Thiên Đường Có Thật
CHƯƠNG 16: POP
VÀO MỘT NGÀY THÁNG TÁM ĐẦY NẮNG, Colton bốn tuổi nhảy vào ghếsau xe tôi và cả hai cha con thẳng tiến đến Benkelman. Tôi phải lái xe đến đó để dự thầu và quyết định mang Colton theo. Thằng bé không thích việc lắp đặt cửa ga-ra cỡ lớn cho lắm. Nhưng thằng bé thích ngồi trên chiếc Chevy Diesel của tôi vì, khác với chiếc Expidition vốn có tầm nhìn từ ghế sau hạn chế, trong chiếc Chevy này, ghế ngồi của nó được đặt cao hơn và nhờ thế, nó có thể nhìn thấy mọi thứ.
Benkelman là một thị trấn nông nhiệp nhỏ khoảng 38 dặm về phía Nam Imperial. Được sáp nhập vào năm 1887, thị trấn này hơi thưa thớt một chút ở vùng ngoại ô giống như nhiều cộng đồng ở vùng nông thôn Nebraska, dân số nơi này giảm khi công nghệ thay thế dần trong việc đồng áng và người ta phải chuyển đến các thành phố lớn hơn để kiếm việc. Tôi lái xe qua những nhà máy phân bón và chế biến khoai tây quen thuộc mọc lên ở cực Đông Imperial, rồi rẽ về phía Nam đến Enders Lake. Chúng tôi lái xe đến sân golf thành phố, nơi được điểm xuyết bởi những cây tuyết tùng, và sau đó, khi đi qua một cái đập bê tông, phía tay phải chúng tôi là mặt nước hồ lóng lánh. Colton nhìn xuống một chiếc xuồng máy kéo theo một người lướt sóng trên những đợt sóng bọt trắng xóa tạo ra khi xuồng rẽ nước. Chúng tôi băng qua cái đập, chạy xuống thung lũng, và đi lên trên một dải đường cao tốc dẫn thẳng về phía nam. Lúc này, hàng hécta đất nông nghiệp trải theo hình quạt quanh chúng tôi, những thân cây bắp cao 1,8 mét màu xanh lá vươn lên trên nền trời, và con đường như xẻ ngang qua chúng như một lưỡi dao.
Bất chợt, Colton lên tiếng. “Ba ơi, ba có một người ông tên Pop, phải không?”
“Đúng rồi,” tôi trả lời.
“Ông cố là ba của bà nội hay là ba của ông nội?”
“Ông cố là ba của bà nội con. Ông mất khi ba còn nhỏ tuổi hơn con.”
Colton cười. “Ông cố tốt lắm.”
Tôi suýt nữa đã lạc tay lái rẽ vào ruộng bắp. Thật kỳ lạ khi con trai bạn sử dụng thì hiện tại để nói về một người đã mất trước khi thằng bé ra đời những một phần tư thế kỷ. Nhưng tôi vẫn cố giữ bình tĩnh. “Vậy là con đã thấy ông cố Pop?” Tôi hỏi.
“Dạ, con đã ở cùng ông trên thiên đường. Ngày xưa, ba rất thân với ông cố, phải không ba?”
“Đúng, ba rất thân với ông cố,” là tất cả những gì tôi có thể nói. Đầu tôi quay cuồng. Colton vừa bắt đầu một chủ đề hoàn toàn mới “những người đã khuất, và gặp gỡ họ nơi thiên đường”. Thật kì lạ, sau tất cả những cuộc nói chuyện về Chúa Giêsu, các thiên thần và ngựa, tôi chưa từng nghĩ đến việc hỏi xem Colton đã gặp ai mà tôi có thể biết. Mà lúc đó, tôi làm sao có thể nghĩ đến được? Gia đình tôi chưa từng mất ai trong gia đình, hay bạn bè từ khi Colton ra đời, vậy thì có ai để nó gặp được đây?
