miếng thịt thứ ba, cúi đầu xuống, ngẩng lên, lại tiếp tục đi tới.
Tim nín thở. Con khủng long lúc này chỉ cách cậu có vài bước. Tim có thể thấy những đường vằn sọc xen những chấm lốm đốm và những nếp gấp của da cổ dưới hàm.
Con velociraptor khịt mũi ngửi. Nó gật đầu và nhìn thẳng vào Tim.
Tim gần đứt thở vì sợ. Thân hình cậu cứng đơ, căng thẳng. Cậu nhìn nó trong khi đôi mắt tròn của loài bò sát lấc láo dò tìm quanh phòng. Mấy tiếng khịt mũi khác.
Nó ngửi thấy mình rồi, Tim nghĩ.
Rồi chiếc đầu giật lui nhìn tới và con vật đi tiếp, về phía miếng thịt thứ năm. Tim nghĩ thầm, Lex ơi em đừng cử động, xin đừng cử động, cho dù em có muốn gì thì cũng đừng…
Con veloclraptor khịt mũi ngửi miếng thịt, và đi tiếp. Lúc này nó đang đứng cạnh cửa của chiếc tủ lạnh lớn đang mở, trông vào ngăn đông. Tim có thể thấy hơi lạnh cuồn cuộn tuôn ra, là là trên nền nhà quấn quanh chân con thú. Một bàn chân to đầy móng nhấc lên, rồi đặt xưống, yên lặng. Con khủng long do dự. Quá lạnh, Tim nghĩ bụng. Nó sẽ không bước vào, tủ quá lạnh, nó sẽ không bước vào, nó sẽ không bước vào…
Con khủng long bước vào.
Chiếc đầu khuất mất, rồi thân hình, rồi chiếc đuôi cứng. Tim bật lên, bắn vụt người về phía cánh cửa sắt không gỉ đóng sầm nó lại. Cửa ập vào chóp đuôi con thú! Cửa sẽ không đóng kín được! Con velociraptor gầm lên, tiếng gầm nghe kinh khủng. Hơi khiếp đảm, cậu bước lui một bước – Chóp đuôi biến mất. Cậu ập mạnh cửa và nghe một tiếng tách! Cửa gài lại!
Cậu la lớn:
– Lex! Lex! – Cậu nghe con raptor đấm thình thình vào cánh cửa vừa được gài lại bằng một then sắt phẳng bên trong, và nếu con raptor đẩy mạnh, cửa sẽ mở được. Chúng phải khóa được cửa lại.
– Lex!
Lex đã đến bên anh:
– Anh muốn em làm gì.
Tim tựa ngửa người vào tay nắm nằm ngang, đè cửa đóng chặt, bảo em:
– Có một cây chốt nhỏ. Tìm cây chốt.
Con velociraptor rống như một con sư tử, tiếng rống bị nghẽn lại trong tủ sắt dày. Nó tông mạnh người vào cánh cửa. Lex la lớn:
– Em không thấy gì cả.
Cây chốt treo lủng lẳng dưới tay nắm cửa tủ, quay tròn quanh một sợi dây kim loại nhỏ xíu.
– Nó ở đây này! – Tim bảo em.
– Em không thấy. – Cô bé la lên, và rồi Tim nhận ra là cô em không có kính nhìn đêm.
– Vậy thì em mò mà tìm.
Cậu thấy bàn tay nhỏ nhắn của em đưa lên, chạm vào tay cậu lần tìm chiếc chốt khóa, và khi cô em đứng gần cậu, cậu mới biết em mình sợ hãi đến chừng nào. Hơi thở cô bé đứt đoạn trong cơn khiếp đảm khi cô mò tìm chiếc chốt, con velociraptor đập vào cửa, cửa tủ mở ra – Chúa ơi, nó mở cửa – nhưng con thú không nghĩ là cửa mở nên nó lại quay lui để đập cú khác. Tim lại ập cửa vào được. Lex lùi lại, tay Đưa lên trong bóng tối.
– Em lấy được rồi. – Lex la lên, nắm chặt chiếc chốt trong tay, và đẩy nó vào lỗ. Nó tuột ra.
– Đẩy phía trên xuống. Từ phía trên xuống.
Cô bé cầm lại chiếc chốt, nhấc lên cùng với sợi xích nhỏ, nhét vào lỗ bên trên tay nắm, xoay, và đẩy xuống. Vào gọn trong lỗ.
Cửa đã được gài chặt.
Con velociraptor rống lên. Tim và Lex bước lui khỏi cửa khi con khủng long lại đập vào cửa. Với mỗi cú đập, tấm cửa sắt và bản lề kêu cót két, nhưng cửa vẫn vững. Tim nghĩ là con khủng long không thể nào mở cửa được.
Con raptor đã bị khóa lại trong tủ lạnh. Cậu bé buông một tiếng thở dài:
– Đi thôi. – Cậu cầm tay em, và hai đứa chạy.
