Mười Một Năm Chờ

CHƯƠNG 20



Anh không bao giờ hối tiếc về quyết định của mình. Trong vòng một tuần, anh nhận biết giống như anh, Eleanor Stern có thể cố gắng làm việc không mệt mỏi, với tốc độ chết người mà không bao giờ uể oải hoặc bực bội. Khi anh giao cho bà càng nhiều trách nhiệm, thì bà càng hoàn tất nhiều hơn. Họ chưa bao giờ nối lại bức rào chắn đã được dựng thẳng giữa họ khi bà lộ vẻ lo lắng vì ý đồ của anh. Lúc đầu họ chỉ là quá say mê công việc nên không có thời gian nghĩ đến.
Sau đó dường như nó không còn là vấn đề, tạo thành thói quen làm việc hàng ngày, và nó đều tốt cho cả hai khi Matt đã lên đến đỉnh cao, và bà đã làm việc ngày đêm bên cạnh anh, không một lời than phiền. Thực ra, bà gần như là một tài sản cần thiết với sự nghiệp của anh, và, giữ đúng lời, anh đã khen thưởng cho sự nỗ lực và lòng trung thành bà: mức lương của Stern là $65,000 mỗi năm – nhiều hơn cả mức lương của những người điều hành cấp trung.
Bây giờ, bà đi theo anh vào văn phòng và đợi anh đặt cặp táp xuống mặt bàn bằng gỗ hồng mộc đánh bóng mới được mang đến. Thông thường anh sẽ trao cho bà ít nhất là một cuộn băng thu âm nhỏ kèm theo hướng dẫn và bảo bà viết ra giấy. “Không có gì phải viết ra cả,” hôm nay Matt giải thích, mở chốt cặp táp và trao cho bà một tập hồ sơ. “Tôi không có cơ hội xem lại bản hợp đồng Simpson trên máy bay. Chiếc Lear có vấn đề về động cơ, vì vậy tôi phải bay bằng máy bay thương mại đến đây. Đứa bé ngồi trước tôi rõ ràng là có vấn đề với hai tai của nó, nó đã la hét trong suốt chuyến bay.”.
Bởi anh đã bắt đầu cuộc trò chuyện, bà Stern rõ ràng cảm thấy cần phải tham gia:
“Ai đó lẽ ra nên làm gì đó với nó.”.
“Người đàn ông bên cạnh tôi tình nguyện dỗ nó,” Matt nói, “nhưng mẹ của đứa bé chẳng thèm nghe theo ông ta mà nghe theo giải pháp của tôi.”.
“Giải pháp của anh là gì?”.
“Cho một ly vodka pha chút rượu mạnh.” Đóng cặp lại, anh nói, “Nhân viên văn phòng ở đây có được không?”.
“Một số rất chu đáo. Tuy nhiên, Joanna Simons, người mà anh đã đi ngang qua khi vào đây, không được tốt cho lắm. Người ta đồn rằng cô ấy còn hơn là một thư ký cho ông Morrissey, mà tôi cũng đoán vậy. Vì kỹ năng làm việc không có, thì tài năng của cô ta phải nằm ở chỗ khác.”.
Matt thấy rõ sự không chấp nhận của bà về chuyện không đứng đắn đó. Hất nhẹ đầu về phía phòng hội nghị nối tiếp với văn phòng của mình, anh hỏi, “Mọi người đều ở trong đó hả?”.
“Dĩ nhiên.”.
“Tất cả bọn họ đều có bản photo chương trình nghị sự chứ?”.
“Dĩ nhiên.”.
“Tôi đang đợi một cuộc gọi từ Brussels trong một tiếng đồng hồ tới,” Matt nói, bắt đầu đi về phía phòng hội nghị. “Chuyển nó cho tôi ngay, còn những cuộc gọi khác thì đừng.”.
Sáu giám đốc tài năng nhất của Intercorp đang ngồi trên cặp ghế sofa dài bọc da màu đỏ sẫm đối mặt với nhau qua bàn cà phê bằng kính và cẩm thạch lớn trong phòng hội nghị. Họ đứng lên khi Matt đi đến phía trước, mỗi người đều bắt tay anh, mỗi người cố gắng đọc nét mặt anh để có thể nhìn thấy vài dấu hiệu về kết quả của chuyến đi đến Hy Lạp của anh. “Mừng anh đã quay trở về, Matt,” người đàn ông cuối cùng Matt bắt tay nói. “Đừng có làm cho chúng tôi hồi hộp nhé,” Tom Anderson bổ sung. “Athens thế nào rồi?”.
