Công Viên Khủng Long Kỷ Jura

Phần Năm – 1. TÌM KIẾM



 

ennaro ngồi trong xe Jeep, lắng nghe tiếng vo vo của bầy ruồi, nhìn chăm chăm vào mấy cành cọ dừa phe phẩy trong không khí nóng ở xa xa. Ông kinh ngạc khi nhìn thấy quang cảnh như một bãi chiến trường: cỏ bị dẫm bẹp nát cả trăm mét khắp tứ phía. Một cây cọ dừa lớn bị trốc gốc ngã nằm dài trên đất. Có những vết máu lớn trên cỏ và trên những tảng đá lớn cạnh bên phải họ. Ngồi một bên Gennaro, Muldoon nói:

 

– Không còn nghi ngờ gì nữa. Con T-rex đã tung hoành giữa đám hadrosaur. – ông tợp một ngụm whiskey, đậy nắp chai rượu, rồi nhìn quanh – Ruồi đâu mà nhiều quá.

 

Họ nhìn quanh, và chờ.

 

Gennaro gõ mấy ngón tay lên bảng đồng hồ:

 

– Chúng ta chờ gì đây?

 

Muldoon không trả lời ngay.

 

– Con T-rex đang quanh quẩn đâu đây, – ông nói – mà chúng ta thì không có một khí giới nào cho ra hồn.

 

– Chúng ta ngồi trong xe Jeep.

 

– Ồ, con rex có thể chạy bỏ xa chiếc Jeep, ông Gennaro à. Một khi chúng ta bỏ đường chính và chạy ở vùng đất trống, giỏi lắm chúng ta cũng chỉ đạt được năm, sáu mươi cây số với chiếc Four – Wheel drive này. Con rex sẽ đuổi kịp chúng ta ngay. Chẳng có gì khó khăn đối với nó. – Muldoon thở dài.

 

– Nhưng chúng ta không bỏ đây đi được. Ông sẵn sàng chịu gặp nguy hiểm chứ?

 

– Xong.

 

Muldoon cho nổ máy. Tiếng động bất ngờ làm hai con othnielian nhảy vọt ra khỏi đám sậy xa xa ngay trước mặt. Muldoon gài số xe. Ông lái xe chạy một vòng rộng quanh vùng đất bị dẫm nát, rồi cho xe chạy thành những vòng tròn đồng tâm hẹp dần, cuối cùng đến chỗ hai con othnielian vừa mới vọt ra trong cánh đồng. Ông xuống xe, rẽ cỏ đi tới, cách xa chiếc Jeep. Ông dừng lại chỗ một đám ruồi bay dày đặc trên không. Gennaro hỏi:

 

– Cái gì vậy?

 

– Đem vô tuyến tới đây. – Muldoon bảo.

 

Gennaro leo ra khỏi xe đi vội tới. Cho dù còn cách xa, ông đã ngửi thấy mùi chua của thứ gì đó sắp thối rữa. Ông thấy một hình dạng đen đen nằm trên cỏ, máu khô cứng, chân xiên lệch. Muldoon nhìn xác con vật.

 

– Một con hadrosaur non. Cả bầy bị đuổi chạy tán loạn, con này bị xé khỏi bầy và con T-rex hạ nó.

 

Thịt con vật bị xé tơi tả do nhiều vết cắn. Gennaro hỏi:

 

– Làm sao ông biết?

 

– Căn cứ vào các đống phân thú kia. Ông có thấy những đống phân nhỏ trắng như phấn ở kia, trên đám cỏ không? Đấy là phân con hadrosaur. Acid uric làm cho chúng trắng ra. Nhưng ông xem chỗ này, – ông chỉ vào một đống lớn hơn, cao lên tận đầu gối trong đám cỏ – đấy là phân con tyrannosaur.

 

– Làm sao ông biết con tyrannosaur không đến sau đó, sau khi con hadrosaur đã chết rồi?

 

– Nhờ ở các vết cắn. Có thấy những vết nhỏ này không? – ông chỉ dọc theo bụng con thú chết – Những vết cắn này là của mấy con othys. Những dấu cắn không có máu chảy. Đấy là do cắn sau khi con thú đã chết. Mấy con othys cắn. Nhưng con hadrosaur bị hạ bằng một cú cắn ở cổ, ông thấy dấu rách lớn ở đấy, trên bả vai. Đấy là dấu cắn của con T-rex, chẳng nghi ngờ gì nữa.

 

Gennaro cúi nhìn con thú, nhìn vào mấy chỗ bị day xé lệch lạc với cảm giác nghi ngờ. Muldoon bật vô tuyến:

 

– Phòng điều khiển.

 

Giọng Arnold đáp:

 

– Tôi nghe?

 

– Chúng tôi tìm thấy một con hadrosaur khác bị giết chết. Con non. – Muldoon cúi xuống giữa đám ruồi và kiểm tra lại da phía trên móng bàn chân phải của con thú. Một con số được đóng vào đấy. – Số chủng loại là HD/09.

 

Máy vô tuyến kêu tít tít. Arnold:

 

– Tôi có tin cho ông.

 

– Ô? Gì vậy?

 

– Tôi đã tìm ra Nedry.

 

Chiếc xe Jeep rồ máy chạy xuyên qua những hàng cọ dừa dọc theo con đường phía đông và rẽ vào một con đường phục vụ hẹp hơn, dẫn đến con sông. Vùng này của công viên thật nóng, khu rừng bao kín quanh họ và hôi hám. Muldoon đang theo dõi màn hình giám sát trong xe Jeep, lúc này đang hiện lên bản đồ của khu nghỉ mát với những đường nằm ngang dọc.

 

– Họ tìm thấy gã ta ở vidéo điều khiển từ xa. – Muldoon nói – Khu 1104 ở ngay trước.

 

Ở phía xa trên con đường, họ thấy một rào chắn bê tông và chiếc Jeep đỗ bên cạnh. Arnold nói:

 

– Chắc hẳn gã đã quẹo nhầm chỗ. Thằng chó chết.

 

– Nó lấy gì?

 

– Wu nói là mười lăm phôi. Ông biết giá trị chừng ấy không?

 

Gennaro lắc đầu. Muldoon cho biết:

 

– Vào khoảng giữa hai mươi và mười triệu đô la. – ông lắc đầu – Một cú lớn.