– Đáng lẽ ông đã thấy chúng. – Gennaro nói với Grant khi Grant dẫn ông ta trở lại sau tòa nhà bảo quản. – Chúng nó có đến hơn hai chục con compys. Tôi phải bò vào chiếc xe tải để tránh chúng. Chúng bám đầy vào cửa chắn gió trước. Cứ quàng quạc ở đấy, như những con ó. Nhưng chúng bỏ chạy khi ông đến.
– Loài ăn xác chết súc vật. – Grant giải thích – Chúng sẽ không tấn công cái gì chuyển động hay trông mạnh mẽ. Chúng chỉ chén các thứ đã chết hay gần chết. Nói cách khác, là những thứ không cử động.
Hai người đang leo lên cầu thang, trở lại lối vào. Grant hỏi:
– Thế còn con raptor tấn công ông thì sao?
– Tôi không rõ.
– Nó bỏ đi à?
– Tôi không thấy. Tôi bỏ chạy, tôi nghĩ là nó bị thương. Tôi chắc là Muldoon bắn nó ở chân và nó bị chảy máu khi vào đây. Rồi thì… tôi không rõ. Có thể nó bỏ ra ngoài. Có thể nó chết trong này. Tôi không thấy.
– Vậy có lẽ nó vẫn còn ở đâu đó trong này.
Wu nhìn ra mấy con raptor bên hàng rào qua cửa sổ khu nhà nghỉ. Chúng vẫn dường như còn đùa giỡn với Ellie. Chúng tiếp tục các cử chỉ này khá lâu, và anh thấy có thể là quá lâu. Dường như chúng có vẻ muốn cố giữ sự chú ý của Ellie, cũng như cách Ellie đã làm để thu hút sự chú ý của chúng.
Tập tính của các con khủng long vẫn luôn luôn là điều suy tư thứ hai của Wu. Đúng như thế thôi: Tập tính là hậu quả ở vị trí thứ hai của DNA, cũng như việc xếp lớp protein. Thật sự anh không thể đoán trước được tập tính, và thật sự anh cũng không thể điều khiển tập tính được, trừ khi dùng những cách thô bạo, tỉ như làm cho con thú phụ thuộc vào việc thay đổi chế độ ăn uống bằng cách rút bớt đi một enzym. Nhưng, đại để, các hậu quả thuộc tập tính ở ngoài tầm hiểu biết. Anh không thể nhìn vào một chuỗi DNA và đoán trước tập tính được. Đấy là điều bất khả.
Và điều đó làm cho công việc rút DNA của Wu chỉ đơn thuần dựa trên kinh nghiệm. Đấy là một công việc có vẻ chắp nối, theo cách của một người thợ hiện đại sửa chữa một ổ khóa thời cổ. Anh đang liên hệ với một thứ gì từ quá khứ, một thứ gì được cấu tạo với những chất liệu cổ đại và theo những quy tắc cổ đại. Anh không thể biết chắc tại sao nó hoat động như nó đã hoạt động; và nó được sửa chữa và bổ khuyết nhiều lần, bằng sức mạnh của tiến hóa, qua các niên đại. Vì thế, giống như người thợ đã thực hiện những điều chỉnh rồi xem thử liệu chiếc đồng hồ có chạy tốt hơn không, Wu cũng đã có những điều chỉnh rồi xem thử các con thú có có được những tập tính tốt hơn không. Anh chỉ cố sửa chữa những tập tính thô bạo: húc đầu vào hàng rào điện, cà cọ chỗ da trầy vào thân cây…
Và những giới hạn về hiểu biết khoa học của anh đã để lại nơi anh những cảm tưởng bí mật về các con khủng long trong công viên. Anh chưa bao giờ chắc, thật sự chưa bao giờ chắc chút nào cả, là tập tính của lũ thú có đúng như lịch sử của chúng hay không. Chúng có cư xử đúng như là chúng đã cư xử trong qua khứ? Đấy là một câu hỏi còn để ngỏ, hoàn toàn không thể trả lời được.
Và dẫu Wu sẽ không bao giờ thừa nhận việc đó, nhưng việc phát hiện ra lũ khủng long đang sinh sản cho thấy giá trị to lớn của công trình của anh. Một con thú sinh sản được, có hiệu quả chứng minh rõ ràng; nó hàm ý rằng Wu đã xếp đặt các xoắn với nhau một cách hoàn toàn đúng. Anh đã tái sinh lại được một con thú của triệu triệu năm về trước, với sự chính xác đến mức mà con thú đó thậm chí có thể tự sinh sản được.
Nhưng, vào lúc này, nhìn những con raptor ngoài hàng rào, anh thấy lo lắng bởi những cử chỉ kéo dài quá lâu của chúng. Lũ raptor rất thông minh, và những con thú thông minh thường nhanh chóng gây rắc rối. Những con thú thông minh cũng có thể sắp đặt được những kế hoạch, và…
Harding từ hành lang của phòng Malcolm bước vào:
– Ellie đâu rồi?
– Vẫn còn bên ngoài.
– Tốt hơn là bảo cô ấy vào, hai con raptor đã rời khỏi mái lộ thiên.
