Alice hồi hộp đợi chờ. Hai bóng đen xích lại gần nhau. Cái bóng băng ngang bồn cỏ bước đi mau chân hơn. Bỗng nhiên, giọng nói của cái bóng kia cất lên, dội vang trong không khí như một phát súng lục.
– Alice, cháu đâu rồi?
Cụ March!
Tiếng gọi không đúng lúc của cụ già – đã hóa thành tiếng còi báo động cho kẻ lạ mặt, khiến gã lập tức quay gót trở lui và ba chân bốn cẳng bỏ chạy như bị ma đuổi.
Alice ra khỏi chỗ núp. Lớn tiếng gọi các bạn rồi lao vút theo tên kẻ trộm.
Bess và Marion không đợi gọi lần thứ hai, đã sớm bắt kịp Alice. Tiếc thay! Các vụ lùng sục đều không đem lại kết quả nào. Bóng đêm đã nuốt chửng kẻ gian phi. Thất vọng, ba cô gái lầm lũi đi về ngôi biệt thự cổ. Alice giải thích, cho bè bạn những gì đã xảy ra. Marion lớn tiếng phát biểu:
– Xui xẻo đến thế là cùng! Không những chúng ta đã không nắm đầu được tên trộm, mà giờ đây nó còn biết rõ là chúng ta rình chờ nó nữa mới chết chứ. Cái ông già lẩm cẩm này, khi không lại làm “bể mánh” bọn mình! Đúng là “lạy ông tôi ở bụi này”.
– Đúng, và chắc hẳn là chúng ta đã mất hết hy vọng khám phá xem tên trộm đã đột nhập được vào trong nhà qua ngõ ngách nào, Alice nói, có vẻ đã hoàn toàn mất tinh thần trước cú đòn này của nghịch cảnh.
– Ông March này “chơi” ác thật đấy: ai lại nhè ngay lúc ấy mà lo lắng cho sự an nguy của ba chị em mình chứ! Bess cằn nhằn, bực bội vì sự thất bại – khi mà thắng lợi chỉ còn trong gang tấc – đã khiến cô cay cú đến trở thành bất công.
– Chúng ta oán bác ấy như vậy là bậy đấy, Alice ôn tồn hòa giải. Bác ấy chỉ muốn tốt cho ba chị em mình thôi mà.
Người cựu chiến binh già quay về trông chừng bé Moira vẫn đang ngủ say, lúc này đã trở lại bên ba người bạn và xin họ bỏ qua cho sự can thiệp nhanh nhẩu đoảng của mình. Cụ lý giải rằng, vì chờ đợi quá lâu mà không nghe động tĩnh gì nên cụ đâm ra lo lắng và, không cầm lòng được nữa, cụ đã tính đi coi thử để biết chắc là ba cô gái không gặp phải chuyện gì nguy hiểm. Không dè là mình đang ở gần tên trộm đến thế nên cụ đã cất tiếng gọi họ. Do đó mới làm đổ bể hết mọi chuyện.
Sau khi kể lể một lát về chuyện xui xẻo vừa qua, cụ già và ba cô gái đều đã đi đến cùng một kết luận: kẻ lạ mặt bí ẩn kia chắc chắn sẽ không “tái xuất giang hồ” đêm nay. Do đó, ba cô gái đã trở lên gác để lăn ra ngủ trong căn phòng được dành cho họ. Sáng hôm sau, lúc bừng mắt dậy, Alice đã nghe những tiếng nhạc rộn ràng ngân vang.
“Cha! Mới giờ này mà bác March đã mở radio rồi kìa!” Cô tự nhủ.
Bước xuống phòng ăn, Alice thấy Moira và ông nội của bé đang ngồi trước bữa điểm tâm đã được Effie dọn lên bàn ăn. Muỗng đũa chổng ngược lên trần nhà, hai ông cháu đang chăm chú nghe tiếng hát của một người đàn ông. Đó là một bài hát của bố con đấy, cô ạ! Con bé reo vang khi thấy bóng Alice.
– Suyt! Ông nội của nó ra dấu, ngón tay trỏ giơ lên đặt ngang môi.
