Lựa Chọn Của Trái Tim
PHẦN KẾT
Tháng Bảy, 2007
Khung cảnh lặng lẽ mùa đông dần nhường chỗ cho những sắc màu tốt tươi của mùa xuân đến muộn, những khi ngồi ở hiên sau, Travis có thể nghe tiếng những chú chim. Hàng chục, có lẽ hàng trăm, đang gọi bầy chiêm chiếm, chốc chốc một bầy sáo đá lại vút lên từ những hàng cây, bay theo đội hình gần giống như được dàn dựng từ trước.
Đó là một buổi chiều thứ Bảy, Christine và Lisa vẫn đang chơi ở xích đu bánh xe mà Travis đã treo lên tuần trước. Vì muốn một cung đu dài, lâu hơn cho các cô bé – gì đó khác với những bộ xích đu thường – anh đã chặt bớt một ít cành thấp trước khi buộc chặt sợi dây thừng lên cành cây cao nhất có thể. Anh đã dành cả tiếng đồng hồ sáng hôm đó để đẩy xích đu và lắng nghe tiếng các con mình ré lên trong phấn khích; khi dừng lại, lưng áo anh đã nhễ nhại mồ hôi. Mặc dù các cô bé vẫn muốn thêm nữa.
“Cho bố nghỉ vài phút đã,” anh thở khò khè. “Bố mệt quá. Sao các con không tự đẩy cho nhau một lúc?”
Vẻ thất vọng khắc rõ trên khuôn mặt và trong cái chùng vai của chúng, nhưng chỉ kéo dài một lát. Chẳng bao lâu sau chúng lại ré lên. Travis nhìn chúng đánh đu, miệng anh cong lên thành một nụ cười thoáng qua. Anh yêu những thanh âm thánh thót trong điệu cười của chúng, trái tim anh ấm áp khi nhìn thấy chúng chơi cùng nhau vui đến vậy. Anh hy vọng chúng sẽ luôn gần gũi như bây giờ. Anh muốn tin rằng nếu như anh và Stephanie là dấu hiệu gì đó, chúng thậm chí còn gần gũi với nhau hơn khi lớn lên. Ít nhất cũng là một hy vọng. Hy vọng, anh đã học được, đôi lúc là tất cả những gì một người có, và trong bốn tháng qua, anh đã biết cách nắm lấy nó.
Kể từ khi anh đưa ra lựa chọn, cuộc sống của anh đã dần quay trở về gì đó gần như bình thường. Hoặc ít nhất cũng tương tự như vậy. Cùng với Stephanie, anh đi thăm gần chục nhà điều dưỡng. Trước khi tới thăm, định kiến của anh về nhà điều dưỡng là: tất cả đều là những nơi ánh sáng lờ mờ, dơ dáy, nơi những bệnh nhân bối rối rên rỉ đi lang thang trong đại sảnh lúc nửa đêm và được trông nom bởi những hộ lý gần như kẻ tâm thần. Hóa ra không điều gì trong số ấy là thật. ít ra, không phải những nơi anh và Stephanie đã tới thăm.
Thay vào đó, hầu hết đều sáng sủa và thoáng đãng, được điều hành bởi những người đàn ông hoặc phụ nữ trung tuổi chín chắn, chu đáo trong những trang phục lịch sự, không tiếc công sức đẻ chứng minh rằng những tiện nghi của họ vệ sinh hơn hết thảy nhà điều dưỡng khác, rằng các nhân viên rất lịch sự, chu đáo và chuyên nghiệp. Trong khi Travis dành cả chuyến tham quan để tự thắc mắc liệu Gabby có thấy vui ở một nơi thế này hoặc cô có phải bệnh nhân trẻ tuổi nhất trong nhà điều dưỡng không, Stephanie dành thời gian ấy để hỏi những câu hóc búa. Cô hỏi lý lịch nhân viên có được xác minh rõ ràng không, quá trình cấp cứu thế nào, cô lớn tiếng thắc mắc rằng những phàn nàn sẽ được giải quyết nhanh nhất trong bao lâu, rồi khi đi dạo trên các hành lang, cô nhấn mạnh rằng mình nắm rất rõ từng điều lệ và quy định do luật pháp ban hành. Cô đưa ra những giả thiết có thể xảy ra, sau đó thắc mắc chúng sẽ được nhân viên và giám đốc giải quyết thế nào; cô hỏi Gabby sẽ được lật người bao nhiêu lần trong ngày để có thể ngăn chặn chứng thối loét do nằm liệt giường. Đôi lúc, cô khiến Travis nghĩ tới một công tố viên đang kết tội ai đó, mặc dù cô dã khiến một vài vị giám đốc mất hết kiên nhẫn, Travis vẫn biết ơn sự thận trọng của cô. Trong tình trạng đầu óc lúc ấy, anh hầu như không thể làm được gì, nhưng anh lờ mờ nhận thức rằng cô đang hỏi toàn những câu hợp lý.