– Vào lúc nào? – Wu hỏi, đi về phía cửa.
– Cách đây một lúc rồi.
Wu xô cửa phòng trước:
– Cô Ellie! Hãy vào đây ngay! Vào ngay!
Ellie ngoái nhìn Wu, ngạc nhiên:
– Có vấn đề gì đâu. Mọi thứ đang kiểm soát được…
– Vào ngay!
Cô lắc đầu:
– Tôi biết tôi đang làm gì mà.
– Này, cô Ellie, có vào ngay không?
Muldoon không muốn Wu cứ đứng đó với cánh cửa mở ra, và ông định nói thế thì thấy một bóng đen từ trên lao xuống, và ông nhận ra được ngay tình huống đã xảy ra. Wu bị kéo hẫng chân ngã nhào ra cửa, và Muldoon nghe tiếng Ellie thét lên. Muldoon đến bên cửa nhìn ra và thấy Wu đang nằm ngửa, thân hình bị xẻ dọc bởi chiếc vuốt lớn, và con raptor đang giật đầu day đám ruột của Wu mặc dầu Wu vẫn còn sống, vẫn còn yếu ớt đưa tay lên cố đẩy chiếc đầu to lớn của con vật đi. Wu bị con vật ăn thịt khi anh vẫn còn sống. Ellie ngừng thét và bắt đầu chạy dọc theo bên trong hàng rào, Muldoon đóng ập cửa lại, choáng người vì kinh hoàng. Việc xảy ra quá nhanh.
Harding hỏi:
– Nó nhảy từ trên mái xuống à?
Muldoon gật đầu. Ông bước tới cửa sổ nhìn ra, và ông thấy ba con raptor bên ngoài hàng rào lúc này đang bỏ chạy. Nhưng chúng không chạy theo Ellie.
Chúng chạy lui, về phía trung tâm nhà khách
Grant đến mép cửa tòa nhà bảo quản và nhìn ra trước, trong đám sương. Ông có thể nghe tiếng mấy con raptor gầm gừ và tiếng gầm gừ dường như càng lúc càng đến gần. Lúc này, ông thấy những thân hình của chúng chạy ngang ông. Chúng đang đi về phía trung tâm nhà khách.
Ông nhìn lui Gennaro. Grant nghiêng đầu và thì thầm vào tai Gennaro:
– Không còn sự chọn lựa. Chúng ta phải cho computer hoạt động trở lại.
Grant ra khỏi lán bước vào đám sương.
Sau một phút, Gennaro bước theo.
Ellie không ngừng suy nghĩ. Khi thấy con raptor nhảy xuống trong hàng rào tấn công Wu, cô chỉ việc quay người chạy, càng nhanh càng tốt, về phía cuối tòa nhà nghỉ. Có một khoảng trống khoảng năm mét giữa tòa nhà và hàng rào. Cô chạy, không nghe thấy tiếng mấy con raptor đuổi theo, chỉ nghe tiếng thở của mình. Cô quẹo ở một góc, thấy một cây mọc bên cạnh tòa nhà, liền nhảy lên, bám vào một cành, đu người lên. Cô không cảm thấy kinh khủng. Cô cảm thấy một niềm hào hứng khi cô đá hai chân và thấy hai chân mình đưa cao lên trước mặt mình, cô móc hai chân vào một cành xa hơn, thót bụng kéo người lên thật nhanh.
Cô đã cách mặt đất ba mét rưỡi, mấy con raptor vẫn không theo cô, khi cô bắt đầu cảm thấy yên tâm thì cô thấy con thú đầu tiên ở gốc cây miệng dính đầy máu, những mẩu thịt còn dính nơi hàm. Cô tiếp tục leo cao lên thật nhanh, tay này sau tay kia, chỉ với và leo, cô gần như có thể thấy được nóc tòa nhà. Cô nhìn xuống.
Hai con raptor đang leo lên cây.
Lúc này cô đã cao ngang mức với mái nhà, có thể thấy mặt tường xây bằng đá cách cô chừng hơn một mét và những mái kính lộ thiên hình chóp vươn lên trong sương. Có một cửa trên mái, cô có thể chui qua đấy để vào nhà. Bằng một cố gắng hết sức mình, cô tung người vào khoảng không và đáp xuống bấu vào mặt đá. Cô bị trầy da mặt nhưng không hiểu sao, cảm giác của cô chỉ là hồ hởi, dường như cô đang thi đấu một môn thể thao, một môn thể thao mà cô quyết định thắng cuộc. Cô chạy đến cửa mái dẫn vào bệ cầu thang. Phía sau, cô có thể nghe tiếng mấy con raptor lắc rung mấy cành cây. Chúng vẫn còn trên cây.
Cô đến được bên cửa, và xoay tay nắm.
Cửa khóa.
Phải mất đến một lúc ý nghĩa của việc cửa khóa mới cắt ngang sự phấn chấn của cô. Cánh cửa khóa. Cô ở trên mái nhà và không thể leo xuống được. Cánh cửa khóa.