“Cực kỳ vui vẻ,” Matt trả lời trong khi tất cả bọn họ di chuyển sang bàn hội nghị. “Intercorp bây giờ sở hữu một chiếc tàu chở xe bồn.”.
Vẻ chiến thắng bao trùm lên tất cả và cảm giác dễ chịu tràn qua phòng, rồi những giọng nói oà ra khi mọi người bắt đầu thảo luận về những dự định cho “thành viên mới” trong gia đình Intercorp.
Ngả người trên ghế, Matt quan sát sáu người điều hành năng động đang ngồi trước mặt anh. Tất cả bọn họ đều là những người đàn ông rất năng nổ, tận tụy, và cực giỏi trong lĩnh vực riêng của họ. Năm người đã đến từ đại học Harvard, Princeton, Yale, Học viện công nghệ Massachusetts và Đại học California, với kiến thức từ lĩnh vực nghiệp vụ ngân hàng quốc tế đến tiếp thị. Năm người đang mặc đổ vest đặt may trị giá $800, áo sơ mi vải Ai Cập được thêu tên một cách kín đáo, và những chiếc cà vạt lụa được chọn cẩn thận. Ngồi chung với nhau như lúc này, họ trông giống trang quảng cáo bốn màu cho anh em Brooks – với tựa đề:
khi bạn đã đạt đến đỉnh cao, chỉ có thứ tốt nhất mới xứng với bạn.
Ngược lại, người thứ sáu, Tom Anderson, là một hình ảnh trái ngược trong cái áo khoác màu xanh và nâu sọc, quần xanh, và cà vạt kẻ hoa. Quan điểm của Anderson về quần áo sang trọng là đề tài thích thú của năm người đàn ông ăn mặc không chê vào đâu được còn lại trong nhóm tiếp quản, nhưng họ hiếm khi chọc ông. Vì một lý do là rất khó mà châm chọc một người đàn ông cao gần hai mét và nặng hơn một trăm mười cân.
Anderson có bằng cấp tương đương bằng trung học, chưa từng học đại học, và ông hung hăng tự hào về nó. “Bằng cấp của tôi đến từ trường đời,” ông luôn tuyên bố như vậy mỗi khi ai đó hỏi đến chuyện học vấn của ông. Những gì ông không nói ra là ông có một tài năng kỳ lạ mà không trường lớp nào có thể dạy:
ông có một bản năng nhận biết được bản chất của con người. Trong vòng vài phút nói chuyện với một người đàn ông, Anderson nhận ra một cách chính xác những động cơ thúc đẩy anh ta hành động, dù cho đó là tính kiêu ngạo, tham lam, tham vọng, hay gì khác.
Ngoài mặt ông là một người nói chuyện thẳng thắn, một con gấu khổng lồ, một người đàn ông thích xắn tay áo lên làm việc. Bên dưới vẻ ngoài không trau chuốt, Tom Anderson có năng khiếu thương lượng… và tài năng vô giá trong việc giải quyết những sự cố nan giải, nhất là khi ông đại diện Intercorp tiếp xúc với công đoàn.
Nhưng trong tất cả những phẩm chất của ông, phẩm chất mà Matt đánh giá cao nhất là trung thành. Thực ra, ông là người đàn ông duy nhất trong phòng không bán tài năng cho người trả giá cao nhất. Ông đã làm việc cho công ty đầu tiên mà Matt mua. Khi anh bán nó đi, Anderson nắm lấy cơ hội của ông với Matt chứ không làm cho những người sở hữu mới tuy họ đã dành cho ông một vị trí cao hơn và một mức lương tốt hơn.
Matt trả lương cho những người khác trong nhóm tiếp quản đủ để đảm bảo họ sẽ không bị những đối thủ cạnh tranh khác lôi kéo, anh trả Anderson cao hơn nữa vì ông hoàn toàn dành hết sức mình cho anh và Intercorp. Anh không bao giờ hối tiếc với những gì phải trả cho họ vì, khi là một đội, họ là một đội tốt nhất – nhưng bản thân Matt là người lèo lái tài năng của bọn họ theo đúng hướng. Chiến lược tổng thể cho sự phát triển của Intercorp là do một mình anh tạo dựng, và thay đổi cho phù hợp. “Các vị,” anh nói, làm gián đoạn cuộc thảo luận về tàu chở bồn của họ, “chúng ta sẽ bàn về tàu chở bồn vào một dịp khác.