 

Khi họ đến gần hơn, Gennaro thấy xác chết nằm ngay cạnh chiếc xe, nhưng không phân biệt rõ và có màu xanh lá – nhưng rồi những bóng màu xanh tản mát đi khi chiếc Jeep dừng lại. Arnold nói:

 

– Lũ compys. Những con compys làm thịt gã.

 

Khoảng mươi mười hai con procompsgonathus, những con thú ăn thịt sống không lớn hơn con ngỗng, đứng ở bìa rừng, kêu chút chít kích động khi hai người bước ra khỏi xe.

 

Dennis Nedry nằm ngửa, khuôn mặt trẻ con hồng hào mập mạp bây giờ đỏ ngầu máu và sưng phồng. Ruồi bu quanh chiếc miệng mở và chiếc lưỡi dày. Thân hình gã bị xé nham nhở, ruột phanh lòi ra ngoài, một chân bị nhai nát. Gennaro quay vội đi chỗ khác, nhìn vào lũ compys lúc này đang quàng quạc đứng trên hai chân sau cách đấy một khoảng và tò mò nhìn hai người. Ông chú ý là con khủng long nhỏ có bàn tay năm ngón. Chúng đưa tay chùi miệng và mặt, làm chúng có bộ tịch kỳ quặc giống như người… Muldoon nói:

 

– Tôi thật đoảng. Đây không phải do lũ compys.

 

– Thế thì con gì?

 

Muldoon đang lắc đầu:

 

– Có thấy những vết bẩn kia không? Trên áo và trên mặt gã. Ngửi như mùi nôn mửa đã khô.

 

Gennaro mở tròn mắt. Ông ngửi thấy mùi ấy.

 

– Đấy là nước giải của mấy con dilophosaur. Do mấy con dilo khạc bắn ra. Ông thấy các dấu hủy hoại ở giác mạc, tất cả các dấu đỏ. Vào mắt, nó gây đau nhưng không gây hại. Ông có thời gian hai tiếng đồng hoặc rửa nó đi với thuốc chống nọc độc. Thuốc này chúng tôi có để khắp công viên để đề phòng những trường hợp này. Không phải thứ đó gây hại cho gã vô lại này. Mấy con thú làm gã mù mắt rồi xé bụng gã. Đấy không phải con đường tốt cho gã đi. Có thể trên cõi đời này có thứ công lý nào đấy chăng?

 

Lũ compys kêu chút chít và nhảy nhót khi Muldoon mở cửa sau xe Jeep của Nedry và lấy ra hai ống kim loại màu xám và một hộp sắt không gỉ:

 

– Tất cả còn nguyên đây.

 

Ông trao hai ống hình trụ cho Gennaro. Ông này hỏi:

 

– Thứ gì đây?

 

– Hỏa tiễn. – khi Gennaro bước lùi xa, Muldoon dặn – Coi chừng, đừng có giẵm lên thứ gì đấy.

 

Gennaro bước cẩn thận bên cạnh xác Nedry. Muldoon đem ống phóng qua chiếc Jeep của mình, dặt vào băng sau. ông leo vào sau tay lái:

 

– Đi thôi.

 

– Còn nó thì sao? – Gennaro chỉ tay vào Nedry.

 

– Còn nó thì sao ư? Chúng ta có bao nhiêu chuyện phải làm. – Ông gài số xe. Nhìn lại, Gennarn thấy lũ compys lại trở lại đánh chén xác chết. Một con nhảy lên ngồi xổm trên ngực Nedry và bắt đầu nhâm nhi chiếc mũi của gã.

 
Dòng sông hẹp lại. Hai bờ khép dần cho đến khi tàn lá cây trên bờ đan kín lại che khuất ánh mặt trời. Tim nghe tiếng kêu của chim và những con khủng long nhỏ kêu chíp chíp nhảy qua nhảy lại giữa các cành cây, Nhưng phần lớn khu rừng đều im lặng, không khí thì nóng và yên tĩnh dưới các màn cây. Grant nhìn đồng hồ. Tám giờ.

 

Họ trôi nhẹ trên mặt nước yên tĩnh, giữa những đốm sáng lọt qua kẽ lá. Nếu có gì khác thì chỉ dường như họ trôi nhanh hơn trước. Grant lúc này đã tỉnh táo, ông nằm ngửa, nhìn các cành cây trên đầu. Trong mấy cành lá lòa xòa, ông thấy cô bé với tay lên.

 

– Lex, cháu làm gì vậy?

 

– Mấy quả này có ăn được không bác? – Cô bé chỉ vào đám cây.

 

Một số cành cây vươn ra mặt nước, gần tầm tay với. Tim thấy các chùm dâu chín đỏ mọng đầy cành. Grant ngăn lại:

 

– Không ăn được đâu.

 

Cô bé chỉ vào những con khủng long nhỏ nhảy nhót trên cành.

 

– Sao vậy? Lũ khủng long nhỏ đang ăn kìa.

 

– Đừng ăn, Lex.

 

Cô bé thở dài, tỏ vẻ bất bình:

 

– Cháu ước gì có bố cháu ở đây. Bố cháu luôn biết phải làm gì.

 

– Mày đang nói gì vậy? – Tim mắng em – Ông ấy chẳng bao giờ biết phải làm gì.

 

– Bố biết chứ. – cô thở dài. Lex nhìn các thân cây khi họ lướt ngang, các chùm rễ thòng xuống gần mặt nước – Chỉ vì anh không thích bố…

 

Tim quay đi chỗ khác, không nói gì.

 

– Nhưng đừng lo, bố cũng thích anh. Cho dù anh ham máy điện toán mà không ham thể thao.

 

– Bố cháu là một cây thể thao. – Tim giải thích với Grant.

 

Grant gật đầu. Trên các cành cây cao, những con khủng long vàng, xám, cao chỉ chừng sáu tấc, nhảy từ cây này qua cây khác. Chúng có mỏ nhọn và quặp; như loài vẹt. Tim nói với em:

 

– Mày biết những con đó kêu là con gì không? Con microceratop đấy.

 

– Anh thì giỏi vụ này rồi.

 

– Tao nghĩ là mày thích.