Cuối cùng, Gabby được chuyển bằng xe cấp cứu tới nhà điều dưỡng do một người tên là Elliot Harris điều hành, chỉ cách bệnh viện hai khối phố. Harris không chỉ gây ấn tượng với Travis mà ngay cả với Stephanie, cô đã hoàn tất hầu hết thủ tục giấy tờ trong văn phòng của ông. Stephanie đã nói bóng gió trước đó – đúng sai không rõ – rằng có quen người ở cơ quan lập pháp của bang, và muốn bảo đảm Gabby phải được cấp một phòng riêng tiện nghi nhìn xuống mảnh sân nhỏ. Khi Travis tới thăm, anh sẽ đẩy giường của cô về phía cửa sổ rồi dựng gối của cô lên. Anh tưởng tượng cô sẽ thích những âm thanh vọng lên từ mảnh sân, nơi bạn bè và gia đình gặp gỡ, cùng ánh mặt trời. Cô đã nói thế với anh một lần khi anh đang gập chân cho cô. Cô còn nói cô hiểu lựa chọn của anh và cô vui khi anh đã quyết định như vậy. Hoặc, chính xác hơn, anh đã tưởng tượng ra cô nói thế.
Sau khi đưa cô vào nhà điều dưỡng và dành gần trọn một tuần nữa bên cô trong khi cả hai cùng làm quen với một môi trường mới, anh quay trở lại làm việc. Anh đã nghe theo gợi ý của Stephanie và bắt đầu làm việc tới đầu giờ chiều, bốn ngày mỗi tuần; sau đó bố anh sẽ làm thay. Anh chợt nhận ra mình đã mất đi bao mối liên hệ với mọi người, khi ăn trưa với bố, anh thấy mình đã có thể ăn gần hết suất. Tất nhiên, làm việc đều đặn nghĩa là anh phải sắp xếp thời gian với Gabby. Tạm biệt các con khi chúng rời nhà đi học xong, anh tới nhà điều dưỡng và ở lại đấy một giờ; sau khi tan việc, anh dành thêm một giờ nữa với Gabby trước khi các con về tới nhà. Thứ Sáu, anh ở đó gần như cả ngày, và trong hai ngày cuối tuần, anh thường vào đó một vài tiếng. Điều đó phụ thuộc vào kế hoạch của các con anh, Gabby sẽ nằng nặc đòi anh phải để ý đến kế hoạch của chúng. Thỉnh thoảng vào ngày cuối tuần, chúng muốn cùng anh vào thăm mẹ, nhưng hầu hết thời gian chúng không muốn hoặc không có thì giờ vì các trận bóng đá, các buổi liên hoan hoặc đi trượt patanh. Dẫu sao, khi lựa chọn giữa việc Gabby sống hay chết không còn lơ lửng trên đầu anh, thì chuyện chúng mỗi lúc một xa cách mẹ cũng chẳng làm Travis phiền lòng như trước. Các con anh cũng đang làm những gì chúng cần phải làm để hàn gắn và bước tiếp, cũng như anh. Anh đã sống đủ lâu để hiểu rằng mọi người xử lý nỗi đau theo những cách khác nhau, và dần dà, tất cả dường như chấp nhận cuộc sống mới. Rồi một buổi chiều, chín tuần sau khi cô nhập nhà điều dưỡng, con chim bồ câu lại xuất hiện bên cửa sổ phòng Gabby.
