Bob núp góc đường chăm chú quan sát ngôi nhà bên bờ bãi biển. Không thấy ai quanh nhà.
– Bọn mình đến gần hơn đi, – Peter nói.
Hai thám tử cột xe đạp vào hàng rào, rồi đi xuống con đường vắng vẻ dẫn đến ngôi nhà nhỏ, nhà gần như biến mất trong đám cây mọc rậm không ai chăm sóc.
– Cửa nhà xe mở! – Peter la lên.
Đi sát bờ tường tróc sơn, hai thám tử lẻn vào khu vườn lộn xộn và đi về hướng nhà xe. Cửa mở nên có thể nhìn thấy bên trong. Xe tải nhẹ màu kem có trong đó, nhưng không thấy xe môtô đâu.
– Chắc là hắn xách xe đi chơi một vòng rồi, – Peter phán.
– Nếu vậy thì bọn mình có thể lục soát nhà và mình dám chắc là sẽ đụng đầu với thuyền trưởng Coulter nữa, – Bob trả lời.
– Mình không thích nói chuyện với ma lắm, – Peter đáp. – Nếu trong nhà này có ma, thì mình không cần biết cũng được.
– Mình không nói về ma, mà nói về trang phục, Peter à. Mình nghĩ chính Sam đã giả làm ma tối hôm qua.
– Còn lần đầu tiên, ở đây, cũng là Sam nữa à?
– Mình gần như chắc là như vậy, và có lẽ Babal cũng nghĩ thế, Bob nói. Nhưng bọn mình cần bằng chứng. Nếu lục nhà, có thể sẽ tìm ra chứng cớ.
Peter có vẻ không được thuyết phục lắm.
– Babal có dặn bọn mình là phải cảnh giác theo dõi và chờ Sam về.
– Nhưng đây là cơ hội duy nhất để tự mình biết hắn đang âm mưu gì! Đâu phải lúc nào Babal cũng chỉ ra lệnh cho bọn mình mà thôi. Có lúc thám tử phải tự biết suy nghĩ chứ!
– Thôi được, – Peter vẫn do dự nói. – Vào thử đi.
Hai thám tử thận trọng đi sát bờ tường, rồi lên sân hiên đang sụp đổ. Hai bạn lặng lẽ bước lên các bậc thềm, nhìn qua lớp kính dơ bẩn ở cửa sổ. Lần này rèm cửa sổ được vén lên. Hai thám tử không thấy ai. Bên trong không có gì động đậy. Peter thử mở cửa sổ, nhưng không được.
– Bọn mình hãy sang bên hông xem, Peter đề nghị. Sam không thuộc loại người hay khóa cửa cẩn thận đâu.
– Sao không thử mở cửa vào? – Bob nói.
Bob xoay tay cầm và cánh cửa mở ra.
Peter thở dài:
– Dễ quá!
Bên trong, sàn phòng khách rải đầy vỏ thực phẩm ăn nhanh, lon nước ngọt và bụi bậm. Quần áo dơ bỏ đầy dưới đất và trên bàn ghế. Ngăn kéo bàn và ngăn kéo tủ buffer đầy áp đồ cũ vô dụng đến nỗi không đóng kín được nữa.
Phòng khách này không cho biết được gì cả, ngoại trừ Sam Ragnardson sống như tên ăn mày – điều mà Ba Thám Tử Trẻ đã biết rồi.
Phòng ăn hoàn toàn trống rỗng.
Chỉ có hai phòng ngủ. Phòng đầu tiên chứa những đống lốp xe cũ, kính hậu, ruột xe, tay cầm cửa xe, vải bọc yên xe và đủ loại phụ tùng xe khác. Chưa kể xe đẩy siêu thị, bảng nhà bằng đồng, cửa cũ…
– Chắc là hắn ăn cắp rồi đem đi bán lại, – Peter nói.
– Có thể, nhưng điều này không giúp bọn mình hiểu được hắn làm gì trên hòn đảo Những Người Đắm Tàu.
Trong phòng thứ nhì, một cái giường chứa chăn tỏa ra mùi khăm khẳm. Có cả bàn viết vả tủ áo.