Cô đấm vào cửa trong cơn thất vọng, rồi cô chạy về phía cuối mái, hi vọng thấy một con đường đi xuống, nhưng chỉ thấy một hồ bơi với mặt nước màu lục mờ mờ trong làn sương bay dưới mặt đất. Xung quanh hồ bơi là mặt bến đúc bê tông. Từ ba đến ba mét rưỡi. Quá xa đối với cô, không thể nhảy qua được.
Không có cây để leo xuống. Không có cầu thang. Không có lối thoát dành cho khi xảy ra hỏa hoạn. Không có gì cả.
Ellie quay lại, và thấy mấy con raptor đang nhảy qua mái nhà một cách dễ dàng. Cô lại chạy đến cuối mái bên kia, hy vọng có một cửa khác ở đấy, nhưng không có.
Mấy con raptor chầm chậm tiến về phía cô, yên lặng len giữa những mái chóp bằng kính. Cô nhìn xuống. Mép hồ bơi cách xa chân tường hơn ba mét. Quá xa.
Mấy con raptor đến gần hơn, bắt đầu đi tách ra, và cô suy nghĩ, một cách không logic: Chẳng phải sự việc cứ luôn xảy ra như thế này đó sao. Một nhầm lẫn rất nhỏ nào đó xen vào làm đổ vỡ tất cả. Cô vẫn còn cảm thấy nóng mặt, vẫn còn cảm thấy muốn chiến thắng, và không hiểu sao cô không thể tin được rằng mấy con thú này sắp sửa tóm được cô, cô không thể tin được rằng vào lúc này cuộc đời cô sắp sửa chấm dứt bằng cách này. Dường như không thể như thế này được. Cô như được bao trùm trong một thứ niềm vui được che chở. Cô chỉ việc không tin là việc này có thể xảy ra.
Mấy con raptor gầm gừ. Ellie bước lùi, di chuyển về phía cuối của mái nhà. Cô lấy hơi, bắt đầu chạy nước rút về cuối mái đằng kia. Và khi cô chạy về phía cuối mái, cô thấy hồ bơi, và cô biết là hồ quá xa nhưng cô nghĩ: ăn thua gì, và nhảy vào khoảng không.
Và rơi xuống.
Và với một cú choáng tê người, cô cảm thấy mình bao bọc trong nước lạnh ngắt. Cô đã ở dưới nước. Cô đã làm được việc này! Cô trồi lên mặt nước nhìn lên mái nhà, và thấy mấy con raptor đang nhìn xuống cô. Và Ellie biết rằng nếu cô làm được thì mấy con raptor cũng làm được. Cô đạp nước bơi vào và nghĩ, mấy con raptor bơi được không? Nhưng cô chắc chắn là chúng bơi được. Có lẽ chúng bơi được như cá sấu.
Hai con raptor quay người khỏi mép mái nhà. Và rồi cô nghe Harding kêu: “Cô Ellie!” Và cô nhận ra là ông ta đã mở cửa trên mái nhà. Hai con raptor đang tiến về phía ông ta.
Harding đã leo hai bậc một chiếc cầu thang lên cửa mái nhà, và ông đã mở tung cánh cửa không suy nghĩ, “Cô Ellie!” ông ta kêu lớn. Và rồi ông dừng lại. Sương lẩn khuất giữa các mái lộ thiên hình kim tự tháp trên mái. Không thấy mấy con raptor đâu cả.
– Cô Ellie?
Ông ta mải lo Ellie đến nỗi phải một lúc mới nhận ra sai lầm của mình. Đáng lẽ mình phải thấy mấy con thú, ông thầm nghĩ. Tiếp theo ngay đó, chi trước con raptor với những móng nhọn đạp mạnh vào mép cửa, cào vào ngực ông một vết đau buốt, và ông dốc hết sức còn lại thụt người vào và đóng mạnh cửa vào cánh tay con vật, từ dưới cầu thang, ông nghe Muldoon kêu lên: “Cô ấy đây rồi. Cô ấy đã vào trong nhà rồi.”
Ở bên ngoài cánh cửa, con raptor gầm gừ và Harding đóng ập cửa lần nữa, và cánh tay con thú rút ra, ông đóng cửa, bật khóa đánh tách rồi ngã nằm xuống bệ cầu thang, ho lên.
– Chúng ta đang đi đâu đây? – Lex hỏi.
Hai đứa bé đang ở trên tầng thứ nhất của khu nhà khách. Một hành lang có lắp cửa kính chạy dài theo tòa nhà. Tim đáp:
– Tới phòng điều khiển.
– Phòng ấy ở đâu?
– Đâu đằng này. – Tim nhìn lên mấy tấm bảng ghi ở cửa khi chúng đi ngang. Những phòng này dường như là những phòng làm việc. Chúng đến một khu được chặn lại bằng kính.
Có một khe để nhét thẻ an toàn, nhưng Tim chỉ đẩy là cửa mở.
– Làm sao mà nó mở được?
– Không có điện. – Tim trả lời em.