Chúng ta hãy nói về những vấn đề của Haskell đi.”.
Phương pháp của Matt cho người nắm giữ chức vụ ngay sau khi mua là một phương pháp độc đáo và hiệu quả. Thay vì phải lãng phí mấy tháng để sắp xếp lại công ty, tìm ra nguyên nhân và cách giải quyết, loại bỏ những người điều hành không đáp ứng tiêu chuẩn của Intercorp, Matt làm khác hẳn: anh gửi nhóm tiếp quản đến làm việc song song với những giám đốc điều hành hiện có ở công ty đang bị thu mua. Mỗi người trong sáu người đàn ông là một chuyên gia trong một lĩnh vực cụ thể, và chỉ trong vài tuần họ đã có thể làm quen hoàn toàn với bộ phận của họ, đánh giá tài năng của các giám đốc điều hành của bộ phận đó, và tìm ra điểm yếu cũng như điểm mạnh của bộ phận đó.
“Elliott,” Matt nói với Elliott Jamison, “chúng ta hãy bắt đầu với anh. Bộ phận tiếp thị của Haskell thế nào?”.
“Không tệ lắm, nhưng cũng không tốt lắm. Họ có quá nhiều người quản lý ở đây, cũng như tại văn phòng các chi nhánh, và quá ít nhân viên bán sản phẩm.
Khách hàng hiện nay được quá nhiều ưu đãi, nhưng các nhân viên bán hàng không có thời gian để mở rộng thêm số lượng khách hàng mới. Nếu xét đến các sản phẩm chất lượng cao của Haskell đáng lý ra Haskell phải có gấp ba hoặc gấp bốn số khách hàng hiện nay. Lúc này, tôi đề nghị bổ sung năm mươi nhân viên cho lực lượng bán hàng. Một khi công xưởng ở Southville đi vào hoạt động, tôi đề nghị bổ sung thêm năm mươi người nữa.”.
Matt ghi nhanh phần lưu ý lên cuốn sổ màu vàng trên bàn và xoay sự chú ý của anh sang Jamison. “Còn gì nữa?”.
“Paul Cranshaw, giám đốc tiếp thị, sẽ phải đi thôi, Matt. Ông ta đã làm cho Haskell hai mươi tám năm, phương pháp tiếp thị của ông ta quá lỗi thời và điên rồ. Ông ta không thể và không muốn thay đổi cách làm đâu.”.
“Ông ta bao nhiêu tuổi?”.
“Theo hồ sơ thì ông ta năm mươi sáu tuổi.”.
“Ông ta có chịu về hưu non nếu chúng ta đề nghị không?”.
“Có thể. Ông ta sẽ không tự nghỉ đâu, chắc chắn là như vậy. Ông ta là một kẻ kiêu ngạo và công khai thù địch với sự tiếp quản của Intercorp.”.
Tom Anderson ngước mặt lên khi đang chăm chú nghiên cứu chiếc cà vạt kẻ cánh hoa của ông. “Chuyện đó không có gì là bất ngờ cả. Ông ấy là em họ xa của ông Haskell.”.
Elliott nhìn ông bất ngờ. “Thật sao?” Ông nói, miễn cưỡng thích thú với khả năng tìm ra được thông tin mà không cần tốn nhiều công sức của Tom. “Chuyện đó không nằm trong hồ sơ cá nhân của ông ấy. Làm sao anh tìm ra được?”.
“Tôi đã có một cuộc đàm thoại vui vẻ với một bà già duyên dáng ở dưới phòng giữ hồ sơ. Bà ấy đã làm ở đây lâu hơn bất cứ người nào khác, và bà ấy là một quyển nhật ký thông tin biết đi.”.
“Thảo nào Cranshaw đã quá gay gắt. Ông ta chắc chắn sẽ phải đi… ông ta là một rắc rối lớn về mặt tinh thần trong những rắc rối khác. Nhưng căn bản vậy là xong rồi, Matt. Tôi sẽ gặp anh vào tuần tới và chúng ta có thể bàn việc cụ thể hơn.”.
Matt hướng về John Lambert để nghe thông tin tài chính.