 

– Chỉ con trai mới thích khủng long.

 

– Ai nói thế?

 

– Bố.

 

Tim bắt đầu cãi lại, nhưng Grant đưa tay lên:

 

– Hai đứa, im đi.

 

– Sao vậy. Cháu có làm gì đâu nếu…

 

Nhưng rồi con bé làm thinh vì nó cũng nghe thấy. Đấy là tiếng rít đầy chết chóc của con T-rex, từ đâu đó cuối dòng sông.

 
– Kỳ thật, con T-rex chết tiệt ở đâu nhỉ? – Muldoon nói vào vô tuyến – Chúng tôi không thấy nó ở đây.

 

Hai người đã trở lại bãi nuôi sauropod, tìm kiếm quanh đám cỏ bị lũ hadrosaur dẫm nát. Con tyrannosaur biến đâu mất tăm. Arnold nói, qua vô tuyến:

 

– Tôi kiểm tra, tìm lại. – và ông bấm tắt máy.

 

Muldoon quay sang Gennaro:

 

– Tìm lại. – ông nhắc lại, chán nản – Tại sao ông ta không kiểm soát trước đó? Tại sao ông ta không theo dấu nó?

 

Một lúc sau, giọng Arnold:

 

– Nó không lộ dạng.

 

– Anh nói sao, nó không lộ dạng?

 

– Nó không hiện diện ở các màn hình giám sát. Các bộ cảm ứng chuyển động không phát hiện nó.

 

– Đồ quỷ! Các bộ cảm ứng này chẳng ra gì cả. Anh thấy Grant và hai đứa nhỏ chưa?

 

– Các bộ cảm ứng cũng không phát hiện ra họ.

 

– Thế thì, chúng tôi làm gì bây giờ?

 

– Cứ chờ đó. – và Arnold bấm máy.

 
– Nhìn kìa! Nhìn kìa!

 

Ngay phía trước, mái vòm của chuồng nuôi chim vươn cao. Trước đó, Grant chỉ thấy chuồng chim này từ xa; bây giờ, ông nhận thấy chuồng nuôi thật khổng lồ – đường kính có đến gần năm mươi mét hoặc hơn. Các khung chuồng chiếu sáng mờ mờ qua màn sương nhẹ, và ý nghĩ đầu tiên của ông là phần kính gắn vào dễ phải đến cả tấn. Rồi, khi họ đến gần, hóa ra chẳng có miếng kính nào – chỉ toàn những thanh chắn. Một lưới mắt cáo mỏng treo phía trong các khung. Lex nhận xét:

 

– Chúng chưa làm xong.

 

– Bác nghĩ là họ cố ý để ngỏ như thế. – Grant nói

 

– Thế thì chim có thể bay ra hết.

 

– Không đâu, nếu là chim lớn.

 

Con sông mang họ đi dưới rìa chân mái chuồng. Họ nhìn lên. Lúc này họ đã vào trong chuồng, dưới mái vòm. Bè vẫn trôi trên con sông. Nhưng trong vòng mấy phút, họ khó thấy rõ được mái vòm ở quá cao trên đầu họ, nằm lẫn trong sương.

 

– Bác nhớ dường như có một khu nhà nghỉ thứ hai ở đâu đây.

 

Một lúc sau, Grant thấy mái của tòa nhà cao vượt qua các ngọn cây về phía bắc. Tim hỏi:

 

– Bác muốn vào đấy à?

 

– May ra có thể có điện thoại ở đấy. Hay các bộ phận cảm ứng chuyển động. – Grant chèo về phía bờ – Chúng ta cần phải tiếp xúc với phòng điều khiển. Càng lúc càng trễ rồi đấy.

 

Họ leo ra khỏi bè, lảo đảo trượt trên bờ đất bùn. Grant kéo bè lên khỏi mặt nước. Họ cột bè vào một thân cây rồi cất bước qua khu rừng cọ dừa dày đặc.

 
NHÀ NUÔI THÚ BAY
Arnold nói vào điện thoại:

 

– Tôi không thể hiểu được. Tôi không thấy con rex, cũng không thấy Grant và hai đứa trẻ đâu cả.

 

Ông ta ngồi trước bàn điều khiển vả nốc cạn một tách cà phê khác. Quanh ông, vứt bừa bãi những đĩa giấy và những mẩu bánh sandwich ăn dở. Arnold đã kiệt lực. Lúc này là 8.30 sáng thứ bảy. Trong suốt mười bốn tiếng đồng hồ kể từ khi Nedry làm rối hệ thống điều khiển, Arnold đã kiên trì đem hệ thống trở lại làm việc, bộ phận này sau bộ phận khác.

 

– Tất cả các hệ thống của công viên đã hoạt động trở lại, và hoạt động chính xác. Điện thoại đã sử dụng được, và tôi đã cho mời một bác sĩ cho ông.

 

Bên kia đường dây, Malcolm ho mấy tiếng. Arnold đang nói chuyện với ông.

 

– Nhưng anh đang gặp rắc rối với mấy bộ cảm ứng?

 

– Ờ, tôi không tìm thấy những gì tôi muốn tìm.

 

– Như con rex?

 

– Nó không xuất hiện trước các bộ cảm ứng nữa. Cách đây hai mươi phút nó đi về phía bắc, dọc theo rìa nước của hồ vịnh, và rồi tôi mất dấu nó. Tôi không biết tại sao, từ khi nó đi ngủ trở lại.

 

– Và anh cũng không tìm thấy Grant và hai đứa trẻ?

 

– Không.

 

– Thật đơn giản. – Malcolm góp ý – Các bộ cảm ứng chuyển động không bao trùm đủ các vùng.

 

– Không bao trùm đủ? – Arnold nổi giận. – Chúng bao trùm đủ chín mươi hai…

 

– Chín mươi hai phần trăm vùng đất đảo, tôi nhớ. Nhưng nếu anh xem lại trên bản đồ, tôi cho rằng anh sẽ thấy là tám phần trăm số đất còn lại nối nhau theo đỉa hình, nghĩa là các vùng ấy kề nhau. Theo bản chất, một con thú có thể đi tự do bất cứ nơi nào trong công viên và thoát khỏi sự phát hiện, bằng cách đi theo các con đường bảo quản hay con sông rừng, hay bờ biển hay gì gì đó.