Giờ thì tôi sẽ lái xe đi thêm 10 dặm nữa đến Benkelman, trong đầu chất chứa nhiều suy nghĩ. Chẳng mấy chốc, những cánh đồng ngô bị thay thế bởi những đồng lúa mì rạ vàng vuông vức đã qua mùa gặt. Tôi không muốn phạm sai lầm tương tự khi tôi đưa ý tưởng vào đầu Colton – chẳng hạn như người ta phải chết trước khi được vào thiên đường. Tôi không muốn thằng bé nói những điều làm tôi hài lòng. Tôi muốn biết sự thật.
Bên tay trái, cách con đường một phần tư dặm là một gác chuông nhà thờ màu trắng trông như vươn lên từ khóm bắp. Nhà thờ Thánh Paul thuộc giáo hội Lutheran, được xây năm 1918. Tôi tự hỏi liệu có ai ở ngôi nhà thờ lâu đời này nghĩ đến những điều con trai bé bỏng của chúng tôi đã kể.
Cuối cùng, khi lăn bánh vào Hạt Dundy, tôi đã sẵn sàng với những câu hỏi mở. “Colton này,” tôi lên tiếng.
Đang nhìn qua cửa xe để, quan sát những người nông dân giữa những luống bắp, thằng bé quay lại. “Gì ạ?”
“Này Colton, ông cố trông như thế nào?”
Cu cậu nhe răng cười toe toét. “Ô, ba ơi, ông cố có đôi cánh thật là lớn.”
Lần nữa, thằng bé dùng thì hiện tại. Thật kỳ quặc.
Colton nói tiếp. “Đôi cánh của con thì nhỏ, nhưng cánh của ông cố thì lớn!”
“Ông cố mặc đồ gì?”
“Ông cố mặc đồ trắng, nhưng ở chỗ này thì màu xanh,” thằng bé nói, lại làm động tác ám chỉ khăn choàng vai.
Tôi nghiêng xe để tránh một cái thang ai đó làm rơi trên đường rồi đánh tay lái trở lại. “Và con đã gặp ông cố?”
Colton gật đầu, đôi mắt nó như sáng lên.
“Khi ba còn nhỏ,” tôi nói, “ba đã chơi với ông cố rất vui.”
Tôi không kể với Colton tại sao tôi đã sống rất lâu cùng ông cố Pop và bà cố Ellen ở nông trại tại vùng Ulysses, Kansas. Mẹ tôi là một cô giáo tiểu học tên Kay. Cha tôi là một nhà hóa học làm việc cho hãng Kerr-MacGee Petroleum và mắc chứng rối loạn thần kinh lưỡng cực. Nhiều lúc, bệnh của ông nặng đến nỗi mẹ tôi phải đưa ông vào bệnh viện. Mẹ gửi tôi đến chỗ ông cố để tránh cho tôi bị ảnh hưởng. Lúc đó, tôi không biết mình được “gửi đi” – tôi chỉ thấy thích thú được chạy chơi khắp nông trại, đuổi bắt gà và săn thỏ.
“Ba đã có nhiều thời gian sống tại nhà của ông bà ở nông thôn,” tôi kể với Colton. “Ba đã cưỡi trên chiếc máy gặt đập và xe máy kéo với ông. Ông cố có một con chó, và hai ông cháu đã đi săn thỏ cùng nó.”
Colton lại gật đầu: “Dạ, con biết ạ. Ông cố đã kể cho con.”
Tôi không biết nói gì nên tôi kể với Colton, “Tên nó là Charlie Brown, và nó có một mắt màu xanh với một mắt màu nâu.”
“Hay quá!” Colton nói. “Mình có thể nuôi một con chó được không ba?”
Tôi cười. “Để xem.”