Lambert lướt qua sổ ghi chép của ông và nói, “Lợi nhuận của họ đều tốt, chúng tôi đã biết trước, nhưng có nhiều chỗ cần hợp lý hoá và cắt giảm chi phí.
Hơn nữa, nợ khó đòi quá nhiều. Một nửa số nợ của họ phải sáu tháng mới trả hết, và đó là vì Haskell đã không thực hiện chính sách đòi nợ kiên quyết.”.
“Chúng ta có phải thay người quản lý tài chính không?”.
Lambert do dự. “Đó là một chuyện khó quyết định. Người quản lý tài chính khẳng định chính Haskell là người không muốn kêu gọi khách hàng trả hết nợ cho nhanh hơn. Ông ta nói là ông ta đã thử triển khai một chiến lược xông xáo hơn trong nhiều năm, nhưng lão già Haskell cứ từ chối. Bỏ chuyện đó sang một bên, ông ta điều khiển con tàu khá chặt chẽ. Tinh thần làm việc của nhân viên trong bộ phận của ông ta rất tốt và ông ta là một người biết cách giao quyền.
Ông ta có các nhân viên quản lý vừa đủ để hoàn thành công việc, và họ làm tốt.
Bộ phận của ông ta phối hợp rất chặt chẽ.”.
“Ông ta có phản ứng gì với sự xâm nhập của anh vào lãnh địa của ông ta?
Ông ta có muốn hòa nhập vào sự thay đổi không?”.
“Ông ta là một người làm theo, không phải là một nhà lãnh đạo, nhưng ông ta rất chu đáo. Bảo ông ta là anh muốn ông ta làm chuyện gì, thì chuyện đó sẽ xong. Tuy nhiên, nếu anh muốn sáng kiến mới và phương thức tính toán năng động hơn, ông ta sẽ không tự mình nghĩ ra.”.
“Điều khiển ông ta và để cho ông ta đi theo đúng hướng,” Matt nói sau khi ngần ngại trong khoảnh khắc. “Khi chúng ta bầu Tổng giám đốc ở đây, Tổng giám đốc mới đó có thể trông chừng ông ta. Tài chính là một bộ phận quan trọng, có vẻ như nó đang rất ổn. Nếu tinh thần làm việc ở đó đang phấn khởi, tôi muốn giữ y như vậy.”.
“Tôi đồng ý. Tháng sau tôi sẽ sẵn sàng thảo luận về ngân sách mới và cơ cấu giá cả với anh.”.
“Tốt.” Matt hướng về người có mái tóc ngắn vàng hoe chuyên về tất cả những vấn đề liên quan đến nhân sự và chính sách nhân sự. “David, còn bộ phận nhân sự thì sao?”.
“Nó không tệ. Thực ra thì khá tốt. Tỉ lệ nhân viên thiểu số thì hơi thấp, nhưng không đủ thấp để khiến chúng ta bị lên trang nhất hay mất hợp đồng của chính phủ,” David Talbot trả lời. “Bộ phận nhân sự đã làm tốt công việc thiết lập và duy trì việc tăng chức cũng như thuê người có năng lực, và những việc tương tự như thế. Lloyd Waldrup, giám đốc bộ phận đó rất nhạy bén và hội đủ điều kiện cần thiết cho công việc.”.
“Ông ta che mắt anh đấy,” Tom Anderson tranh cãi, cúi xuống tự rót tách cà phê từ bình cà phê ngay giữa bàn.
“Thật là một luận điệu lố bịch,” Talbot nói một cách bực tức. “Lloyd Waldrup đã trao cho tôi bản báo cáo cho thấy con số phụ nữ và nhân viên thiểu số tại các bộ phận khác nhau, và tỷ lệ cũng ngang bằng như vậy trong các bộ phận quản lý.”.
“Tôi không tin bản báo cáo.”.
“Chúa ơi, anh sao vậy Tom!” Ông hét lên, xoay ghế qua trừng mắt với phản ứng điềm tĩnh của Tom. “Mỗi lần chúng ta thu mua một công ty là anh bắt đầu ngay từ bộ phận nhân sự. Cụ thể là chuyện gì làm cho anh hầu như luôn ghét họ?”.
“Chắc là vì họ gần như luôn là những kẻ nịnh bợ thèm khát quyền lực.”.
“Bao gồm cả Waldrup?”.