 

– Cho dù thế, lũ thú ngu ngốc làm sao biết được điều đó.

 

– Lũ thú ngu đến như thế nào thì chưa rõ ràng.

 

– Ông nghĩ rằng Grant và hai đứa trẻ đang làm thế? – Arnold hỏi.

 

– Rõ ràng là tôi không nghĩ thế. – Malcolm lại ho. – Grant đâu điên khùng gì. Ông ta muốn các anh phát hiện ra họ chứ. Ông ta và hai đứa trẻ có thể đang vẫy tay trước mỗi bộ cảm ứng họ bắt gặp. Nhưng có lẽ họ gặp những rắc rối chúng ta không đoán biết được. Hoặc có thể họ đang đi trên sông.

 

– Tôi không thể tưởng tượng được là họ đang đi trên sông. Hai bờ quá hẹp, nhiều cây, không thể đi được.

 

– Con sông có mang họ trở về đây không?

 

– Vâng. Nhưng đấy không phải là con đường an toàn, vì nó đi ngang qua khu nuôi thú bay.

 

– Tại sao không có khu này trong chuyến đi tham quan?

 

– Chúng tôi đã gặp rắc rối khi thiết lập khu nuôi thú bay. Thoạt tiên, công viên có ý định xây một ngôi nhà nghỉ thật cao, bằng các ngọn cây, nơi các du khách có thể nhìn ngắm các con pterodactyl ở tầm bay của chúng. Hiện giờ, chúng tôi có bốn con dactyl trong khu chuồng; thật sự, chúng là những con cearadactyl, vốn là loại dactyl lớn săn mồi cá.

 

– Chúng ra sao?

 

– Vâng khi xây xong khu nhà nghỉ mát, chúng tôi cho mấy con dactyl vào ở trong khu chuồng để cho chúng thích nghi. Nhưng đấy là một nhầm lẫn lớn. Những con thú bay săn mồi cá của chúng tôi trở thành loài sống trên đất.

 

– Loài sống trên đất.

 

– Một loài thú sống trên đất rất hung dữ. Chúng đánh lẫn nhau để chiếm chỗ ở và chúng sẽ tấn công bất cứ con thú nào khác xâm lấn vào vùng chúng đã định ranh.

 

– Tấn công?

 

– Quang cảnh thật khó quên. Mấy con dactyl từ đỉnh chuồng, gấp cánh lại và lao xuống. Một con thú nặng năm mươi ký sẽ va vào một người trên mặt đất như hòn đá một tấn. Chúng đã làm nhiều công nhân bất tỉnh, họ bị thương khá nặng.

 

– Những cú tấn công không làm mấy con thú bị thương?

 

– Cho đến bây giờ thì chưa thấy.

 

– Vậy nếu mấy đứa nhỏ ấy vào khu chuồng chim…

 

– Họ không vào đâu. – Arnold nói – Tôi hy vọng là họ không vào.

 
Lex chỉ tay:

 

– Đấy có phảl là khu nhà nghỉ không? Cao ghê.

 

Dưới mái vòm chuồng, khu nhà nghỉ Pteratop xây cao trên mặt đất, nằm trên những trụ gỗ lớn, giữa một đám cây linh sam. Nhưng tòa nhà chưa xong và không sơn, các cửa sổ chưa có cánh cửa. Các thân cây và khu nhà đều có những vệt bùn trắng lớn dính vào.

 

Grant nói, giấu nỗi thất vọng:

 

– Bác đoán họ chưa làm xong, vì một lý do nào đấy. – ông nhìn đồng hồ – Chúng ta hãy trở lại bè.

 

Khi họ quay lại mặt trời ló dạng làm cho buổi sáng vui vẻ hơn. Ông chú ý là mặt đất và các tàn lá đều bị những vệt trắng lớn tung tóe, những vệt trắng như phấn ông đã thấy trên tỏa nhà nghỉ mát. Và có một mùi chua ngửi thấy rõ ràng trong không khí buổi sáng. Lex nhăn mũi:

 

– Đây hôi quá. Cái thứ trăng trắng kia là gì vậy bác?

 

– Trông giống như phân loài bò sát. Có lẽ của mấy con chim.

 

– Tại sao họ không làm cho xong tòa nhà nghỉ này nhỉ?

 

– Bác chịu.

 

Họ đi vào một vùng cỏ thấp, điểm hoa dại. Họ nghe một tiếng huýt sáo trầm, dài. Và một tiếng huýt đáp lại, ngang qua khu rừng.

 

– Gì thế nhỉ?

 

– Bác chịu.

 

Rồi Grant thấy một bóng mây đen trên cánh đồng cỏ trước mặt. Cái bóng chạy trên cỏ thật nhanh. Trong chốc lát, nó quét qua đầu họ. Ông nhìn lên vả thấy một bóng đen khổng lồ lướt trên đầu, che kín ánh nắng. Lex la lớn:

 

– Eo ôi? Phải nó là con pterodactyl không?

 

– Đúng đấy. – Tim trả lời em.

 

Grant không nói gì. Ông bị thu hút bởi cảnh tượng của một sinh vật bay khổng lồ. Trên bầu trời cao, con pterodactyl huýt lên một tiếng trầm và lượn thật dịu dàng, quay trở lại phía họ. Tim nói:

 

– Sao họ không cho chúng ta xem trong chuyến tham quan nhỉ?

 

Grant cũng đang tự hỏi như vậy. Những con khủng long này quá đẹp, quá duyên dáng khi chúng di chuyển trên không trung. Khi Grant nhìn, ông thấy một con thứ hai xuất hiện trên bầu trời, rồi con thứ ba, và con thứ tư.

 

– Có thể vì họ chưa làm xong khu nhà nghỉ này. – Lex góp ý.

 

Grant đang suy nghĩ, cho rằng mấy con này không phải là những con pterodactyl thường, chúng quá lớn. Chúng phải là những con cearadactyl, loài bò sát bay từ thời đầu kỷ Cretacedus. Khi ở trên cao, chúng trông giống như những chiếc máy bay nhỏ. Khi chúng xuống thấp hơn, ông có thể thấy chúng có đôi cánh sải rộng bốn mét rưỡi, thân hình da thú và đầu như cá sấu. Chúng ăn cá ông, nhớ lại. Nam Mỹ và Mexico.