– Ta vào phòng điều khiển làm gì?
– Tìm một máy vô tuyến. Chúng mình cần phải gọi một người nào đó.
Bên kia phần ngăn cách bằng kính, hành lang tiếp tục kéo dài. Tim nhớ ra khu vực này; cậu bé đã thấy trước đó, trong chuyến đi xem. Lex lết bết đi theo cạnh anh. Cả hai đứa nghe thấy tiếng gầm gừ của mấy con raptor ở xa xa. Mấy con tìh dường như đang tới gần. Rồi Tim nghe chúng đạp vào cửa gương dưới thang lầu.
– Chúng nó ở ngoài kia. – Lex nói nhỏ.
– Đừng có lo.
– Chúng làm gì ở đây nhỉ?
– Đừng thèm chú ý đến.
– Đây rồi. – Tim đẩy cửa. Phòng điều khiển chính y nguyên như cậu đã thấy trước đây. Chính giữa phòng Ià một bàn điều khiển với bốn ghế và bốn màn hình giám sát. Căn phòng hoàn toàn tối trừ mấy màn hình điều khiển và tất cả đều xuất hiện những mâm hình vuông màu sắc khác nhưng Lex hỏi:
– Radio đâu?
Nhưng Tim đã quên mất chuyện radio. Cậu bước tới trước, nhìn chăm chú vào các màn hình. Các màn hình có hình? Điều đó chỉ có thể là…
– Năng lượng đã có lại rồi…
– Eo ơi – Lex la, nhảy người lên.
– Gì vậy?
– Em đang đứng trên một cái tai của ai ấy.
Tim không thấy có cái xác nào khi cậu bước vào đây. Cậu nhìn lại và thấy một cái tai ở đấy, nằm trên nền nhà. Lex nói:
– Khiếp quá.
– Thôi, đừng để ý. – Tim nhìn trở lại màn hình.
– Mấy thứ khác của ông ta đâu rồi?
– Đừng để ý đến mấy thứ đó vào lúc này nữa.
Cậu nhìn sát một màn hình điều khiển. Trên màn hình là một menu gồm nhiều ô vuông, trong mỗi ô vuông là những lời hướng dẫn. Tất cả nằm dưới dòng chữ SYSTEM START UP. Lex bảo anh:
– Anh đừng có điên mà mất thì giờ với chúng anh Tim.
– Đừng có lo. Tao không mất thì giờ đâu.
Cậu đã từng thấy nhiều máy computer rất phức tạp trước đây, như những máy đặt trong các tòa nhà bố cậu làm việc. Những computer điều khiển mọi thứ, từ các thang máy cho đến các hệ thống sưởi ấm hay làm lạnh, về cơ bản, trông chúng cũng giống như cái này – một loạt các ô nhỏ có chữ nằm trong ô – nhưng chúng thường dễ hiểu hơn. Và dường như luôn luôn có những ô chữ phụ để giúp, nếu người ta cần hiểu thêm về hệ thống. Nhưng ở đây cậu không thấy những ô chữ phụ ấy. Cậu nhìn lại, cho thật chắc.
Nhưng rồi cậu thấy một điều gì khác: Những con số cứ chớp tắt trên góc trái của màn hình. Con số là 10: 47: 22. Rồi Tim nhận ra đấy là con số chỉ giờ. Chỉ còn có mười lăm phút nữa để ngăn chiếc tàu – nhưng cậu lo lắng cho những người trong khu nhà nghỉ nhiều hơn.
Có tiếng bíp bíp tĩnh điện. Cậu quay lại và thấy Lex đang cầm một máy vô tuyến. Cô em đang vặn những nút và mặt số. Cô hỏi:
– Làm sao cho nó kêu? Em không thể làm cho nó kêu được.
– Đưa máy cho anh.
– Của em mà! Em tìm được!
– Đưa cho tao, Lex.
– Em dùng nó trước mà!
– Lex!
Thình lình, máy vô tuyến kêu xè xè: “Có chuyện gì thế này?”. Đấy là giọng Muldoon.
Kinh ngạc, Lex thả chiếc máy xuống nền nhà.
Grant cúi đầu, bò giữa đám cây cọ dừa. Qua làn sương trước mặt ông có thể thấy mấy con raptor rít lên, gầm gừ và húc đầu vào mấy tấm kính cửa khu nhà khách. Nhưng, giữa những lúc gầm gừ, chúng yên lặng, đầu giật giật, dường như lắng nghe thứ gì ở xa xa. Rồi chúng rúc lên những âm thanh nho nhỏ. Gennaro hỏi:
– Chúng làm gì vậy?
– Dường như chúng tìm cách vào phòng ăn. – Grant đáp.
– Có gì trong phòng ăn không?
– Tôi để hai đứa nhỏ trong ấy.
– Chúng có đập vỡ gương để đi qua được không?
– Tôi chắc là chúng không làm được. Không.