Đầu tiên, Travis không tin vào mắt mình. Thú thật, anh thậm chí không dám chắc đó là cùng một con chim. Ai biết được? Lông pha màu xám, trắng, đen cùng đôi mắt đen huyền như hạt đậu – và, ừm, hầu như lúc nào cũng là những kẻ phá bĩnh – lũ chim thì con nào trông chẳng gần như nhau. Vậy nhưng, nhìn nó chằm chằm… anh biết nó chính là con chim đó. Đúng là nó. Nó bước tới bước lui, chẳng sợ hãi gì Travis khi anh tiến tới ô cửa kính, nó đã cất lên tiếng gù nghe thật… quen thuộc, không hiểu vì sao. Một triệu người có thể sẽ bảo anh mất trí, thậm chí một phần trong anh biết rằng họ nói đúng, nhưng dù vậy…
Chính là con chim ấy, cho dù điều này có vẻ điên rồ hết sức.
Anh nhìn nó trong nỗi ngạc nhiên, sững sờ, và ngày hôm sau, anh mang theo ít bánh mì Wonder rồi rắc vài mẩu lên bậu cửa. Sau đó, cứ một lúc anh lại liếc nhìn cửa sổ, chờ đợi con chim xuất hiện, nhưng nó không bao giờ quay lại nữa. Những ngày sau đó, anh thấy mình sầu não vì sự thiếu vắng của nó. Đôi lúc, trong những giây khắc tưởng tượng, anh thích nghĩ rằng nó chỉ đơn giản tới để kiểm tra họ, để biết chắc Travis vẫn chăm sóc cho Gabby. Là thế, anh tự nhủ, hoặc nó đã đến để dặn anh đừng từ bỏ hy vọng; rằng cuối cùng, lựa chọn của anh là đúng.
Trên hiên sau, nhớ lại giây khắc đó, anh ngạc nhiên khi mình có thể đăm đăm nhìn những cô con gái hạnh phúc của mình, đồng thời cùng trải nghiệm niềm sung sướng của chúng nhiều đến thế. Anh hầu như không nhận ra cảm giác hạnh phúc này, cảm giác rằng tất thảy trên cõi đời đều có lý. Phải chăng sự xuất hiện của con bồ câu đã báo trước những đổi thay sẽ điều khiển cuộc sống của họ? Anh cho rằng chỉ con người mới thắc mắc về những điều như vậy, Travis hiểu anh sẽ kể đoạn cuối của câu chuyện chừng nào anh còn sống.
Chuyện xảy ra vào giữa buổi sáng sáu ngày sau khi con chim xuất hiện, lúc Travis đang làm việc ở phòng khám. Trong phòng này là một con mèo ốm; trong phòng khác, một chú cún con giống Doberman đang cần tiêm. Ở phòng thứ ba, Travis đang khâu vết thương cho một con chó – lai giữa giống Labrador và Golden Retriever – bị thương khi đang bò qua mảnh dây gai. Anh thực hiện xong mũi khâu cuối cùng, thắt nút, và đang chuẩn bị dặn dò người chủ làm sao để giữ vết thương khỏi bị nhiễm trùng thì một phụ tá bước vào phòng mà không gõ cửa. Travis quay lại, ngạc nhiên trước sự chen ngang này.
“Elliot Harris gọi,” cô nói. “Ông ấy cần nói chuyện với anh.”
“Cô lấy lời nhắn được không?” Travis hỏi, liếc nhìn những con chó và người chủ.
“Ông ấy nói việc này không chờ được. Chuyện khẩn cấp.”
Travis xin lỗi khách và dặn người phụ tá làm nốt việc. Anh bước tới phòng làm việc của mình và đóng cửa lại. Điện thoại sáng nhấp nháy báo hiệu Harris đang chờ.
Nghĩ lại, anh không dám chắc mình mong đợi nghe thấy gì. Tuy nhiên, anh cảm thấy có điềm gở gì đó khi nhấc ống nghe lên tai. Đó là lần đầu tiên – và là lần duy nhất – Elliot Harris gọi điện tới chỗ làm cho anh. Anh đứng thẳng người, rồi nhấn nút.