Alice lắng nghe. Sáng tác này khác với các tác phẩm mà cô đã từng nghe qua. Đây là một bài hát viết theo điệu valse. Một cụm từ đã gợi được sự chú ý của cô: “ơi, người trong mộng của anh…”
“Mình đã gặp mấy từ này ở đâu rồi nhỉ, lời ca có liên quan đến điều bí ẩn mà chúng ta đang ra sức phá án?” Alice tự hỏi, mà không sao tìm được đáp án cho vấn đề ấy.
Cả tiếng đồng hồ sau đó, giai điệu trên vẫn tiếp tục ám ảnh Alice. Bỗng nhiên, cô đã hiểu lý do tại sao. Chạy vội tới gặp cụ March ở phòng khách, cô reo lên ngay khi mới đến ngưỡng cửa phòng:
– Bác có lý khi nghĩ rằng chìa khóa của sự bí ẩn nằm trong những lá thư mà bác đã giao cho ba cháu.
– Cháu muốn nói gì vậy?
– Vâng, trong những lá thư mà con trai bác đã viết cho vợ anh ấy. Một bức trong số ấy đã bắt đầu bằng cụm từ: “ơi, người trong mộng của anh…”
– Có lý nào! Ông già lớn tiếng than, sửng sốt cao độ.
Alice quyết định đọc lại các bức thư. Vì đã để lại toàn bộ tại nhà mình, nên cô tính lên đường trở về ngay tức khắc. Nhưng cô chưa kịp nói ra ý định đó thì đã gặp một trở ngại: bé Moira muốn được mặc quần áo đẹp để làm duyên làm dáng cho vui.
– Con xin cô mà, cô Alice, con đã chán vì tối ngày chỉ quanh quẩn trong nhà, bị nhốt trong bốn bức tường. Con muốn được mặc những bộ váy áo dài thòng mà Effie đã cho con coi. Những bộ áo váy đầy những hình thêu và những dải ruy băng ấy mà.
Alice vẫn còn quá gần gũi với thời thơ ấu của mình nên không thể không thông cảm với nỗi khát khao của con bé. Cô đã chấp thuận tham gia vào cuộc chơi. Mừng như điên, Moira lôi xồng xộc Alice tới cái tủ âm tường trên lầu. Trong ấy có chứa những bộ y phục có từ thời cuộc nội chiến Nam Bắc Mỹ. Con bé yêu cầu Alice mặc một bộ áo váy bằng tơ lụa in màu xanh lam, bó sát ngang eo nhờ một sợi ruy băng bằng nhung và có những giải tua bay phất phới. Nó tự chọn cho mình một cái áo đầm với phần ngực áo được tô điểm bằng những hoa đồng cỏ nội thêu nổi. Một tay nắm cái đuôi áo dài lê thê, tay kia cầm một cái dù bằng vải có thêu hoa, nó nhún nhảy bước đi, sung sướng như một nàng tiên nhỏ.
– Mình xuống gặp nội đi, nó bảo. Nội sẽ hết còn dám nghĩ con là một con bé… thò lò mũi xanh nữa cho mà coi!
– Đúng vậy, với đôi giày gót cao cả tấc và với cái áo đầm ấy, trông con giống hệt một mệnh phụ phu nhân, Alice mỉm cười nói hùa theo. Nhưng con hãy coi chừng đừng bị quẩn chân mà té ngã trong lúc bước đi đấy nhé.
Alice vừa nói dứt câu thì con bé đã bị hụt chân. Trên bực thang thứ hai, nó vừa bị vướng chân vào vạt váy dài thòng; cái dù của nó xoay tròn trong không trung và làm rách tẹt một đường dài trên tấm giấy dán tường.
– Ôi! Thế nào cũng bị ông nội la cho mà coi! Con bé hoảng hồn rên.
– Nội sẽ không la rầy con đâu, đó không phải là lỗi của con mà, Alice cố trấn an con bé sau khi đã kịp đỡ cho nó khỏi té. Nội sẽ lấy làm hài lòng vì con đã không bị đau đớn gì, thế thôi. Nhưng, ta hãy thử dòm sơ qua coi cô cháu mình có thể dán lại tờ giấy này được không nào.