Ông của tôi, Lawrence Barber, là nông dân và là một người quảng giao ai cũng xem ông là bạn. Ông bắt đầu ngày mới từ trước bình minh, rồi nhịp nhàng chạy đi chạy lại từ nông trại ở Ulysses, Kansas, xuống của hàng bánh donut trong vùng. Ông là một người cao lớn; ông hoạt động hết mình trong những ngày trước khi qua đời. Bà tôi – Ellen (cũng là người đã gửi tiền giúp trả viện phí cho Colton), từng nói rằng phải cần đến bốn cầu thủ bóng bầu dục mới hạ được ông.
Ông cố lâu lâu mới đi nhà thờ. Ông là người có đời sống tâm linh kín đáo, như hầu hết nam giới. Khi tôi khoảng 6 tuổi, một đêm nọ ông mất vì lạc tay lái trên đường. Chiếc Crown Victoria đâm phải một cột điện khiến nó gãy làm đôi. Nửa trên cột điện đổ xuống đè lên mui xe, nhưng quán tính khiến xe chở ông chạy thêm cả nửa dặm vào một cánh đồng. Vụ tai nạn làm một trại chăn nuôi gần đó bị mất điện, khiến một nhân viên ở đó phải đi ra ngoài tìm hiểu sự tình. Ông cố rõ ràng vẫn còn sống và còn thở ngay sau vụ tai nạn, vì người nhân viên đó phát hiện ng nằm vắt qua ghế hành khách, với tay mở cửa để ra khỏi xe. Nhưng khi xe cứu thương đưa ông đến bệnh viện, các bác sĩ nói ông đã chết. Lúc đó, ông chỉ mới 60 tuổi.
Tôi còn nhớ mẹ tôi đã đau buồn biết bao trong đám tang của ông, và nỗi đau của bà vẫn còn đeo đẳng sau đó. Lúc đã trưởng thành, tôi có đôi lần bắt gặp mẹ cầu nguyện, nước mắt lăn dài trên má. Khi tôi hỏi, bà tâm sự rằng, “Mẹ lo không biết ông cố có được lên Thiên đường không.”
Rất lâu sau đó, vào năm 2006, chúng tôi mới biết được từ dì Connie của tôi, về một thánh lễ đặc biệt mà ông cố tham dự chỉ 2 ngày trước khi chết – một thánh lễ có thể hé lộ mệnh số bất tử của ông ngoại tôi.
Đó là vào ngày 13 tháng bảy năm 1975, tại Johnson, Kansas. Mẹ tôi và dì Connie có một người chú tên Hubert Caldwell. Tôi thích ông chú Hubert. Ông không chỉ là một mục sư miền đồng quê giản dị, mà còn thích trò chuyện và là người mà ta có thể chia sẻ tâm sự rất dễ dàng. (Tôi cũng rất thích ông vì ông thấp người, thấp hơn tôi. Rất hiếm khi tôi gặp ai mà phải nhìn xuống đến nỗi tôi thích thú với mỗi dịp như vậy.)
Ông chú Hubert đã mời ông cố, dì Connie, và nhiều người khác đến dự các buổi lễ phục hồi đức tin mà ông chủ trì tại xứ đạo nhỏ miền quê của mình. Đứng sau bục giảng tại nhà thờ Chúa Dòng Đức tin sứ đồ, ông chú Hubert kết thúc thông điệp của mình bằng việc hỏi xem có ai muốn dâng hiến cuộc đời mình cho Chúa Ki-tô. Ông chú Hubert thấy ông cố giơ tay lên. Nhưng không biết vì sao mẹ tôi không nhớ được chuyện này, và thế là bà thi thoảng vẫn lo lắng về việc ông có được lên thiên đường không trong suốt 28 năm sau đó.
Sau khi chúng tôi từ Benkelman trở về nhà, tôi gọi và kể cho mẹ tôi nghe về những gì Colton nói. Đó là vào ngày thứ sáu. Sáng hôm sau, bà lên xe, chạy suốt từ Ulysses đến để nghe những điều cháu nội mình kể về cha của bà. Chúng tôi thật ngạc nhiên vì bà đến thăm ngay lập tức như thế.