 

Lex đưa tay che mắt và nhìn lên trời:

 

– Chúng có cắn ta không?

 

– Bác nghĩ là không. Chúng ăn cá.

 

Một con bay vòng và lượn xuống, một bóng đen bay vụt qua họ với một làn khí nóng và mùi chua phảng phất. Lex lại la lên:

 

– Eo ơi, chúng to quá. – và nó lại hỏi – Bác có chắc là chúng không cắn không?

 

– Khá chắc.

 

Một con dactyl thứ hai sà xuống, nhanh hơn con vừa rồi. Nó từ phía sau, xẹt một đường thẳng qua đầu họ. Grant thoáng thấy chiếc mõm đầy răng và thân hình da thú. Trông giống như một con dơi khổng lồ, ông nghĩ. Nhưng Grant thấy say mê với dáng dấp mỏng manh của mấy con thú. Đôi cánh khổng lồ – hai lớp cánh hồng mềm mại vươn dài ngang qua họ – mỏng đến như trong suốt – mọi thứ đều làm tăng thêm vẻ thanh tú của con thú bay.

 

Lex bỗng la lên, tay chụp lấy tóc:

 

– Eo ơi, nó cắn cháu.

 

– Nó làm gì? – Grant hỏi.

 

– Nó cắn cháu! Nó cắn cháu! – Khi cô bé đưa tay ra, ông thấy máu dính nơi tay.

 

Trên cao, hai con dactyl khác nữa gấp cánh lại thành những bóng đen nhỏ lao xuống đất như những mũi tên. Chúng phát ra âm thanh như tiếng thét khi chúng nhào xuống.

 

– Nào, nhanh lên – Grant chụp lấy tay hai đứa.

 

Họ chạy băng qua cánh đồng có, nghe tiếng thét đến gần họ, và ông nhào người xuống mặt đất, kéo theo hai đứa nhỏ, khi hai con dactyl huýt lên và kêu chíp chíp xẹt ngang trên họ, đôi cánh đập đập. Grant cảm thấy móng chúng xé rách lưng áo.

 

Rồi ông đứng dậy, kéo Lex đứng lên và chạy cùng Tim trong khi hai con dactyl lượn vòng trên đầu họ và phóng xuống, rồi lên. Vào phút cuối, ông đẩy hai đứa bé ngã lăn ra đất, hai bóng đen lướt nhanh qua.

 

– Ui chao, gớm quá. – Lex la lên. Ông thấy cô bé bị mấy vệt phân trắng từ mấy con chim bắn vào người.

 

Grant lảo đảo đứng dậy:

 

– Chạy đi hai đứa.

 

Ông sắp sửa chạy thì nghe tiếng Lex thét lên sợ hãi. Ông quay lại và thấy một trong hai con dactyl đang bấu vào vai cô bé bằng hai chi sau. Đôi cánh to rộng của con thú trong mờ dưới ánh nắng đập lên đập xuống hai bên vai cô bé. Con dactyl đang cố nhấc cô bé lên, nhưng Lex quá nặng, và trong khi ráng mang cô bế lên, con thú dùng móng dài nhọn của nó cào vào đầu cô bé.

 

Lex khóc thét, vẫy tay điên dại. Grant đã làm một điều ông nghĩ ông có thể làm được. Ông chạy tới và nhảy lên, ném người vào con thú bay. õng hất được nó ngã ngửa, và ông té chồm lên thân hình da thú của nó. Con thú rít lên và mổ. Grant cúi đầu tránh xa đôi hàm và đẩy nó lui, trong khi đôi cánh vĩ đại đập quanh người ông. Như một chiếc lều vải trong cơn bão. Ông không thấy gì, ông không nghe gì; chẳng có gì ngoài tiếng đập cánh, tiếng rít và lớp cánh da mỏng. Đôi chân có móng nhọn cào điên cuồng vào ngực ông. Lex thì cứ thét lên. Grant đẩy người khỏi con dactyl. Con thú kêu chíp chíp và đập mạnh cánh cố trở mình để bay lên. Cuối cùng, nó thu cánh lại giống như một con dơi và lăn tròn, rồi đứng dậy trên đôi cánh ấy. Grant dứng lại, ngạc nhiên.

 

Con thú có thể đi bằng đôi cánh. Suy nghĩ của Lederer thế mà đúng. Nhưng rồi những con dactyl khác đang phóng xuống. Grant thấy quay cuồng, mất thăng bằng và trong nỗi kinh hoàng, ông thấy Lex bỏ chạy, hai tay ôm lấy đầu… Tim thì la khản cổ.

 

Con thứ nhất sà xuống và cô bé ném một thứ gì đó và đột nhiên con dactyl huýt lên rồi bay lên. Mấy con kia lập tức bay đuổi theo con thứ nhất. Con thứ tư đập cánh cất mình lên không nhập bọn với mấy con trước. Grant nheo mắt nhìn theo xem việc gì đã xảy ra. Cả ba con dactyl đuổi theo con thứ nhất, rít lên giận dữ. Còn lại ba người trên cánh đồng. Grant hỏi:

 

– Cháu làm sao mà nó bỏ đi thế?

 

– Nó giật găng tay của cháu.

 

Họ bắt đầu đi trở lại. Tim đặt tay quanh vai em.

 

– Em không việc gì chứ?

 

– Dĩ nhiên. Ông ngốc ạ. – Cô bé trả lời, rụt người khỏi tay anh. Cô nhìn theo mấy con thú – Em mong cho nó bị nghẹn và chết.

 

– Ừ, anh cũng mong thế.

 

Họ thấy chiếc bè cao su trước mặt, nằm trên bờ sông. Grant nhìn đồng hồ: tám giờ rưỡi. Bây giờ, ông còn hai tiếng nữa để trở về.

 

Lex thấy vui vẻ khi ba người trôi qua khỏi mái vòm của khu nuôi thú bay. Rồi hai bờ sông hẹp lại, cây trên đầu họ lại đan nhau. Khúc sông ở đây hẹp hơn cả, một vài chỗ chỉ rộng vài ba mét và nước chảy xiết. Lex với tay chạm vào các cành cây khi họ trôi qua.