“Đặc biệt là Waldrup.”.
“Và bản năng nào của anh đã làm cho anh tin ông ta là người như vậy?”.
“Ông ta khen ngợi quần áo của tôi hai ngày liền. Tôi không bao giờ tin bất cứ ai khen quần áo của tôi, đặc biệt là khi người khen đang mặc đồ vest xám.”.
Những tiếng tặc lưỡi nhỏ phá vỡ sự căng thẳng trong phòng, và ngay cả David cũng thả lỏng. “Có lý do gì khác để tin ông ấy là một kẻ nói dối về cách thức thuê người và tăng chức của ông ấy không?”.
“Có,” Tom nói, cẩn thận giữ tay áo khoác khỏi ly cà phê khi ông chồm người tới lấy đường. “Tôi đã và đang lang thang trong toà nhà này trong vài tuần nay, trong khi anh bận làm cái công việc của anh dưới bộ phận nhân sự, và tôi không thể không nhận thấy một vấn đề nhỏ.” Ông ngừng lại để khuấy đường trong ly cà phê, làm mọi người trong phòng bực bội ngoại trừ Matt, người tiếp tục nhìn ông với vẻ điềm tĩnh thích thú. Rồi Tom ngả người ra và tựa khuỷu tay lên đỉnh đầu gối, tách cà phê trên tay ông.
“Tom!” David cáu lên. “Anh hãy đi thẳng vào trọng tâm để chúng ta có thể tiếp tục cuộc họp này! Anh đã nhìn thấy gì trong khi đi lang thang quanh tòa nhà này?”.
Hoàn toàn bình thản, Tom nhướng cặp lông mày tua tủa lên và nói, “Tôi thấy đàn ông ngồi trong văn phòng riêng.”.
“Vậy thì sao nào?”.
“Tôi không nhìn thấy bất kỳ phụ nữ nào ngồi trong đó, ngoại trừ tại bộ phận kế toán, nơi trước đây đã từng có những quản lý nữ. Chỉ có một vài phụ nữ có được một văn phòng và có thư ký ngồi ở bên ngoài. Phải chăng ông bạn Waldrup của anh đã phân phát vài vị trí tưởng tượng để giữ cho đám phụ nữ vui và làm cho mình trông cỏ vẻ tốt trên bản báo cáo của ông ta? Nếu những phụ nữ này thực sự có công việc ngang với trình độ quản lý, thì thư ký của họ đâu? Văn phòng của họ ở đâu?”.
“Tôi sẽ kiểm tra lại chuyện đó,” David nói và thở dài. “Tôi sẽ tìm ra chuyện đó sớm hay muộn, nhưng tốt hơn là biết nó ngay bây giờ.” Hướng về Matt, ông tiếp tục, “ở một thời điểm nào đó trong tương lai chúng ta sẽ phải đồng nhất chính sách nghỉ phép và mức lương căn bản của Haskell với Intercorp. Haskell cho nhân viên ba tuần nghỉ phép sau ba năm làm việc và bốn tuần sau tám năm.
Chính sách đó đang làm cho công ty tổn thất lớn vì thời gian bị mất và liên tục cần thuê người giúp việc tạm thời để bổ sung.”.
“So sánh với mức lương của họ ra sao?” Matt hỏi.
“Họ trả thấp hơn hơn chúng ta. Triết lý của Haskell là cho nhân viên nhiều thời gian nghỉ phép hơn và trả cho họ ít tiền lại. Tôi sẽ họp với anh và bàn chi tiết hơn khi tôi có cơ hội tính thêm vài con số và có vài đề xuất.”.
Hai tiếng đồng hồ tiếp theo Matt lắng nghe những người còn lại báo cáo về lĩnh vực riêng của họ và bàn giải pháp. Khi họ kết thúc việc thảo luận về Haskell, Matt thông báo cho họ những thông tin mới nhất từ các phòng ban khác của Intercorp – có thể là chuyện nên quan tâm ngay bây giờ hay sau này, những diễn biến từ chuyện công đoàn đe dọa sẽ đình công ở nhà máy dệt của Intercorp ở Georgia, đến khả năng và thiết kế của công xưởng sản xuất mới của Haskell mà anh định xây dựng trên một mảnh đất lớn anh mới mua ở Southville.