“Travis Parker xin nghe.”
“Bác sĩ Parker, Elliot Harris đây,” vị giám đốc nói. Giọng ông bình tĩnh, không hé lộ điều gì. “Tôi nghĩ anh nên tới nhà điều dưỡng ngay lập tức.”
Trong sự im lặng ngắn ngủi sau đó, hàng triệu suy nghĩ đã ào qua đầu Travis: rằng Gabby đã ngừng thở, rằng tình hình cô trở nên xấu đi, rằng bằng cách nào đó tất cả các hy vọng đã vuột mất. Trong khoảnh khắc ấy, Travis ghì chặt chiếc điện thoại như cố né tránh bất cứ điều gì có thể xảy ra tiếp theo.
“Gabby có sao không ạ?” cuối cùng anh hỏi, lời nói nghe nghẹn ngào.
Một lát ngập ngừng, chắc chỉ một hoặc hai giây. Giờ thì anh miêu tả đó là một cái nháy mắt phải mất đến hàng năm mới thực hiện được, còn khi ấy, bốn từ tiếp theo khiến anh buông rơi chiếc điện thoại.
Anh bình tĩnh đến kỳ quặc khi rời khỏi văn phòng. Ít nhất, đó là những gì sau này trợ lý của anh kể lại: rằng khi nhìn anh, anh không hé lộ chút dấu hiệu về điều gì đã xảy ra. Họ nói rằng khi họ quan sát anh lướt qua bàn tiếp đón, anh chẳng hề màng tới những người đang nhìn anh. Tất cả mọi người, từ nhân viên cho tới những người chủ mang vật nuôi tới phòng khám. Madeline, mười tám tuổi và là nhân viên tiếp tân, chằm chằm nhìn anh với đôi mắt mở lớn khi anh tiến về phía cô. Lúc ấy, gần như tất cả mọi người trong phòng khám đều đã rõ nhà điều dưỡng vừa gọi điện cho anh. Ở một thị trấn nhỏ, tin tức gần như sẽ đến tai mọi người ngay tức khắc.
“Cô gọi hộ cho bố tôi và bảo ông đến được không?” Travis hỏi. “Tôi phải tới nhà điều dưỡng.”
“Vâng, tất nhiên rồi,” Madeline trả lời. Cô ngập ngừng. “Anh không sao chứ?”
“Cô nghĩ có thể lái xe giúp tôi được không? Tôi không nghĩ mình nên ngồi sau vô lăng lúc này.”
“Chắc chắn rồi,” cô nói, vẻ mặt kinh khiếp. “Để tôi gọi điện trước đã nhé?”
Khi cô nhấn số, Travis đứng đờ như tê liệt. Cả phòng đợi lặng như tờ: thậm chí lũ động vật dường như cũng biết vừa có chuyện xảy ra. Anh nghe Madeline nói chuyện với bố anh như thể từ một khoảng cách rất đỗi xa xôi; trên thực tế, anh chỉ lờ mờ nhận thức được mình đang ở đâu. Chỉ khi Madeline gác máy và bảo với anh rằng bố anh sẽ có mặt ngay lập tức, Travis mới dường như nhận ra những gì ở xung quanh mình. Anh nhìn thấy sự sợ hãi trên gương mặt Madeline. Có lẽ vì cô còn trẻ và chưa từng trải, cô đã hỏi một câu mà có vẻ ai cũng đang suy ngẫm.
“Có chuyện gì vậy?”