Grant trông chừng, và bây giờ ông nghe thấy tiếng xè xè của một máy vô tuyến xa xa, và mấy con raptor bắt đầu nhảy nhót xao động hơn. Con này sau con kia, chúng bắt đầu nhảy lên càng lúc càng cao, cho đến cuối cùng ông thấy con thứ nhất nhảy nhẹ nhàng lên lan can tầng lầu thứ nhất, và từ đấy nó đi vào tầng thứ nhất của nhà khách.
Trong phòng điều khiển ở tầng thứ nhất, Tim chộp lấy máy vô tuyến Lex vừa mới đánh rơi. Cậu bấm nút:
– Hello? Hello?
– Cháu đấy à, Tim? – Đấy là giọng Muldoon.
– Dạ, cháu đây.
– Cháu đang ở đâu đấy?
– Trong phòng điều khiển. Điện có rồi!
– Tốt quá, Tim.
– Nếu có ai chỉ cho cháu cách làm cho computer hoạt động, cháu sẽ làm.
Một lúc yên lặng.
– Hello? – Tim gọi – Bác nghe cháu không?
– À,… ở đây mấy bác đang có chuyện. Không ai, à, có ai làm chuyện đó không? Biết cách khởi động hệ thống computer?
– Bác đang nói đùa đấy à? Không ai biết sao? – Tim thấy khó tin.
– Không. Bác chắc là ở chỗ nào đó ở hệ thống đường dây. Bật hệ thống đường dây chính lên… Cháu có biết gì về computer không Tim?
Tim nhìn lên màn hình chăm chăm. Lex thúc anh.
– Bảo với ông ấy là không đi, anh Tim.
– Biết… một ít. Cháu biết vài chuyện.
– Vậy cháu gắng thử xem. Ở đây không ai biết phải làm gì.
Tiến sĩ Grant cũng chẳng biết gì về computer.
– Ô kê. Cháu sẽ thử xem. – Tim tắt máy vô tuyến và nhìn vào màn hình, tìm hiểu.
– Anh chẳng biết làm gì đâu, anh Tim.
– Tao biết chứ.
– Nếu biết thử làm xem.
– Chờ một tí. – Như để bắt đầu, cậu kéo chiếc ghế gần tới bàn điều khiển và bấm mấy nút con. Đấy là những nút bấm làm cho con chạy di chuyển trên màn hình. Nhưng không có gì xảy ra. Rồi cậu bấm những nút khác. Màn hình vẫn không thay đổi.
– Sao? – Lex hỏi.
– Hình như có gì không ổn. – Tim cau mày.
– Đấy chỉ là vì anh không biết.
Cậu bé lại xem xét, nhìn các bộ phận computer kỹ càng hơn. Bàn phím có một dãy nút bấm phía trên, giống bàn phím một máy computer xách tay bình thường. Nhưng màn hình điều khiển thì to và có màu. Tim nhìn ở các mép màn hình và thấy những điểm sáng mờ mờ màu đỏ.
Đèn màu đỏ, cả bốn xung quanh mép màn hình. Điều này có thể là gì? Cậu đưa tay về phía đèn đỏ và thấy màu đỏ nhẹ chiếu lên da. Cậu sờ màn hình và nghe một tiếng bíp. Một chốc sau, một ô hướng dẫn nhỏ xuất hiện giữa màn hình trong khi cả menu các ô nhỏ nhấp nháy.
– Việc gì vậy? Anh đã làm gì thế? Anh đụng vào cái gì rồi thế?
Dĩ nhiên! Cậu bé nghĩ bụng. Cậu đã chạm vào màn hình. Đây là loại computer mà phần điều khiển nằm ở màn hình. Ánh đèn đỏ xung quanh hẳn phải là tia hồng ngoại cảm ứng. Tim chưa từng thấy một màn hình như thế, nhưng cậu đã đọc được về loại này trong các tạp chí. Cậu chạm vào.
Màn hình thay đổi ngay lập tức. Cậu nhận được lời báo: Đại ý muốn gì thì chỉ việc sờ vào các ô hướng dẫn ở màn hình điều khiển chính.
Qua máy vô tuyến, cậu nghe tiếng gầm gừ của mấy con raptor. Lex bảo anh:
– Em muốn xem quang cảnh. Anh bấm lệnh VIEW cho em xem.
– Không được, Lex.
– Anh Tim, em muốn VIEW. – Trước khi cậu bé có thể chụp tay em, Lex đã sờ vào ô lệnh VIEW. Màn hình thay đổi.
– Ô a…
– Lex, mày đứng có phá.
– Xem kìa! Máy chạy rồi đấy! Ha ha!
Xung quanh phòng, tất cả các màn hình giám sát đều xuất hiện các quang cảnh ở các vùng khác nhau của công viên. Phần lớn các hình ảnh đều nằm trong một màu xanh xám mờ mờ bởi vì sương mù bên ngoài, nhưng có một màn hình cho thấy quang cảnh bên ngoài của khu nhà nghỉ, với một con raptor trên mái, và một màn hình khác cho thấy hình ảnh một bầu trời trắng sáng rõ với đầu một con tàu, chói sáng dưới ánh mặt trời. Tim chồm người tới:
– Cái gì đấy?