Trong suốt cuộc họp, có một người – Peter Vanderwild – tiếp tục im lặng và quan sát, như một người xuất sắc, một nghiên cứu sinh còn e dè, người hiểu biết tất cả những chuyện căn bản… nhưng đang học những điều cần thiết từ một nhóm chuyên gia. Ở tuổi hai mươi tám, Peter là cựu sinh viên trường Harvard, một “tài năng trẻ” với chỉ số IQ của một thiên tài, người chuyên tìm kiếm các công ty để Intercorp thu mua, phân tích tiềm năng lợi nhuận của chúng, và sau đó kiến nghị với Matt. Haskell đã là một trong những sự lựa chọn của Vanderwild, và nó sắp là chiến thắng thứ ba liên tục của cậu ta. Matt đã gửi cậu ta đến Chicago cùng với cả nhóm vì anh muốn Peter có được sự trải nghiệm ngay tại chỗ về những gì sẽ xảy ra sau công ty bị thu mua. Anh muốn cậu ta quan sát những gì không thể nhìn thấy được trên bản báo cáo tài chính mà Peter quá phụ thuộc mỗi khi cậu ta đưa ra kiến nghị thu mua một công ty – như việc những người quản lý tài chính lỏng lẻo về chuyện thu tiền, và những giám đốc nhân sự thích che đậy.
Matt đã đem cậu ta đến đây để quan sát và được quan sát. Mặc dù thành công của Peter rất nổi bật, Matt biết cậu ta vẫn cần được hướng dẫn. Ngoài ra, cậu ta vừa quá tự phụ và nhạy cảm, lại vừa rụt rè và yếu đuối, tùy thuộc vào tình huống, và đó là việc mà Matt định kiểm soát. Cậu ta là một nhân tài còn non nớt cần được định hướng.”.
“Peter?” Matt hỏi. “Có diễn biến gì mới trong lĩnh vực của cậu mà chúng tôi nên nghe không?”.
“Tôi có vài công ty trong đầu có thể sẽ là một vụ thu mua tuyệt vời,” Peter công bố. “Chúng không lớn như Haskell nhưng rất có tiềm năng. Một trong số chúng là một công ty phần mềm nhỏ nằm ở Silicon Valley…”.
“Không đụng đến các công ty phần mềm, Peter,” Matt nói một cách cứng rắn.
“Nhưng JLH là…”.
“Không đụng đến các công ty phần mềm!” Matt cắt ngang. “Lúc này chúng quá là liều lĩnh.” Anh nhìn thấy khuôn mặt đỏ lựng bối rối của Vanderwild.
Nhắc nhở mục tiêu của bản thân là điều khiển tài năng vĩ đại của chàng trai trẻ, chứ không phải ép sự nhiệt tình của cậu ta, Matt kìm chế sự mất nhẫn nại của anh và nói thêm, “Không phải là lỗi của cậu, Peter. Tôi chưa bao giờ nói cho cậu biết cảm nghĩ của tôi về các công ty phần mềm. Còn có gì khác mà cậu muốn đề nghị không?”.
“Anh đã đề cập đến chuyện anh muốn mở rộng bộ phận tài sản thương mại của chúng ta,” Peter nói lưỡng lự. “Có một công ty ở Atlanta, một công ty khác ở ngay Chicago, và công ty thứ ba ở Houston. Cả ba đều đang tìm kiếm người mua. Hai cái đầu tiên hầu như sở hữu những văn phòng cao ốc. Cái thứ ba, ở Houston, phần lớn là đầu tư vào đất thương mại. Nó là công ty sở hữu gia đình và hai anh em Thorp đã điều hành nó từ khi cha họ chết một vài năm trước, nghe nói là không thể chịu đựng nhau.” Vẫn còn ngại về chuyện bị từ chối quá nhanh, Peter vội vàng chỉ ra khiếm khuyết của thương vụ này:
“Houston đã ở trong tình trạng trì trệ kéo dài, và tôi nghĩ không có dấu hiệu nào chứng tỏ nó sẽ hồi phục nhanh. Còn nữa, vì anh em Thorp không thể đồng ý bất cứ chuyện gì, vụ giao dịch có lẽ là sẽ gây cho chúng ta nhiều khó khăn hơn…”.