Travis nhìn thấy sự cảm thông và lo lắng khắc ghi trên khuôn mặt họ. Hầu hết đều đã biết anh nhiều năm; một số đã biết anh từ khi anh còn là một đứa trẻ. Đôi ba người, và hầu hết các nhân viên, biết rõ Gabby và, sau vụ tai nạn, họ cũng đã trải qua một giaid doạn gần như để tang vậy. Đó không phải việc nhà ai, nhưng lại đúng là việc của họ, vì gốc gác của anh ở nơi này. Beaufort là quê nhà của tất cả bọn họ, và nhìn xung quanh, anh nhận ra sự tò mò của mọi người chính là cái gì đó na ná như tình cảm gia đình. Nhưng anh không biết phải nói gì với họ. Trước đó anh đã hình dung ngày này cả ngàn lần, tuy nhiên, đến bây giờ, mọi thứ lại trống rỗng. Anh có thể nghe thấy mình đang thở. Nếu tập trung đủ sâu, anh tin mình có thể cảm nhận được trái tim đang đập trong lồng ngực; nhưng những suy nghĩ của anh dường như ở quá xa để nắm lấy, đừng nói thốt lên thành lời. Anh không dám chắc phải nghĩ gì. Anh tự hỏi mình có nghe đúng những lời Harris nói, hay liệu tất cả chỉ là một giấc mơ; anh tự hỏi phải chăng vì lý do nào đó anh đã hiểu lầm. Trong trí óc, anh hình dung lại cuộc đối thoại, săn tìm những ý ẩn giấu, cố nắm bắt thực tại đằng sau những lời nói, nhưng dù cố bao nhiêu, dường như anh vẫn không thể tập trung đủ lâu chỉ để cảm nhận những xúc cảm mà lẽ ra anh phải thấy. Cơn kinh hãi đã ngăn anh cảm thấy bất cứ điều gì. Sau này, anh sẽ mô tả những gì anh cảm thấy khi đó như đang ở trên một ván bập bênh, với niềm sung sướng cực độ ở đầu này và sự mất mát tột cùng ở đầu còn lại, trong khi anh đang bị mắc kẹt ở giữa, hai chân ở hai bên, và nghĩ rằng chỉ một động tác nhầm lẫn về bất kỳ hướng nào cũng sẽ khiến anh ngã nhào xuống.
Trong phòng khám, anh đặt một tay lên bàn để đứng vững. Madeline cầm chùm chìa khóa lủng lẳng đi vòng qua chiếc bàn. Travis nhìn quanh phòng đợi, nhìn sang Madeline, rồi nhìn xuống sàn nhà. Khi ngước mắt lên, tất cả những gì anh có thể làm là lặp lại chính xác những gì nghe thấy trong điện thoại chỉ một lát trước đó.
“Cô ấy đã tỉnh,” cuối cùng anh nói.
Mười hai phút sau, sau ba mươi lần đổi làn đường và ba cột đèn giao thông rõ ràng đang màu vàng, có khi thậm chí đã chuyển sang đỏ, Madeline cho xe dừng lại ở cổng nhà điều dưỡng. Travis không nói một lời kể từ lúc vào xe, nhưng anh mỉm cười cảm ơn khi đẩy mở cửa xe.
Chuyến đi cũng chả làm được gì giúp đầu óc anh minh mẫn trở lại. Anh hy vọng hơn cả hy vọng và phấn khích vượt mức mọi thước đo; nhưng đồng thời, anh không thể xua đi suy nghĩ rằng vì lý do nào đó, anh đã hiểu lầm. Có thể cô đã tỉnh dậy trong giây lát rồi lại chìm vào hôn mê; có lẽ ai đó đã nhận sai thông tin từ đầu. Có lẽ Harris đã đề cập tới điều kiện y khoa mơ hồ nào đó cải thiện được chức năng của não, hơn là một kết quả rõ ràng. Đầu óc quay cuồng với những kịch bản thay phiên của hy vọng và tuyệt vọng khi anh bước về phía cổng vào.
Elliot Harris đang đợi anh và dường như bình tĩnh hơn nhiều so với những gì Travis tưởng tượng.
“Tôi đã gọi cho bác sĩ nội khoa và bác sĩ thần kinh, họ sẽ tới đây trong vài phút,” ông nói. “Sao giờ anh không lên phòng cô ấy nhỉ?”
“Cô ấy không sao, phải không ạ?”
Harris, một người đàn ông mà Travis hầu như chẳng quen thân, đặt tay lên vai anh, đẩy anh về phía trước. “Tôi gặp cô ấy,” ông nói. “Cô ấy đòi gặp anh mãi.”