 

Grant ngồi tựa người lắng nghe tiếng nước róc rách qua mạn bè cao su. Lúc này họ đang trôi mau. Các cành cây trên đầu họ lướt nhanh qua. Thật dễ chịu. Gió nhẹ đưa lá cây dao động, thế này có nghĩa là họ sẽ về đến nơi sớm hơn.

 

Grant không thể đoán là họ đã đi được bao xa, nhưng ít nhất cũng đã cách tòa lán ở khu nuôi sauropod, nơi họ đã nghỉ qua đêm, nhiều dặm rồi. Có lẽ bốn hay năm dặm. Có thể còn hơn. Như thế có nghĩa là họ chỉ mất khoảng một tiếng đi bộ, kể từ chỗ khách sạn, để về đến nơi nếu họ bỏ bè. Nhưng sau khi lên khu chuồng nuôi thú bay, Grant thấy không vội gì mà rời con sông một lần nữa. Họ đang được lúc khỏe người.

 

– Cháu không biết con Ralph bây giờ ra sao. – Lex nói – Có thể nó chết hay bị gì đó.

 

– Bác chắc là nó không can gì.

 

– Cháu không biết nó có cho cháu cưỡi không. – Cô bé thở dài, mắt riu ríu ngủ trong nắng. – Thật thú vị, khi cưỡi cn Ralph.

 

Tim nói với Grant:

 

– Bác có nhớ con stegosarus? Đêm hôm qua?

 

– Nhớ.

 

– Bác hỏi họ về DNA của loài ếch nhái là sao?

 

– Về chuyện sinh sản. Họ không thể giải thích tại sao lũ khủng long lại đang sinh sản, vì họ đã triệt sản bằng bức xạ và vì tất cả các khủng long đều là con cái.

 

– Đúng thế.

 

– Việc triệt sản bằng bức xạ được biết là khó tin cậy và có thể không có tác dụng. Bác nghĩ cuối cùng việc đó sẽ được thấy rõ. Nhưng còn một vấn đề là việc các khủng long toàn là cái. Làm sao chúng sinh sản được?

 

– Đúng thế.

 

– Ấy, nhưng trong vương quốc loài thú, sự nảy nở về tình dục tồn tại trong nhiều tình trạng bất thường.

 

Lex nói xen:

 

– Anh Tim rất quan tâm đến tính dục đấy.

 

Cả hai không chú ý đến Lex. Grant giải thích tiếp:

 

– Ví dụ nhiều loài thú sinh sản hữu tính mà không hề có điều mà chúng ta vẫn gọi là trao đổi tính dục. Con đực giải phóng một số tinh dịch, có chứa tinh trùng, và con cái thu lấy. Loại trao nhận này không hề đòi hỏi nhiều sự tiếp xúc giữa con đực và con cái như chúng ta thường nghĩ. Con đực và con cái giống nhau trong một số loài thú, khác với loài người.

 

Tim gật đầu:

 

– Nhưng ếch nhái thì sao?

 

Grant nghe một tiếng rít bất chợt từ mấy cành cây trên đầu họ, trong khi mấy con microceratopsian nhảy tán loạn báo động, làm rung chuyển các cành lá. Chiếc đầu không lồ của con khủng long bạo chúa từ bên trái thò ra khỏi đám tán lá, đôi hàm táp vào chiếc bè. Lex rú lên kinh hãi và Grant chèo bè về phía bờ đối diện, nhưng khúc sông ở đây chỉ rộng có ba mét. Con tyrannosaur bị mắc lại sau các thân cây lớn mọc dày đặc, nó ngọ nguậy đầu và rống lên, và rồi thụt đầu lui. Qua đám cây mọc thành dãy ở trên bờ, họ thấy bóng đen của con tyrannosaur di chuyển về hướng bắc, tìm một khoảng hở giữa hàng cây dọc theo bờ. Các con microceratopsian đều đã chuyền qua hết bên bờ đối diện, rít lên và dậm chân nhảy nhót. Trên bè, Grant, Tim và Lex cảm thấy tuyệt vọng khi con khủng long cố tìm cách chen chân ra khỏi cây lần nữa. Nhưng cây mọc quá dày dọc theo bờ sông, con tyrannosaur lại di chuyển về cuối dòng sông, đi trước bè, và cố chen ra lần nữa, lay các cành cây một cách giận dữ. Nhưng nó vẫn không chen ra được. Rồi nó bỏ đi, về phía cuối dòng. Lex nói:

 

– Em ghét nó quá.

 

Grant tựa lui người vào mạn bè, lo ngại. Nếu con tyrannosaur chen ra được, ông không thể làm gì để cứu cả ba bác cháu. Con sông quá hẹp, không rộng hơn chiếc bè bao nhiêu. Giống như họ đang đi trong một đường hầm. Hai mạn bè thường xuyên cọ vào bùn hai bên bờ khi dòng nước chảy xiết kéo nó đi. Ông nhìn đồng hồ. Gần chín giờ. Chiếc bè vẫn tiếp tục trôi xuôi dòng. Lex bỗng thốt lên:

 

– Này, hãy nghe xem.

 

Ông nghe tiếng gầm gừ rải rác chen vào những tiếng như cú kêu đều đều. Tiếng kêu phát ra từ bên kia một khúc cong, xa xa về phía cuối sông. Ông lắng tai và nghe tiếng cú kêu một lần nữa. Lex hỏi:

 

– Gì thế bác?

 

– Bác chịu. Nhưng có nhiều chứ không phải một con. – Grant chống bè vào bên bờ đối diện, níu lấy một cành cây cho bè dừng lại. Tiếng gầm gừ tiếp tục. Và có thêm tiếng cú rúc.

 

– Nghe như tiếng một bầy cú. – Tim nhận xét.

 
Malcolm rên rỉ:

 

– Đã đến lúc tiêm morphine được chưa?

 

– Chưa đâu – Ellie trả lời ông.

 

Malcolm thở dài:

 

– Chúng ta có nhiều nước ở đây không?

 

– Tôi không biết. Nước chảy rất nhiều ở các vòi .

 

– Không, tôi muốn nói là nước chứa được ấy? Có chút nào không?

 

Ellie nhún vai:

 

– Không.