“Cậu đang định thuyết phục tôi nó là một ý tưởng hay, hay một ý tưởng tồi đấy?” Matt hỏi với nụ cười để chuộc lại sự cộc cằn ban đầu của anh. “Hãy lựa chọn dựa trên phán quyết tốt nhất của cậu, và tôi sẽ quyết định cuối cùng. Đó là công việc của tôi, và nếu cậu bắt đầu làm luôn cái công việc của tôi cộng thêm công việc của cậu, thì tôi sẽ không còn gì để làm. Tôi sẽ cảm thấy mình là một kẻ vô tích sự đấy.”.
Những tiếng chặc lưỡi hòa cùng lời bình luận đó, Peter đứng lên và đưa cho anh một tập hồ sơ có tựa đề NHỮNG CÔNG TY BẤT ĐỘNG SẢN THƯƠNG MẠI ĐƯỢC TIẾN CỬ. Bên trong là dữ liệu của ba công ty cậu ta đề cập đến, và một tá khác, những cái ít hấp dẫn hơn. Bây giờ đã nhẹ nhõm hơn, cậu ta ngồi xuống.
Matt mở tập hồ sơ và thấy rằng hồ sơ rất nhiều và cách phân tích của Peter rất phức tạp. Thay vì giữ lại những người khác một cách không cần thiết, anh nói, “Peter vẫn kỹ càng như thường lệ, các quý ông, và tập hồ sơ này cần nhiều thời gian để đọc qua. Tôi nghĩ chúng ta đã bàn hết mọi chuyện cần được thảo luận. Tôi sẽ gặp mặt từng người các anh vào tuần sau. Hãy nói cho bà Stern biết khi các anh sẵn sàng bàn về kế hoạch chi tiết về những bộ phận của mình.” Với Peter, anh nói, “Hãy xem những thứ này trong văn phòng của tôi.”.
Anh vừa mới ngồi xuống tại bàn làm việc của mình thì hệ thống liên lạc vang lên, và bà Stern bảo với anh là Brussels đang gọi đến. Với ống nghe điện thoại kẹp giữa vai và hàm, Matt bắt đầu kiểm tra bản kê khai tài chính của công ty ở Atlanta mà Peter đã đề nghị.
“Matt,” giọng nói vui sướng của Josef Hendrik vang lên trên đường dây bị nhiễu sóng, “đường dây điện thoại quá tệ, anh bạn ạ, nhưng những tin tức tốt lành của tôi không thể chờ được một đường dây tốt hơn. Người của tôi ở đây hoàn toàn đồng ý với sự cộng tác hữu hạn mà tôi đã đề xuất với anh vào tháng trước. Họ không phản đối bất cứ quy định nào do anh đặt ra.”.
“Rất tốt, Josef,” Matt trả lời, nhưng sự nhiệt tình của anh có phần hơi cụt hứng do chuyến bay mệt mỏi và nhận thức là trời đã tối hơn anh nghĩ. Bên ngoài cửa sổ rộng ở bức tường bên ngoài văn phòng, bóng tối đã ngập tràn, thấp thoáng những ánh đèn sáng lấp lánh từ căn nhà chọc trời nối tiếp. Xa bên dưới đại lộ Michigan, anh có thể nghe tiếng còi xe của những người tan ca trong giờ cao điểm, cố gắng giành đường về nhà. Với tay đến cây đèn trên bàn làm việc của anh, Matt bậc nó lên, sau đó anh liếc nhìn Peter – cậu ta cũng vừa đứng dậy và bật những ngọn đèn trên đầu lên. “Giờ đã muộn hơn tôi nghĩ, Peter, và tôi cần phải gọi vài cuộc điện thoại. Tôi sẽ mang các tập tài liệu này về nhà và xem qua nó vào cuối tuần. Chúng ta sẽ thảo luận về nó vào mười giờ sáng thứ hai.”.
Mát mẻ khi mới tắm hơi và tắm vòi sen xong, Matt quấn cái khăn lớn quanh thắt lưng và nhặt cái đồng hồ đeo tay nằm trên bàn trang điểm bằng đá cẩm thạch đen bọc vòng quanh phòng tắm. Điện thoại reo, và anh nhấc nó lên.
“Anh đang trần truồng hả?” Giọng nói đầy nhục cảm của Alicia Avery hỏi trước khi anh mở lời.
“Xin hỏi cô đang gọi số nào ấy nhỉ?” anh nói với vẻ cố tình không quen.
“Của anh, cưng ơi. Anh đang trần truồng hả?”.