“Anh này, chắc hẳn mẹ đã đi thẳng một hơi đến nhà mình!” Sonja nói.
Quanh bàn ăn tối hôm đó, Sonja và tôi lắng nghe Colton kể cho bà nội về con ngựa cầu vồng của Chúa Giêsu và lúc gặp ông cố. Điều khiến mẹ tôi ngạc nhiên nhất chính là ông cố nhận ra cháu cố của mình dù hàng chục năm sau khi ông mất, Colton mới ra đời. Điều đó khiến bà tự vấn liệu những người đã qua đời trước chúng ta vẫn biết được những gì diễn ra trên trần gian này. Hoặc có phải ở trên thiên đường, chúng ta sẽ biết về những người yêu dấu – thậm chí những người ta chưa bao giờ gặp trên đời – theo cách nhận biết của thế giới bên kia mà trên thế gian này chúng ta không thể có được.
Thế rồi mẹ tôi hỏi Colton một câu hỏi kì quặc. “Vậy Chúa Giêsu có nói gì về việc ba của con trở thành mục sư không?”
Ngay lúc tôi vẫn còn thầm hỏi vì sao bà lại nhắc tới nghề nghiệp của tôi, Colton khiến tôi ngạc nhiên khi gật đầu một cách nhiệt tình. “À, có! Chúa Giêsu nói Ngài đến với ba và bảo Ngài muốn ba trở thành mục sư và ba nói xin vâng, và Chúa Giêsu rất hài lòng.”
Tôi suýt nữa là đã ngã khỏi ghế. Đúng là như vậy, và tôi vẫn nhớ rất rõ cái đêm điều đó xảy đến. Tôi mới 13 tuổi và đang tham dự một trại hè thanh niên ở Đại Học John Brown thuộc vùng Siloam Springs, Arkansas. Trong một cuộc họp đêm, Đức Cha Orville Butcher đưa ra một thông điệp về cách Chúa kêu gọi người ta vào đoàn mục sư để thực hiện sứ vụ của Người trên toàn thế giới.
Mục sư Butcher thấp người và hói đầu nhưng đầy nhiệt huyết và thu hút, không hề buồn chán và khô cứng như cách trẻ con vẫn nghĩ về một mục sư già. Ông thách thức nhóm thiếu niên 150 người tối hôm đó: “Có một số người trong các con ở đây tối nay có thể được Chúa chọn làm mục sư và người truyền giáo của Người.”
Ký ức về giây phút đó là một trong những ký ức rõ rệt nhất, tinh tuyền và nổi trội, như lúc bạn tốt nghiệp trung học hoặc khi đứa con đầu lòng của bạn chào đời. Tôi nhớ đám trẻ con nhòa dần và giọng của cha nhỏ dần. Tôi cảm thấy một sức ép đè nặng trong tim, gần như một lời thì thầm: Là con đó, Todd. Đó chính là điều Ta muốn con làm.
Tâm trí tôi không hề hoài nghi rằng mình vừa nghe Chúa nói. Tôi quyết tuân lời. Tôi quay trở về thực tại với mục sư Butcher vừa kịp nghe ông nói nếu ai trong chúng tôi nghe tiếng Chúa vào đêm đó, nếu ai trong chúng tôi cam kết phụng sự người trong đoàn mục sư thì nên kể cho một ai đó khi trở về nhà để ít nhất cũng có một người khác biết. Thế là khi trở về nhà, tôi đi ngay vào bếp.
“Mẹ ơi,” tôi nói, “lớn lên, con sẽ làm mục sư.”
Từ ngày hôm ấy, cả chục năm trước, mẹ con tôi đã nhắc lại cuộc trò chuyện đó vài lần. Nhưng chúng tôi chưa hề kể cho Colton nghe về việc này.
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.