Ai đó giữ cửa mở giùm anh – dù anh cố gắng đến đâu, anh vẫn không thể nhớ nổi đó là đàn ông hay phụ nữ – rồi Travis bước vào tòa nhà. Sang phải một chút là tới cầu thang, anh bước vội lên các bậc, càng lên cao càng loạng choạng. Trên tầng hai, anh kéo cánh cửa và trông thấy một y tá cùng một hộ lý đang chờ sẵn, như thể biết người bước vào là anh. Nhìn nét mặt hồ hởi của họ, anh đoán hẳn là họ đã trông thấy anh bước vào và muốn kể cho anh chuyện gì đã xảy ra, nhưng anh không dừng lại, còn họ để anh đi qua. Khi bước thêm một bước, anh cảm thấy chân mình như thể đang sắp sửa nhũn ra. Anh dựa người vào tường cho vững trong một lát, rồi bước tiếp một bước về phía phòng Gabby.
Đó là căn phòng thứ hai bên tay trái, và cửa phòng để mở. Khi anh tới gần hơn, anh nghe có tiếng người rì rầm nói chuyện. Bên cánh cửa, anh ngập ngừng, ước gì ít nhất mình cũng đã chải đầu, song anh biết điều đó không quan trọng. Anh bước vào, gương mặt Gretchen liền sáng bừng lên.
“Tôi đang ở bên bác sĩ tại bệnh viện thì ông ấy nhận được giấy báo, và tôi phải qua xem thế nào…”
Travis hầu như không nghe thấy cô. Thay vào đó, tất cả những gì anh có thể nhận ra là hình ảnh Gabby, người vợ của anh, đang yếu ớt dựa lên thành giường bệnh. Dường như cô đang mất phương hướng, nhưng nụ cười khi cô trông thấy anh đã nói với anh tất cả những gì anh cần biết.
“Tôi biết hai người có rất nhiều chuyện phải hàn huyên…,” văng vẳng tiếng Gretchen nói tiếp.
“Gabby?” sau cùng, Travis thầm thì.
“Travis,” giọng cô khàn khàn. Gọng cô nghe lạ lùng, khàn đặc và lè nhè vì lâu không nói, nhưng dù sao, đó vẫn là giọng của Gabby. Travis chậm chạp tiến về phía giường, đôi mắt anh chẳng một lần rời cô, không hay biết sau lưng anh, Gretchen đã lùi lại sau và đóng cánh cửa lại.
“Gabby?” anh lặp lại, gần như hoài nghi. Trong giấc mơ của anh, hay những gì anh coi là một giấc mơ, anh quan sát cô đưa tay từ giường lên bụng, như thể điều đó đã lấy đi toàn bộ sức lực của cô.
Anh ngồi xuống giường bên cô.
“Anh đã ở đâu?” cô hỏi, những lời khản đặc nhưng dẫu sao vẫn chan chứa tình yêu, rõ ràng đã tràn trề sức sống. Thức giấc. “Em không biết anh đã ở đâu.”
“Giờ anh ở đây,” Travis nói, và tới đó anh kiệt sức, tiếng nức nở của anh bỗng trào ra vỡ òa. Anh ngả người về phía Gabby, khao khát được cô ôm lấy mình, và khi cảm thấy bàn tay cô trên lưng anh, anh thậm chí bắt đầu khóc to hơn. Anh không mơ. Gabby đang ôm anh; cô biết anh là ai và cô có ý nghĩa đến thế nào với anh. Là thật, tất cả những gì anh có thể nghĩ, lần này, là thật…
Vì Travis không muốn rời Gabby nửa bước, bố anh đã nhận việc thay anh ở phòng khám trong vài ngày tiếp theo. Chỉ tới gần đây anh mới trở lại với điều gì đó giống như một lịch làm việc toàn thời gian, trong những ngày nghỉ cuối tuần thế này, khi các cô con gái chạy nhảy và đùa giỡn trên sân, còn Gabby đang trong bếp, đôi khi anh thấy mình đang phải cố níu lấy từng chi tiết trong năm vừa qua. Ký ức của anh về những tháng ngày anh trải qua trong bệnh viện đã trở nên lờ mờ, mơ hồ, như thể khi ấy anh cũng chỉ tỉnh táo hơn Gabby đôi chút.