Tiến tới, Alice quan sát kỹ chỗ bị hư hại. Một tiếng la kinh ngạc bật ra khỏi miệng cô. Trên vách tường, nhiều dãy nhạc vừa xuất hiện. Cô cất tiếng gọi cụ March. Thoạt đầu, cụ tưởng Alice tính khoe với cụ những bộ đồ mà hai cô cháu đã khoác lên người, nhưng khi nhìn thấy những nốt nhạc, cụ đã cứng họng không thốt nên lời.
– Đây có thể là một bài hát đã được các cụ trong tộc họ nhà bác sáng tác, ông reo lên. Ta hãy xem thử coi còn có thêm bài nào nữa không. Cháu hãy giúp bác giật tung tờ giấy ra đi. Vả lại, làm thế cũng chẳng hư hại gì nhiều đâu!
Thận trọng từng chút một, cụ già March, Alice, Bess và Marion cũng góp công góp sức “khai quang” vách tường – một công việc tỉ mỉ đòi hỏi rất nhiều kiên nhẫn. Nhưng cảnh quan, sẽ thưởng công cho các nỗ lực của họ mới ngoạn mục biết bao! Trên nền thạch cao nổi bật một cảnh tượng đẹp như mơ: ngồi trước một cây đàn clayecin, một phụ nữ trẻ buông lơi cho những ngón tay ngà lướt nhẹ trên các phím đàn; đứng cạnh nàng là một người đàn ông đang hát. Nhà nghệ sĩ nào đã họa nên bức bích họa này đã quan tâm đến cả những tình tiết nhỏ nhặt nhất nên thậm chí đã ghi lại cả họ tên của nhạc sĩ trên bản nhạc mà người phụ nữ trẻ đang nhìn vào để dạo đàn: John March, ông cố của bé Moria hiện nay.
Alice ngân nga theo từng nốt của bản nhạc đặt trên giá đàn trước mặt người thiếu phụ.
– Fipp xưa kia vẫn thường hát giai điệu này, cụ March nói sau khi nghe Alice “độc tấu” hết bản nhạc. Chắc hẳn nó đã học lóm được của bà nó.
– Trong trường hợp này, thế là chúng ta đã nắm được bằng chứng không thể chối cãi mà chúng ta đang khổ công tìm kiếm, Alice nói. Bill là một kẻ mạo danh và chúng ta đã có đủ tư cách để lôi hắn ra trước tòa rồi.
– Cậu tưởng là tòa án sẽ chịu thừa nhận loại bằng chứng này ư? Marion hỏi với vẻ nghi ngại.
– Có chứ, mình nghĩ thế, Alice đáp. Nhưng có lẽ cũng chẳng cần đưa vụ này ra tòa làm chi. Nếu lão Calvil được tin là chúng ta sẽ đâm đơn kiện, lão sẽ thích một sự thỏa hiệp ôn hòa hơn là một vụ kiện rùm beng. Nếu bác muốn, bác March ạ, Alice quay nhìn ông nội của bé Moira và nói thêm, cháu sẽ đến tranh luận cho ra lẽ với lão ấy.
– Được vậy thì còn gì bằng, vì bác thú thật là mình không mấy rành về khoản pháp luật, pháp chế.
Alice yêu cầu Bess và Marion đi cũng mình tới Nhà xuất bản của lão Calvil ở Oxford. Bất chấp sự tẻ nhạt của một chuyến đi đơn điệu bằng xe lửa, hai cô bạn đã mau mắn nhận lời với tất cả sự hồ hởi. Sau khi đã thông báo cho gia đình của họ, bộ ba thám tử nghiệp dư lập tức xuất phát.
Đến Oxford rồi, họ vẫy một chiếc taxi để tới số 605, đại lộ Bradhill, trụ sở của nhà xuất bản.