“Gần như trần truồng,” Matt nói, “và sắp bị trễ.”.
“Em rất vui là cuối cùng anh cũng ở Chicago. Anh đến khi nào vậy?”.
“Hôm qua.”.
“Rốt cuộc thì em tóm được anh trong nanh vuốt của mình rồi!” Cô cười, một nụ cười lôi kéo, dễ lây. “Anh không thể tin là em đã và đang tưởng tượng ra những gì đâu, nghĩ về đêm nay khi chúng ta quay về từ buổi tiệc từ thiện opera.
Em nhớ anh, Matt,” cô bổ sung, thẳng thừng và trực tiếp như thường lệ.
“Chúng ta sẽ gặp nhau trong một giờ nữa,” Matt hứa, “nếu em để cho anh ngưng dùng điện thoại, chỉ vậy thôi.”.
“Được rời. Thật ra, bố bắt em gọi. Ông ấy sợ anh sẽ quên mất buổi opera từ thiện đêm nay. Hình như là ông cũng muốn gặp anh như em… dĩ nhiên là vì lý do rất khác.”.
“Dĩ nhiên,” Matt nói đùa.
“Ồ, và em có lẽ nên cảnh báo anh là ông dự định xin cho anh gia nhập vào câu lạc bộ Glenmoor Country đấy. Buổi khiêu vũ là chỗ tốt nhất để giới thiệu anh với một vài thành viên và sẽ lấy được lá phiếu của họ, vì vậy ông sẽ cố gắng lôi anh đến tất cả mọi nơi nếu anh để cho ông làm chuyện đó. Không phải là ông cần làm vậy để thêm phiền,” cô bổ sung, “mà để anh sẽ là người thắng cuộc. Ồ, và báo chí sẽ ở đó hàng loạt để chuẩn bị tấn công anh. Thật xấu hổ, ông Farrell,” cô trêu chọc, “khi biết người hẹn hò của em sắp thu hút được nhiều sự chú ý hơn cả em đêm nay…”.
Nghe nhắc đến Câu lạc bộ quốc gia Glenmoor, nơi anh đã gặp Meredith vào ngày mùng bốn tháng Bảy cách đây đã lâu, quai hàm Matt bạnh ra với vẻ mỉa mai dữ tợn, và anh không nghe phần còn lại của những gì Alicia nói. Anh đã là thành viên của hai câu lạc bộ quốc gia khác, cả hai đều độc quyền như Glenmoor. Anh hiếm khi sử dụng câu lạc bộ mà anh thuộc về, và nếu phải tham gia vào một câu lạc bộ ở Chicago – việc mà anh chẳng muốn chút nào – thì chắc chắn không phải là cái Câu lạc bộ Glenmoor chết tiệt ấy. “Nói với bố em là anh rất cảm kích ý tốt của ông ấy, nhưng anh mong là ông ấy đã không làm vậy.”.
Trước khi anh có thể nói thêm, Stanton Avery đã nhấc điện thoại nối tiếp lên.
“Matt,” ông nói bằng một giọng chân thành và nồng nhiệt. “Cậu không quên buổi opera từ thiện vui nhộn đêm nay chứ?”.
“Tôi nhớ, Stanton.”.
“Tốt, tốt. Tôi nghĩ là chúng tôi sẽ đón cậu lúc chín giờ, ghé vào câu lạc bộ du thuyền làm vài ly, rồi tiếp tục đi đến khách sạn. Làm như thế chúng ta sẽ không phải ngồi nghe hết La Traviata trước khi những thức uống mạnh và tiệc tùng bắt đầu. Hay là cậu đặc biệt thích La Traviata?”.
“Opera luôn làm cho tôi như bị hôn mê ấy,” Matt nói đùa, và Stanton cười khúc khích đồng tình. Nhiều năm trước Matt đã tham dự hàng tá buổi nhạc giao hưởng và opera vì anh cần di chuyển trong các tầng lớp xã hội để tìm nguồn vốn, và sự có mặt tại những buổi biểu diễn văn hoá là cần thiết ở góc độ kinh doanh. Bây giờ khi anh đã miễn cưỡng quen thuộc với những dàn nhạc giao hưởng nổi tiếng và những buổi opera, ý kiến ban đầu của anh về chúng vẫn không thay đổi: hẩu hết chúng chán ngắt và quá dài. “Chín giờ là được rồi,” anh nói thêm.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.