Không phải ngày nào cũng có người chết trong vòng tay bạn một cách ngẫu nhiên.
Trung tá Gray Pierce đang băng qua công viên National Mall thì một người đàn ông vô gia cư đến bắt chuyện. Tâm trạng Gray lúc này khá tôi tệ, vừa kết thúc trận chiến này lại bị lôi vào một trận chiến khác. Nhiệt độ buổi trưa khiến ông phát cáu. Ngày bị hâm nóng bởi tiết trời oi ả thường lệ ở D.C., thiêu cháy cả vỉa hè. Vận áo khoác cộc tay hải quân màu xanh nước biển bên ngoài chiếc áo thun không viền cùng với quần bò, ông nhẩm đoán nhiệt độ trong người đã tăng từ mức trung bình lên đến tột cùng.
Cách xa nửa dãy phố, Gray phát hiện ra một kẻ hốc hác đang len lỏi về phía mình. Người đàn ông vô gia cư mặc chiếc quần bò lùng thùng gấp mép đến mắt cá chân, để lộ đôi ủng quân nhân thắt hờ dây đã cũ mòn. Gã lom khom trong chiếc áo com lê nhàu nhĩ. Khi đã đến gần, Gray để ý thấy bộ râu quai nón lởm chởm đã điểm bạc, đôi mắt mờ đục đỏ ngầu kiếm tìm xung quanh.
Những kẻ ăn xin như thế không phải là hiếm gặp quanh National Mall, nhất là khi lễ kỷ niệm Quốc tế Lao động đã kết thúc ngày hôm qua. Khách du lịch quay lại với cuộc sống thường nhật, cảnh sát chống bạo động lui về những quán rượu địa phương, còn công nhân vệ sinh đã hoàn thành nhiệm vụ lau dọn mớ tàn dư sót lại. Kẻ cuối cùng rời khỏi đây là những người muốn kiếm tìm vài đồng xu rơi vãi trên mấy khe hở phố phường, lục lọi chai lọ từ thùng rác, tương tự như mấy con cua bới tìm mảnh thịt thừa từ khúc xương đã cũ.
Gray không tránh né kẻ lang thang khi ông bước xuống phố Jefferson Drive để tiến về tòa nhà Smithsonian (một Học viện Nghiên cứu và bảo tàng viện của chính phủ Hoa Kỳ (ND), điểm đến của ông. Ông vẫn cảnh giác quan sát, vừa để đánh giá xem có nguy hiểm nào cận kề vừa nhắc nhớ sự có mặt của gã đàn ông kia. Chắc chắn ngoài mấy trò ăn xin lừa bịp của một số kẻ thấp kém hơn là thiếu thốn, hầu hết đàn ông và phụ nữ lang thang nơi này đều bất hạnh, nghiện ngập, hoặc mắc các bệnh tâm thần, số ít trong đó là những người tốt, những cựu chiến binh thuộc lực lượng vũ trang. Gray không lảng tránh – có lẽ điều đó đã khiến cặp mắt gã đàn ông kia tươi tỉnh hẳn.
Gray đọc thấy sự nhẹ nhõm pha lẫn hy vọng từ trong lớp bụi bẩn và những nếp nhăn. Nhận ra Gray, dáng dấp xiêu vẹo của gã vô gia cư trở nên dứt khoát hơn. Có lẽ gã sợ rằng con mồi sẽ trốn thoát vào tòa nhà trước khi gã túm được. Chân tay gã rung lên. Rõ ràng gã đã say hoặc đang phải chịu những chấn động từ cơn say.
Một bàn tay ngửa ra hướng về phía ông.
Đó là một cử chỉ phổ biến – từ những khu ổ chuột của Brazil cho đến các con hẻm ở Bangkok.
– Làm ơn. Cứu vớt lấy tôi!