– Chẳng lấy gì làm nguy nga tráng lệ cả, Alice thốt lên khi đưa mắt nhìn từ trên xuống dưới tòa nhà xây bằng gạch, bị mưa gió bào mòn loang lổ, vây quanh là những ngôi nhà khác cũng chung một tình trạng xập xệ như vậy. Thôi đã đến nơi rồi thì ta cứ vào xem sao.
Họ leo lên một cầu thang xoáy trôn ốc, vì thang máy không hoạt động được.
– Nghe này! Alice chợt lên tiếng.
– Tớ chẳng nghe được cung điệu nào thánh thốt du dương cả, Marion tuyên bố. Bản nhạc thì hay, nhưng tên nhạc công chơi đàn dương cầm thì dở ẹt!
– Hắn đang chơi một bản của Fipp March đấy, mình dám chắc vậy mà, Alice nhấn mạnh. Nhưng quả thật là hắn đã làm hỏng bét bản nhạc.
Ba bạn gái xáp lại gần cánh cửa mà từ bên trong đó đã lọt ra những nốt đàn dương cầm. Người tấu nhạc bất thần ngưng ngang bản đàn. Sau khi chờ đợi trong giây lát, họ men theo hành lang tới một cánh cửa khác trên đó có treo một tấm biển bằng đồng, khắc chìm họ tên của ông giám đốc nhà xuất bản. Alice và các bạn bước vào.
Họ thấy mình ở trong một căn phòng ngổn ngang bề bộn, thoạt nhìn không có vẻ gì là hiếu khách cả. Những chồng sách cao nghệu, những ram giấy để chép nhạc, những tập vỡ học trò, những sổ bộ đặt ngổn ngang trên một bàn buya rô. Ngồi trước máy đánh chữ, một cô thư ký còn trẻ, tóc tai bù xù, đang nhai kẹo cao su theo nhịp gõ máy. Sau một lát khá lâu mới chịu nhướng cao những hàng lông nheo cong vút lên – mà ai cũng biết là lông nheo giả.
Ả thư ký xoi mói Alice suốt từ đầu đến chân.
– Mấy người muốn gì? Ả hỏi.
– Chúng tôi muốn gặp ông Calvil, Alice lịch sự đáp lại.
– Nếu cô có những nhạc phẩm cần bán, thì cô đã gõ nhầm cửa rồi. Ông Calvil đâu có đếm xỉa gì đến đám nghiệp dư.
– Tôi chẳng có gì cần bán cả, Alice vẫn không hề mất bình tĩnh. Nhờ chị vui lòng thông báo danh tánh của tôi với ông giám đốc.
Ả thư ký gọi điện thoại rồi quay lại với bản thông báo vừa ngắn gọn vừa bất lịch sự:
– Ông Calvil từ chối tiếp cô.
Phải gắng gượng lắm, Alice mới tự kiềm chế được.
– Chúng tôi ở tận River City đến đây, mong chị hiểu cho, Alice dịu giọng nói. Chúng tôi đã mất công đi xa như vậy đâu phải là để bị…
– Ông Calvil hôm nay không tiếp ai hết, ả thư ký ngắt lời khách với vẻ cực kỳ khiếm nhã. Tất cả giờ giấc của ông chủ đều chỉ dành trọn cho các soạn nhạc gia cộng tác thường xuyên với nhà xuất bản. Vì vậy cô đến đây chỉ tổ mất công và tốn thì giờ vô ích mà thôi.
– Được lắm, Alice đáp cộc lốc.
Mặt đỏ bừng, cô ra khỏi phòng thư ký, với Bess và Marion lẽo đẽo theo sau.
– Mình đã e là sẽ được đón tiếp “nồng hậu” kiểu này mà, Alice nói khi ra tới hành lang.
– Đã biết trước là sẽ thất bại sao chị còn đến đây làm chi? Bess lên tiếng phản đối.
– Mình muốn quay lại và đòi gặp cho bằng được tên bất lương ấy quá.
– Đừng, như vậy chỉ tổ ê mặt thêm lần nữa thôi, Marion quyết liệt cự lại và nắm lấy cánh tay Alice cố lôi theo mình.
– Hãy để tên súc sinh ấy cho ba chị xử lý thì hơn, Bess góp ý.