– Cái gì?
– Hình gì ở màn hình kìa!
Nhưng hình ảnh đã thay đổi, và bây giờ chúng đang nhìn bên trong khu nhà nghỉ, phòng này sau phòng kia, và rồi cậu thấy Malcolm, nằm trên một chiếc giường. Lex nói, vẻ đã chán:
– Thôi, tốp đi. Em thấy đủ rồi.
Tim chạm màn hình nhiều chỗ và nhận được những thẻ lệnh và lại những thẻ lệnh khác. Lex bảo anh:
– Này, anh làm rối beng lên cả đấy.
– Câm mồm đi có đuợc không? Mày thì biết gì về computer?
Lúc này cậu có được danh sách các màn hình giám sát trong một submenu trên màn hình điều khiển. Cậu bấm khu nhà nghỉ và tàu hàng, và nhiều chỗ khác.
Các hình ảnh xuất hiện trên các màn hình giám sát quanh phòng. Một màn hình chỉ đầu tàu của chiếc tàu cung cấp, và đại dương ở phía trước. Ở phía xa xa Tim thấy đất liền – các tòa nhà xây dọc theo bờ biển, và một cảng. Cậu nhận ra được hải cảng vì cậu đã bay trên cảng này trong trực thăng một ngày trước đây. Đấy là Puntaneras. Chiếc tàu dường như chỉ còn mấy phút nữa thì vào cảng.
Nhưng Tim tập trung nhiều chú ý vào màn hình có quang cảnh khu nhà nghỉ, trong sương xám. Mấy con raptor hầu như khuất sau các mái chóp, nhưng đầu chúng nhấp nhô, có thể nhìn thấy được.
Và trên một màn hình thứ ba, cậu có thể thấy bên trong một căn phòng. Malcolm đang nằm trên giường, và Ellie đứng gần ông ta. Cả hai đang nhìn lên trần nhà. Khi họ đang nhìn, Muldoon đi vào và cũng nhìn lên. Cả ba đều biểu lộ vẻ quan tâm.
– Họ thấy chúng ta. – Lex nói.
– Không thấy đâu.
Radio kêu xè xè. Trên màn hình, Muldoon đưa vô tuyến lên miệng:
– Hello, có Tim đấy không?
– Cháu đây.
– À… Các bác ở đây chẳng còn được mấy thì giờ. – giọng Muldoon buồn bã – Làm sao mà đóng mạch mạng lưới truyền điện được thì tốt. – Và Tim nghe tiếng raptor gầm gừ, thấy một chiếc đầu dài trên mái nhà thò xuống, đôi hàm mở rộng, táp táp.
– Mau lên, anh Tim. – Lex la lên – Bật điện lên.
Tim bỗng thấy mình rối beng giữa cả đám màn hình điều khiển và giám sát, khi cậu cố có lại màn hình điều khiển chính. Phần lớn các hệ thống computer đều chỉ có một nút đơn giản để trở về lại màn hình trước, hay về menu chính. Nhưng hệ thống này không có – hay là cậu không biết nút ấy. Và cậu cũng biết chắc rằng những chỉ dẫn giúp cho phần điều khiển đều có ghi sẵn trong máy, nhưng cậu cũng không tìm ra được. Lex thì đang nhảy lên nhảy xuống bên cậu và hét vào tai cậu, làm cậu rối trí.
Cuối cùng Tim cũng làm xuất hiện được menu chính. Cậu không biết chắc chắn mình đã làm những gì, nhưng đã có được. Cậu ngừng lại, tìm một lệnh.
– Làm cái gì đi, anh Tim?
– Mày câm mồm cho tao nhờ! Tao đang cố tìm đây. – cậu bấm thử TEMPLATE-MAIN. Màn hình xuất hiện một biểu đồ phức tạp.
– Không được rồi, không được rồi.
Cậu bấm: Màn hình xuất hiện một khung ô lệnh.
– Tại sao anh không bật điện lên, anh Tim?
Tim giả lơ cô em. Có một ô lệnh ghi may ra được việc gì với lệnh này. Cậu bấm INFO. Màn hình chỉ xuất xứ người thực hiện chương trình với tên Dennis Nedry.
– Anh Tiiiim?… – Lex lại hét lên, nhưng cậu đã bấm FIND. Cậu chỉ được một menu vô ích. Cậu bấm GOBACK, màn hình trở lại khung ô lệnh.
Qua vô tuyến, cậu nghe giọng Muldoon:
– Ra sao rồi, Tim?
Tim không để ý đến chuyện trả lời. Cậu điên cuồng sờ hết ô này đến ô khác.
Thình lình, không báo trước, menu điều khiển chính trở lại. Cậu xem xét các ô lệnh. Cậu bấm SETGRIDS và rên rỉ khi nghe thấy một loạt ô lệnh tung tung xuất hiện. Cậu tìm thấy một ô có vẻ có liên quan và bấm.