Gray thò tay vào trong áo khoác tìm cái ví. Nhiều người nghĩ rằng ông đúng là một gã khờ mới chịu thua kẻ ăn xin như thế. Chúng sẽ dùng tiền để mua rượu hay côcain mà thôi, ông không quan tâm. Đây chẳng phải nơi để ông đưa ra phán xét. Đây chỉ là một con người đói khổ. Ông lôi ví ra. Nếu có ai xin, ông sẽ cho. Phương châm của ông là thế. Thành thực hơn một chút, làm việc từ thiện cũng giúp ích cho Gray, một niềm an ủi, bởi lòng nhân ái khiến người ta dịu bớt cảm giác tội lỗi chôn sâu không muốn đối mặt.
Chỉ tốn một hay hai đồng đô lẻ.
Cái giá không quá tôi.
Cái giá không quá tôi.
Ông liếc nhìn vào ví. Toàn đồng hai mươi đô-la. Ông vừa rút tiền ở trạm ATM trong ga điện ngầm, ông nhún vai, kéo mạnh một tờ có chân dung tổng thống Andrew Jackson.
Thôi được, đôi khi thì cũng mất hơn một hay hai đồng.
Ông ngẩng đầu để hai gương mặt nhìn thấy nhau. Gray đưa đồng hai mươi đô-la và nhận ra trong tay gã có gì đó. Một đồng xu đã xỉn màu nằm giữa lòng bàn tay, cỡ như đồng năm mươi xen.
Gray tư lự.
Đây là lần đầu tiên một người vô gia cư cố gắng trả tiền cho ông.
Trước khi kịp hiểu ra vấn đề, gã bỗng ngã nhào về phía ông như thể đột nhiên bị đẩy mạnh từ đằng sau. Miệng ông há to kinh ngạc. Gã ngã xuống, theo phản xạ Gray túm lấy gã, một ông lão.
Ông ta nhẹ hơn Gray tưởng. Dưới tấm áo khoác, người ông lão dường như chỉ có xương, một bộ xương. Một bàn tay sạt qua má Gray. Vụng về, nóng hổi. Một cảm giác sợ hãi chợt thoáng qua – bệnh tật, AIDS – nhưng Gray vẫn không buông tay khi ông lão đổ sụp xuống.
Gray đổi sang tay trái, đỡ lấy sức nặng của ông lão. Bàn tay ông đặt lên một vùng ẩm ướt đang tuôn ra từ sau lưng lão. Túa lên những ngón tay.
Máu.
Gray xoay người theo bản năng, ông nghiêng sang một bên, ngả xuống vệ đường, cánh tay vẫn ôm chặt lấy ông lão. Vạt cỏ dày đỡ lấy cú ngã của cả hai.
Gray không nghe thấy phát đạn nào nữa – ngoài hai vệt sáng bắn tỉa lóe lên từ vệ đường đổ bê tông nơi ông đứng, ông tiếp tục lăn tròn cho đến khi chạm tới một bảng hiệu đúc bằng kim loại gắn bê tông nhô trên bãi cỏ của tòa nhà Smithsonian. Nó chỉ cao ngang hồng. Gray co người sau tấm bảng bên cạnh ông lão. Bảng hiệu có ghi: TRUNG TÂM THÔNG TIN SMITHSONIAN.
Dĩ nhiên Gray muốn biết sự thật.
Rằng ai đang bắn ông.
Cái biển hiệu kiên cố nằm giữa ông và công viên Mall. Đó chỉ là chỗ ẩn nấp tạm thời. Khoảng chục mét nữa thôi, những cánh cửa mái vòm ở lối vào bên hồng tòa nhà Smithsonian sẽ dang rộng đón chào. Lâu đài hiện rõ những tòa tháp bằng đá sa thạch đỏ khai thác từ thung lũng Senaca ở bang Maryland, một tòa lâu đài chính cống kiểu Norman (tộc người ở vùng Normandy, miền Bắc nước Pháp (ND).), một pháo đài đúng nghĩa. Lá chắn bao bọc từ lâu đài chỉ còn cách vài bước chân nhưng khoảng cách đó đủ để họ trở thành mục tiêu mở cho tên bắn tỉa.