– Trống! – Peter nhìn tủ thử và báo cáo.
Chỉ còn nhà bếp, nơi ba thám tử đã gặp thuyền trưởng Coulter lần trước. Bếp dơ dáy, bừa bộn, ngăn gần như không có đồ và tủ lạnh.
– Xong, – Bob kết luận. – Không có manh mối nào cả.
– Bọn mình chưa lục soát nhà xe, – Peter nói.
– Đúng.
Hai thám tử chạy ra nhà xe. Nhà xe như sắp sụp đổ với mấy tấm ván không sơn và hở nhiều. Bên trong, Peter chỉ vết dầu; có lẽ là chỗ thường để xe môtô. Bob gật đầu. Đúng lúc đó, hai bạn để ý thấy cánh cửa cuối nhà xe.
– Chắc là cái tủ gì đó, – Bob nói.
Cửa đóng, nhưng không khóa. Thật vậy, sau cánh cửa là một khoảng chật hẹp chất đầy cần câu cá, ván lướt sóng, phụ tùng xe đạp và thậm chí cả những mảnh gỗ ván ép. Có cửa sổ nhỏ chiếu sáng. Ở cuối, là bàn thợ.
– Bộ đồ Viking của Sam kia! – Peter la lên.
Bộ áo lông giả treo ở cái đinh đóng trên tường. Mũ nồi, giày và dải da để trên bàn thợ. Tấm chắn, thanh gươm và túi đi biển nằm dưới đất. Peter mở túi ra rồi ngước mắt lên nhìn Bob.
– Con ma đây rồi!
Thật vậy, trong cái túi có mũ kết viền vàng, áo vét xanh dương nút đồng, quần ống nhỏ, giày bốt kiểu xưa và ống nhòm. Chỉ thiếu con dao. Nhưng có một bộ đồ thủy thủ và rong tảo: đó là con ma thứ nhì, ma của người thủy thủ chết đuối mà hai ông Ragnardson có nói.
– Trúng phóc! – Peter kêu.
– Vậy, đúng là Sam chơi trò làm ma, y như mình nghĩ, – Bob đắc thắng nói. – Lần đầu tiên bọn mình đến đây, đúng là Sam hóa trang bằng bộ trang phục này.
– Và hắn giả giọng nữa: nói chuyện như một ông già và theo lối nói thời xưa, – Peter nói thêm. – Mà phải nói là lúc đó, bọn mình chưa hề nhìn thấy Sam không đội mũ có miếng che mũi.
– Đúng, – Bob thừa nhận. – Có lẽ hắn bị bọn mình đến quấy đúng lúc đang tập diễn vai. Hắn thử những tư thế khác nhau và nhìn vào kính cửa sổ để soi gương.
– Thử xem còn gì nữa không.
Peter lục trong những đồ chất đầy trong tủ, còn Bob xem xét bàn thợ. Peter bò xuống lục mọi góc kẽ. Bob leo lên dầm mái. Chính Bob tìm ra cái hộp giấu trên rui nhà. Bob nhảy xuống, mở hộp ra trước mặt Peter.
– Cái gì vậy? – Thám tử phó hỏi.
– Đúng chỗ ngứa rồi, – lưu trữ viên trả lời. – Đây là nguyên nhân tại sao Sam muốn mọi người phải rời khỏi đảo.
Peter nhìn vào hộp.
Hộp chứa năm đồng tiền vàng to, sáng bóng. Và vài cục đá vàng. Bob cầm thử một đồng tiền lên và đọc năm:
– 1897. Còn đá, mình đoán là vàng cục thiên nhiên.
Bob và Peter nhìn nhau.
– Vàng Ngôi sao Panama! – Peter kêu khẽ.
Rồi Peter huýt sáo dài.
– Sam tìm thấy vàng trên hòn đảo Những Người Đắm Tàu, – Bob nói.
– Và hắn muốn mọi người rời khỏi đảo để hắn tiếp tục tìm số vàng còn lại, – Bob nói hết.
Đúng lúc đó có tiếng môtô vang lên. Hai thám tử như bị hóa đá.