Nhưng Alice đã quyết không trở lại River City với hai bàn tay trắng. Thuyết phục các bạn đồng ý quay trở lại, nhẹ nhàng lướt qua phòng thư ký không gây một tiếng động nhỏ, bộ ba tiến về chỗ mà Alice dự đoán có đặt văn phòng riêng của lão Calvil. Một giọng nói lọt tới tai cô:
– Banko này, lão chủ nhà xuất bản nói, chúng ta sắp nguy to rồi. Con nhỏ thám tử nửa mùa mà tôi đã có lần nói với ông ấy, nó vừa tới tận đây để điều tra đấy. Tôi e rằng nó đã kiếm ra được bằng chứng nào đó để chống lại chúng ta rồi cũng nên.
– Có lý nào! Một giọng nói lạ lẫm đáp lại.
– Dù vậy, có lẽ nên tạm ngưng việc phát hành một thời gian thì hơn. Chúng ta không nên mạo hiểm bừa bãi, kẻo sẽ có hại lớn cho việc làm ăn lâu dài đấy.
Alice và các bạn đều vểnh tai nghe ngóng với hy vọng sẽ biết được nhiều chuyện hơn nữa. Tiếc thay! Hai kẻ đồng phạm đã hạ thấp giọng và chỉ có một chuỗi những tiếng thì thào không sao hiểu nổi lọt tới tai họ mà thôi.
– Chính Bill Banko là kẻ đang được lão Calvil tiếp, Alice nói với bạn bè. Giá mà bọn mình thấy được bản mặt của hắn nhỉ.
– Tưởng chuyện gì, chứ chuyện ấy thì dễ ợt, Marion nói. Chúng ta hãy núp đi, rồi khi hắn ra khỏi phòng thì ta chỉ việc đi theo hắn là xong ngay.
– Ý kiến tuyệt lắm! Alice tán thưởng. Hai bạn hãy xuống dưới đứng rình ở gần cổng vào và đợi tới lúc hắn đi ra. Còn tôi, sẽ ở lại để canh chừng tầng lầu này.
Bess và Marion nhón gót rời xa. Sau khi nhìn quanh, để thăm dò, Alice đã đến núp trong một góc tường ở gần thang máy.
Hai mươi phút trôi qua. Cuối cùng, cửa văn phòng Calvil mở ra, nhường chỗ cho một người đàn ông cao mà ốm, tóc dài phủ xuống tận gáy, với dáng đi còn trẻ trung. Hắn có kẹp dưới nách một cuộn giấy để chép nhạc. Đó chỉ có thể là tên Bill Banko mà thôi, Alice tự nhủ.
Chờ cho tới lúc hắn đã xuống được mấy bậc thang, Alice mới tiếp bước theo sau mà vẫn cảnh giác đề phòng để khỏi làm hắn chú ý. Khi ra tới ngoài phố, cô thoáng thấy Bess và Marion, nép sát người vào hốc kẹt của một khung cửa ra vào. Bằng một cái hất đầu, cô ra dấu cho hai bạn theo bén gót người đàn ông.
Alice đợi thêm một lát nữa, vì sợ bị hắn phát hiện. Khi hắn đã đi khá xa, Alice liền đến gặp hai bạn.
Người đàn ông đang tiến bước thật nhanh nhẹn. Có thể tên hắn đúng là Bill Banko thật, nhưng dù sao cũng không phải chính hắn là kẻ đã xâm nhập tòa lâu đài cổ của ông March, bởi tên trộm bữa ấy là một kẻ béo và lùn kia.
Không một lần ngoảnh đầu lại, Bill Banko đến trước một khách sạn, bước vào và tiến thẳng đến quầy tiếp tân.
Alice, Bess và Marion nối gót theo hắn vào gian tiền sảnh, và lập tức núp sau những cây kiểng xum xuê trông trong các chậu bằng sành đặt gần vách tường.
– Cậu làm ơn lấy chìa khóa phòng giùm tôi, người đàn ông nói.
– Có đây, thưa ông Lally, nhân viên tiếp tân đáp lại.
“Lally!” Alice suýt nữa đã lớn tiếng reo lên.