Gabby dã không qua khỏi cơn hôn mê mà không bị hậu quả gì, tất nhiên là vậy. Cô giảm rất nhiều cân, cơ bắp teo lại, sự tê cứng đeo bám gần như cả thân người bên trái của cô. Phải mất vài ngày cô mới có thể đứng thẳng mà không cần giúp đỡ. Các liệu pháp chữa trị thì dai dẳng đến phát cáu; thậm chí đến tận bây giờ, cô vẫn mất hai tiếng hàng ngày với bác sĩ vật lý trị liệu, và ban đầu, cô thường trở nên thất vọng khi không làm được những điều đơn giản mà trước đó cô đã từng cho là đương nhiên. Cô ghét dáng vẻ hốc hác của mình trong gương và đã hơn một lần than phiền rằng trong cô như mới mười lăm tuổi. Trong những lúc như thế, Travis luôn bảo cô rằng cô rất đẹp, anh chưa từng chắc chắn về điều gì hơn thế.
Christine và Lisa mất một thời gian mới thích nghi được. Vào buổi chiều khi Gabby tỉnh dậy, Travis đã nhờ Elliot Harris gọi điện cho mẹ anh để bà tới trường đón các cô bé. Một giờ sau, cả gia đình sum họp, nhưng khi bước vào phòng, dường như cả Christine lẫn Lisa đều không muốn lại gần mẹ chúng. Thay vào đó, chúng cứ bám riết lấy Travis và chỉ trả lời bằng độc một từ trước bất cứ câu gì Gabby hỏi. Đêm hôm đó, Gabby được chuyển về bệnh viện và Travis đưa các con về nhà, Christine đã hỏi liệu “Mẹ thực sự quay về, hay mẹ sẽ lại ngủ tiếp.” Mặc dù các bác sĩ đã nói rõ rằng họ hầu như khẳng định cô sẽ không hôn mê lại, song họ cũng không hoàn toàn loại trừ khả năng đó, ít nhất là trong thời điểm hiện tại. Những sợ hãi của Christine cũng phản ánh những sợ hãi của anh, bất cứ khi nào anh thấy Gabby ngủ hoặc chỉ đơn giản đang nghỉ ngơi sau những ca trị liệu mệt lử, dạ dày Travis lại thắt lại. Hơi thở của anh sẽ trở nên nông hơn, và anh sẽ lay cô khe khẽ, càng lúc càng hoang mang hơn nếu cô không mở mắt. Cuối cùng khi cô động đậy, anh không che giấu nổi sự khuây khỏa và biết ơn. Ban đầu Gabby chấp nhận những lo âu của anh – cô thừa nhận suy nghĩ đó cũng khiến cô sợ hãi – nhưng nó bắt đầu khiến cô phát điên. Tuần trước, khi trăng đã lên rất cao và lũ dế gáy râm ran, Travis bỗng đập vào cánh tay cô khi cô đang nằm cạnh anh. Mắt cô mở choàng và cô tập trung nhìn đồng hồ, nhận ra lúc đó mới chỉ hơn ba giờ sáng một chút. Một lát sau, cô ngồi dậy trên giường và chằm chằm nhìn anh.
“Anh phải thôi làm thế này đi! Em cần giấc ngủ của em. Một giấc ngủ không gián đoạn, một giấc ngủ bình thường, như bất kỳ ai khác trên thế giới! Em mệt lử đi rồi, anh không hiểu sao? Em từ chối sống từ nay đến hết đời khi biết rằng anh sẽ gọi em dậy mỗi tiếng đồng hồ!”
Đó chỉ mới tới mức là lời phê bình; thậm chí chưa được xếp vào một cuộc cãi vã, vì anh không còn có thời gian phản ứng lại trước khi cô quay lưng lại phía anh, tự lẩm bẩm một mình – nhưng nó khiến Travis cảm thấy… rất Gabby, khiến anh thở dài một tiếng nhẹ nhõm. Nếu cô không còn lo lắng sẽ hôn mê trở lại – và cô đã thề sẽ không hôn mê lại – thì anh biết anh cũng không nên lo lắng. Hoặc, ít nhất, anh có thể để cô yên giấc. Nếu thành thật với bản thân, anh cũng không chắc liệu có bao giờ nỗi sợ hãi đó hoàn toàn biến mất. Giờ đây, giữa đêm khuya, anh chỉ lắng nghe tiếng cô thở, và khi nhận ra những nhịp thở khác nhau, những khác biệt không xảy ra khi cô đang hôn mê, sau cùng anh mới có thể cuộn người ngủ lại.