 

– Vậy hãy vào các phòng của tầng nhà này, và xả nước vào đầy các bể tắm đi.

 

Ellie cau mày. Malcolm nói tiếp:

 

– Và nữa, có máy bộ đàm nào không? Đèn pin? Lò củi hay dầu? Các thứ đại loại như thế?

 

– Tôi sẽ tìm quanh xem. Ông đang chuẩn bị cho một trận động đất?

 

– Tương tự thế. Hiệu ứng Malcolm hàm ý có những biến đổi tàn khốc.

 

– Nhưng Arnold bảo tất cả các hệ thống đều đã hoạt động hoàn hảo.

 

– Đây là lúc nó xảy ra đấy. – Malcolm nói.

 

– Ông không tin nhiều vào Arnold, phải không?

 

– Ông ta tốt thôi. Ông ta là một kỹ sư. Wu cũng thế. Cả hai là những kỹ thuật viên. Họ không có sự thông minh. Họ có cái mà tôi gọi là sự “thông minh mỏng”. Họ chỉ thấy tình huống tức thời. Họ suy nghĩ nông cạn và họ gọi đấy là “sự tập trung”. Họ không nhìn thấy xung quanh. Họ không thấy hậu quả. Vì thế mà họ đã tạo nên một hòn đảo như thế này. Vì người ta không thể tạo nên một con thú mà lại không chuẩn bị đón nhận việc nó hoạt động để sống còn.

 

– Ông không cho rằng đấy là bản tính của riêng loài người?

 

– Không, tôi sẽ nói cô hay về các kỹ sư và các khoa học gia. Các nhà khoa học có một con đường thật tỉ mỉ của một gã điên trong cái cách họ làm thế nào để tìm hiểu được sự thật của thiên nhiên. Điều đó đúng, nhưng không phải là điều thúc đẩy họ. Không một ai bị thúc đẩy bởi nhưng điều trừu tượng như “tìm kiếm sự thật”.

 

Các nhà khoa học thật sự đã có định kiến trước với những thành tựu. Vì thế họ tập trung vào việc xem thử họ có thể làm được điều gì. Họ không bao giờ dừng lại để hỏi xem họ nên làm điều gì. Nếu họ không làm thì ai đó khác sẽ làm. Sự khám phá, họ tin vậy, là điều không thể tránh khỏi. Vì thế họ chỉ cố làm điều đó trước tiên. Đấy là một canh bạc trong khoa học. Ngay cả những khám phá thuần túy khoa học cũng là một hành động có tính liều lĩnh và không cân nhắc. Phải dùng những thiết bị to lớn, và đúng nghĩa là nó sẽ thay đổi thế giới sau đó. Những hạt gia tốc đã ghi lại những dấu vết trên đất đai và để lại những sản phẩm phụ kích hoạt phóng xạ. Các phi hành gia đã để lại nhiều thứ trên mặt trăng. Luôn luôn có những bằng chứng cho thấy các nhà khoa học hiện diện đó đây, thực hiện những khám phá của họ. Sự khám phá luôn là một sự cưỡng bức thiên nhiên.

 

Các nhà khoa học muốn như thế. Họ phải gắn những dụng cụ của họ vào. Họ muốn để lại dấu vết. Họ không thể chỉ cứ quan sát, họ không thể chỉ đánh giá. Họ không thể chỉ cứ thích hợp với trật tự của thiên nhiên. Họ phải làm một điều gì không tự nhiên xẩy ra. Đấy là công việc của các nhà khoa học. Và ngày nay xã hội đều đang cố đạt được tính khoa học. – ông thở dài và nằm yên.

 

– Ông không nghĩ rằng ông đang nói đùa đấy chứ? – Ellie nói.

 

– Một trong những vụ khai quật của cô ra thế nào sau một năm.

 

– Khá tồi tệ. – Ellie thú nhận.

 

– Cô không trồng cây lại, cô không hồi phục lại đất sau khi đào xới.

 

– Không.

 

– Tại sao cô không làm?

 

Ellie rùn vai:

 

– Không tiền, tôi đoán thế…

 

– Chỉ đủ tiền đào, không đủ tiền lấp?

 

– Ờ vâng, mà chúng tôi chỉ khai quật ở những vùng đất xấu.

 

– Chỉ những vùng đất xấu. – Malcolm lắc đầu – Chỉ toàn là vật rác rưởi. Chỉ là thứ sản phẩm phụ. Chỉ là hiệu ứng phụ… Tôi đang cố nói với cô là các nhà khoa học muốn chúng như thế. Họ muốn những sản phẩm loại bỏ, rác rưởi, những vết đào xới và những hiệu quả phụ. Đấy là một cách bảo đảm bản thân họ. Nó được tạo thành nền móng xây dựng khoa học và dần dần nó là tai ương.

 

– Vậy câu trả lại là sao?

 

– Hãy loại bỏ sự “thông minh mỏng”. Để chúng ra ngoài năng lực.

 

– Nhưng rồi chúng ta sẽ mất hết mọi tiến bộ.

 

– Mọi tiến bộ. – Malcolm nói, khố chịu – Số giờ một người đàn bà dành để làm công việc nội trợ chẳng hề thay đổi kể từ năm 1930, bất chấp đến bao nhiêu tiến bộ. Tất cả những máy hút bụi, máy giặt, sấy, máy ép rác, máy phân hủy rác, vải sợi không cần là… Tại sao ta cũng mất nhiều thì giờ để làm việc nhà như ở những năm 30?

 

Ellie không nói gì. Malcolm tiếp:

 

– Vì đã chẳng có tiến bộ gì cả. Thật sự là không có gì. Ba mươi ngàn năm trước, khi con người sơn vẽ những hang động ở Lascaux, họ làm việc hai mươi giờ một tuần để lo đủ thức ăn thức mặc và chỗ ở. Thời giờ còn lại họ có thể chơi đùa, ngủ ngáy hay làm bất cứ gì họ muốn. Và họ sống trong một thế giới tự nhiên, với không khí trong lành, nước trong sạch, cây cối xanh tươi và những buổi hoàng hôn đẹp đẽ. Cứ nghĩ mà xem. Hai mươi tiếng một tuần, ba mươi ngàn năm trước.