Gray giật mạnh khẩu súng ngắn – khẩu sig Sauer P229 chắc nịch (từ năm 2009, súng được dùng cho các đặc vụ và sĩ quan Đơn vị Sắc phục của Sở Mật vụ Hoa Kỳ (ND)- từ bao da sau lưng. Không nhằm vào mục tiêu nào cả. Nhưng ông vẫn sẵn sàng vũ khí cho tình huống tấn công trực diện.
Bên cạnh Gray, ông lão vô gia cư rên rỉ. Máu ướt đẫm lưng. Gray buồn thay cho nỗi bất hạnh cứ tiếp nối cuộc đời ông lão. Cái túi đựng nghèo nàn những mong tìm kiếm chút tiền từ thiện bỗng lãnh đủ một viên đạn, một thiệt hại phụ trong nỗ lực ám sát Gray.
Nhưng ai đang cố giết hại ông? Và tại sao?
Ông lão vô gia cư nhấc một cánh tay đã tê liệt, lịm dần. Phát đạn đã xuyên thủng thận, một vết thương chí tử khiến nạn nhân mất sức rất nhanh, chỉ cần nhìn vào lỗ đạn và lượng máu thì biết. Ông lão với lên đùi Gray. Mấy ngón tay ông hé mở, đánh rơi đồng xu đã xỉn màu mà ông cố giữ từ nãy giờ. chẳng hiểu bằng cách nào ông lão vẫn nắm chặt đồng xu. Đồng xu nảy lên chân Gray và lăn xuống bãi cỏ.
Món quà cuối cùng.
Khoản từ thiện hoàn trả.
Hành động vừa dứt, chân tay ông lão vô gia cư mềm nhũn. Đầu ông ngả vào vai Gray. Gray hổn hển rủa thầm:
– Xin lỗi, ông lão.
Tay kia gỡ điện thoại, dùng ngón cái bật nắp, ông nhấn phím gọi khẩn cấp. Có tiếng trả lời ngay.
Gray gấp gáp phát tín hiệu cấp cứu vào trung tâm chỉ huy.
“Cứu viện đang trên đường tới,” vị giám đốc tuyên bố. “chúng tôi đã nhìn thấy anh nhờ máy quay bên ngoài lâu đài. Thấy rất nhiều máu. Anh bị thương nghiêm trọng không?”
“Không,” ông trả lời cộc lốc.
“Hãy ở yên đó.”
Gray không nói nữa. cũng chưa có thêm phát đạn nào cho tới lúc này. Không có động thái rõ ràng nhắm đến cái bảng hiệu ông đang dùng để ẩn nấp. Dấu hiệu tốt cho thấy tên bắn tỉa đã cao chạy xa bay. Nhưng Gray vẫn chưa dám rời vị trí – và sẽ không rời cho đến khi cứu viện tới.
Nhét điện thoại vào túi, Gray nhặt đồng xu của ông lão rơi trên bãi cỏ. Nó dày, khá nặng, được đúc thô. Ông cầm đồng xu lên và lơ đãng chà xát vào bề mặt. Dùng chính vệt máu của ông lão dính trên tay, ông chùi lớp bụi bẩn trên bề mặt để thấy rõ hình ảnh một ngôi đền Hy Lạp hay La Mã gì đó, sáu cái cột bên dưới một mái lợp chóp nhọn.
Cái quái gì thế này?
Ngay giữa đồng xu là một chữ cái duy nhất.
Gray nghĩ đó là ký tự Hy Lạp.
Dấu xích ma.