Tất cả đều đang thích nghi, anh biết điều đó sẽ cần thời gian. Rất nhiều thời gian. Nhưng họ vẫn chưa nói tới việc anh đã bất chấp bản di chúc sống, và anh tự hỏi liệu có bao giờ họ nói tới chuyện đó. Anh vẫn chưa kể cho Gabby về những cuộc chuyện trò trong tưởng tượng giữa cô và anh khi cô còn nằm trong viện, cô cũng chẳng có gì để nói về cơn hôn mê. Cô chẳng nhớ bất cứ điều gì: không mùi vị, không âm thanh từ tivi, không cả những cái động chạm của anh. “Giống như thời gian đã… biến mất.”
Nhưng điều đó cũng tốt thôi. Cũng nên như vậy. Đằng sau, anh nghe tiếng cửa mở ra cọt kẹt và quay lại. Từ xa, anh có thể trông thấy Molly đang nằm trong bụi cỏ cao bên cạnh nhà; Moby, giờ đã trở thành một anh già, đang nằm trong góc. Travis mỉm cười khi Gabby bí mật quan sát bọn trẻ, nhận ra vẻ mặt mãn nguyện của cô. Khi Christine đẩy xích đu cho Lisa và cả hai cùng cười khanh khách, Gabby ngồi xuống ghế bập bênh bên cạnh Travis.
“Bữa trưa đã sẵn sàng,” cô nói. “Nhưng em nghĩ sẽ để chúng chơi thêm vài phút nữa. Chúng đang chơi vui quá.”
“Ừ, đúng thế. Trước đó, chúng làm anh mệt bã người.”
“Anh có nghĩ có lẽ lát nữa, khi Stephanie tới đây, tất cả chúng ta có thể tới công viên thủy sinh? Và có lẽ sẽ đi ăn pizza sau đó? Em thèm pizza đến chết mất thôi.”
Anh mỉm cười, nghĩ rằng mình có thể đắm chìm trong giây phút này mãi mãi. “Nghe tuyệt đấy. À phải rồi, nhắc anh mới nhớ. Anh quên không nói mẹ em đã gọi tới khi em đang trong buồng tắm.”
“Lát nữa em sẽ gọi lại cho bà. Và em phải gọi cho bên sửa máy bơm nhiệt[1] nữa. Tối qua phòng các con chẳng mát hơn chút nào.”
“Có khi anh sửa được đấy.”
“Em không nghĩ vậy. Lần trước khi anh cố sửa nó, chúng ta đã phải mua nguyên một cái mới. Anh nhớ chứ?”
“Anh nhớ là em đã không cho anh đủ thời gian.”
“Vâng, vâng,” cô trêu đùa. Cô nháy mắt với anh. “Anh muốn ăn ở ngoài này hay trong kia?”
Anh giờ vờ đắn đo câu hỏi, biết rằng điều đó thực sự không quan trọng. Ở đây hay trong nhà, họ đều bên nhau. Anh cùng với người phụ nữ và những đứa trẻ anh yêu, ai có thể yêu cầu hay đòi hỏi bất kỳ điều gì hơn thế? Mặt trời tỏa sáng rực rỡ, những bông hoa nở rộ, một ngày sẽ trôi qua với sự thoải mái thảnh thơi mà mới chỉ mùa đông năm ngoái thôi đã không thể nào tưởng tượng ra. Một ngày bình thường, một ngày như bao ngày khác. Nhưng trên hết thảy, đó là một ngày mà mọi thứ trong đó đều diễn ra đúng như cách chúng nên diễn ra.
Chú thích
[1] Để sưởi ấm hoặc làm mát một tòa nhà.
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.