 

– Ông muốn quay ngược thời gian?

 

– Không. Tôi muốn đánh thức mọi người dậy. Chúng ta đã có bốn trăm năm khoa học hiện đại, và vào lúc này, chúng ta nên biết điều gì tốt để làm và điều gì không tốt để tránh. Đây là lúc thay đổi.

 

– Trước khi chúng ta hủy diệt hành tinh.

 

Malcolm thở dài, nhắm mắt lại:

 

– Ôi. Đấy là điều cuối cùng tôi vẫn thường lo lắng.

 
Trong đường hầm tối tăm của con sông, Grant dùng tay này đến tay kia níu các cành cây, cho chiếc bè tiến tới trước một cách thận trọng. Ông vẫn còn nghe các tiếng gầm gừ xen lẫn tiếng cú rúc. Và cuối cùng ông thấy một con khủng long.

 

– Có phải mấy con đó có chất độc không?

 

– Đúng đấy. – Grant nói – Đấy là con dilophosaur.

 

Đứng trên bờ sông là hai con dilophosaur. Thân hình cao ba mét của chúng điểm chấm vàng và đen. Dưới bụng màu lục sáng, như kỳ nhông. Chiếc mào đôi từ đỉnh đầu chạy từ hai mắt đến sống mũi, tạo thành hình chữ V trên đầu. Tính chất giống chim của chúng được những cử động của chúng làm cho giống thêm, khi chúng cúi xuống uống nước sông và rồi ngẩng lên để gừ gừ và rúc lên những tiếng như cú kêu. Lex thì thầm:

 

– Chúng ta có nên lên bờ đi bộ?

 

Grant lắc đầu trả lời “không”. Mấy con dilophosaur nhỏ hơn con tyrannosaur, đủ chen lọt qua đám tán lá cây dày đặc hai bên bờ, và chúng trông nhanh nhẹn, khi chúng gừ gừ và rúc lên với nhau.

 

– Nhưng chúng ta không thể đi ngang qua nó trong chiếc bè. – Lex lại thì thầm – Chúng phóng chất độc.

 

– Chúng ta phải đi qua thôi, bằng cách này hay cách khác.

 

Hai con dilo tiếp tục uống nước và rúc. Chúng dường như hoạt động xen kẽ với nhau theo một nghi thức lặp đi lặp lại một cách kỳ lạ. Con thú bên trái cúi xuống uống nước, miệng mở rộng hoác bày ra hai hàm răng nhọn hoắt và rồi rúc lên. Con thú bên phải rúc lên trả lời và cúi đầu xuống uống nước, trong những hình ảnh cử động của con thứ nhất phản chiếu xuống nước. Và cứ thế lặp đi lặp lại, đúng y cùng một cách.

 

Grant chú ý thấy con thú bên phải nhỏ hơn, với những chấm nhỏ hơn ở trên lưng, và mào của nó màu đỏ nhạt hơn. Ông nói:

 

– Bác dốt thật. Đấy là nghi thức giao phối giữa con đực và con cái.

 

Tim hỏi:

 

– Chúng ta đi qua được không?

 

– Thế thì không qua được. Chúng đang ở ngay bên rìa nước.

 

Grant biết là thú vật thường “cử hành” nghi thức vợ chồng này mỗi lần có khi đến hàng giờ. Chúng tiến hành không cần ăn uống, không chú ý đến bất cứ gì khác… Ông liếc nhìn đồng hồ: Chín giờ hai mươi. Tim hỏi:

 

– Chúng ta làm gì bây giở?

 

Grant thở dài:

 

– Bác cũng không biết tính sao.

 

Ông ngồi trong bè, hai con dilophosaur bắt đầu hú lên và rống lên lặp đi lặp lại, trong sự kích thích. Ông nhìn lên. Cả hai con đều xây mặt không nhìn ra sông nữa. Lex hỏi:

 

– Gì vậy bác?

 

Grant mỉm cười:

 

– Bác thấy là cuối cùng chúng ta cũng có được cơ may. – ông đẩy bè ra khỏi bờ – Bác muốn hai đứa bây nằm thật sát xuống lòng bè. Chúng ta sẽ di qua càng nhanh càng tốt. Nhưng cố nhớ: cho dù có gì xảy ra, đừng nói tiếng nào, đừng cử động. Nghe chứ?

 

Chiếc bè bắt đầu trôi về cuối dòng, về phía hai con dilophosaur đang rúc lên với nhau. Bè lấy được tốc độ cũ, đi nhanh. Lex, nằm sát chân Grant, nhìn ông với đôi mắt sợ hãi. Họ đến gần hai con dilophosaur, vẫn đang xây mặt khỏi dòng nước, hơn. Nhưng ông lôi súng hơi ra, ép nòng hơi.

 

Chiếc bè tiếp tục trôi, và họ ngửi thấy mùi kỳ dị, vừa thơm vừa gây buồn nôn. Tiếng rúc của hai con dilophosaur nghe to hơn. Chiếc bè đi quanh khúc cong cuối cùng của con sông và Grant nín thở. Hai con dilophosaur chỉ cách họ có vài bước, nhắm những cây bên trong bờ sông và rú lên.

 

Và như Grant đã nghi ngờ, chúng đang rúc về phía con tyrannosaur. Con tyrannosaur đang cố chen qua đám lá, hai con dilo rúc lên và dẫm mạnh chân trong bùn. Chiếc bè trôi ngang qua chúng. Mùi hôi muốn nôn ọe. Con khủng long bạo chúa gầm lên, có lẽ vì nó thấy chiếc bè.

 

Một tiếng “sạt”. Chiếc bè dừng lại. Họ mắc cạn, gần bên bờ sông, chỉ cách mấy con dilophosaur mấy bước về phía cuối dòng. Lex thì thào la lên:

 

– Ôi Chúa ơi!

 

Có tiếng sền sệt của bè bị đẩy đi trên bùn. Rồi chiếc bè lại trôi trở lại Họ đang trôi về cuối dòng. Con khủng long bạo chúa rống lên lần cuối rồi bỏ đi. Một con dilophosaur trông có vẻ ngạc nhiên, rúc lên. Con dilophosaur kia rúc đáp lại.

 

Chiếc bè trôi xuôi dòng.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.