Tim lắc đầu trong nỗi thất vọng. Phải mất một lúc cậu mới nhận ra là mình đã có được những thông tin quý giá. Bây giờ cậu đã biết các mã số về mạng lưới điện của các khu, các bộ phận. Cậu bấm F4-D4, chỉ mạng điện khu nhà nghỉ. Dòng chữ xuất hiện trên màn hình:
– Lệnh không thực hiện được. Nhầm
Lex nói với anh:
– Không xong rồi, chẳng có gì cả.
– Tao biết rồi. – Tim bấm D5-G4. Màn hình nháy lên.
Tim giữ bình tĩnh, cố suy nghĩ. Vì một lý do nào đó, cứ mỗi khi cậu bấm một mạng lưới điện là computer lại cho biết có nhầm lẫn, năng lượng không thích hợp với lệnh. Thế là thế nào? Tại sao năng lượng lại không thích hợp.
Lex bỗng giật tay anh:
– Anh Tim…
– Chưa đâu, Lex.
– Đi ngay mà. – Lex bảo anh, và kéo cậu rời khỏi màn hình và bàn điều khiển. Hai đứa nghe tiếng gầm gừ của mấy con raptor.
Tiếng gầm gừ xuất phát từ ngoài hành lang.
Trên mái kính lộ thiên bên trên giường Malcolm, mấy con raptor hầu như đã cắn đứt thanh sắt thứ hai. Lúc này chúng đã có thể thò đầu xuống qua chỗ gương và gầm gừ dọa nạt mấy người bên dưới. Sau một lát, chúng lại thụt đầu lui, bắt đầu gặm mấy thanh sắt trở lại. Malcolm nhìn lên:
– Chẳng còn mấy chốc nữa, ba hay bốn phút nữa thôi. – ông bấm nút máy vô tuyến – Tim, có cháu đấy không?
Không có tiếng trả lời.
Tim ló người ra khỏi cửa và thấy con velociraptor phía cuối hành lang đứng bên cạnh bao lơn. Cậu nhìn nó kinh ngạc. Làm sao mà nó thoát ra khỏi tủ lạnh được?
Rồi, khi cậu nhìn, một con raptor khác thình lình xuất hiện trên bao lơn và cậu hiểu. Con raptor này không phải từ tủ lạnh thoát ra. Nó ở chỗ khác đến. Nó đã từ dưới đất nhảy lên. Con thứ hai đáp xuống một cách yên lặng, hoàn toàn thăng bằng lên lan can. Tim không thể tin được. Con thú to lớn đã nhảy lên cao đến ba mét. Còn cao hơn ba mét. Chân của chúng phải khỏe không thể tưởng tượng được. Lex thì thầm bên tai anh:
– Thế mà em tưởng anh nói chúng không thể…
– Suỵt. – Tim đang cố suy nghĩ. Nhưng cậu nhìn với một tâm trạng kinh sợ mà thú vị khi một con thứ ba nhảy vào bao lơn. Mấy con thú vơ vẩn ở đấy một tí, và rồi bắt đầu đi dọc theo hành lang thành hàng một. Chúng tiến về phía Tim và Lex.
Yên lặng, Tim đẩy lùi cánh cửa sau lưng để trở lại phòng điều khiển. Nhưng cánh cửa kẹt cứng. Cậu ẩy mạnh hơn. Lex thì thào:
– Chúng ta bị khóa lại ở bên ngoài rồi. – Cô bé chỉ vào khe nhét thẻ an toàn một bên cửa. Một ánh đèn đỏ đang sáng lên. Bằng cách nào đó hệ thống khóa an toàn của cửa lại hoạt động trở lại. – Xem kìa. Anh ngốc quá! Anh khóa chúng ta ở ngoài.
Tim nhìn dọc theo hành lang. Cậu thấy mấy cửa khác, nhưng mỗi cửa đều có một ánh đèn đỏ nháy sáng một bên cửa. Có nghĩa là tất cả các cửa đều khóa chặt. Chúng không còn phòng nào để vào được nữa.
Rồi cậu thấy một đống gì lù lù nằm ở cuối hành lang. Đấy là xác chết của người bảo vệ. Một chiếc thẻ an toàn màu trắng gài nơi thắt lưng.
– Nào, đi. – cậu thì thầm và kéo tay em chạy tới xác người gác
Tim lấy chiếc thẻ và quay lui. Nhưng dĩ nhiên mấy con raptor đã thấy chúng. Mấy con thú gần như đã đứng chắn đường trở lại phòng điều khiển. Chúng bắt đầu dàn rộng ra theo hình rẻ quạt trong hành lang để bao vây Tim và Lex. Mấy chiếc đầu bắt đầu giật giật nhịp nhàng.
Chúng sắp sửa tấn công.
Tim chỉ làm điều duy nhất có thể làm được. Cậu dùng thẻ mở chiếc cửa phòng gần cậu nhất và đẩy Lex vào. Khi chiếc cửa bắt đầu từ từ đóng lại sau lưng chúng, mấy con raptor rít lên và tấn công.
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.