Trong toán học, dấu xích ma biểu trưng cho tổng số các phần tử, nhưng nó cũng là biểu tượng của tổ chức mà Gray đang cộng tác: SIGMA, một đội ngũ ưu tú gồm những cựu binh thuộc Lực lượng Đặc nhiệm cũ, được tái huấn luyện trong các lĩnh vực khoa học nhằm phục vụ như một lực lượng quân sự bí mật cho DARPA (viết tắt của Defense Department’s Advanced Research Projects Agency – Cơ quan Quản lý các Dự án Nghiên cứu tiến bộ trực thuộc Bộ Quốc phòng Mỹ (ND).), Cơ quan Quản lý các Dự án Nghiên cứu tiến bộ trực thuộc Bộ Quốc phòng Mỹ.
Gray thoáng nhìn về lâu đài. Tổng hành dinh của tổ chức Siama đã từng ở đây, bi chôn vùi dưới tầng móng của tòa nhà Smithsonian trong những boong ke quân sự thời Thế chiến thứ II. Nó được đặt ở vị trí hoàn toàn lợi thế, dễ tiếp cận các trụ sở của chính phủ, Lầu Năm Góc và rất nhiều các phòng thí nghiệm nhà nước cũng như tư nhân.
Nhìn đồng xu, Gray chợt thấy mình đã nhầm. Ký tự đó không phải là dấu “xích ma” của Hy Lạp mà chỉ đơn thuần là chữ E lớn viết hoa. Một thoáng hoảng loạn, mắt ông đã bị đánh lừa, chỉ thấy được những gì hiện ra ngay trong đầu.
Ông nắm chặt đồng xu.
Chỉ là một chữ cái E.
Đây không phải là lần đầu tiên trong mấy tuần qua Gray liên hệ đến những kết nối không hiện hữu – hay ít ra đó là mối tâm giao giữa các đồng nghiệp của ông. Cả một tháng trời không nghỉ, Gray đi tìm kiếm thông tin về một người bạn bị mất tích có thể vẫn còn sống sót, Monk Kokkalis. Nhưng cho đến giờ, dù đã tận dụng không thiếu nguồn lực nào của Sigma, ông vẫn chỉ đạt được những kết cục tôi tệ.
“Những hồn ma rượt đuổi”, Painter Crowe đã cảnh báo sau những tuần đầu tiên.
Có lẽ ông ta đúng.
Dọc đường đi, những cánh cửa mở toang phía trước lâu đài. Mười hai nhân vật mặc com lê đen chạy ra với vũ khí giương sẵn, ghì chặt báng súng trên vai.
Các kỵ binh.
Họ di chuyển thận trọng, không có phát đạn nào nhằm vào họ.
Họ nhanh chóng tiến đến bên Gray và vây quanh để bảo vệ.
Một trong số đó quỳ bên cạnh ông lão vô gia
Một trong số đó quỳ bên cạnh ông lão vô gia cư. Anh ta đặt gói y cụ xuống, sẵn sàng sơ cứu.
“Tôi nghĩ ông ấy chết rồi,” Gray lên tiếng cảnh báo.
Người lính cứu thương kiểm tra mạch để chắc chắn hơn nhận định của Gray.
Đã chết.
Gray đứng dậy.
Ông ngạc nhiên vì chỉ huy của mình, Painter Crowe, đang có mặt ở lối vào bên hồng. Không mặc áo khoác, tay áo xắn đến khuỷu tay, chỉ huy Crowe xô mạnh cửa. Biểu hiện của ông như một cơn bão. Mặc dù hơn Gray những mười tuổi, Painter vẫn di chuyển như một con sói với cơ bắp chắc nịch. Viên chỉ huy chắc chắn đã nhận định nguy hiểm xuống mức thấp nhất. Hoặc là, cũng như Gray, ông đơn thuần cảm nhận rằng tên bắn tỉa đã trốn chạy.
Hay còn có điều gì họ chưa hiểu phía sau công
Hay còn có điều gì họ chưa hiểu phía sau công việc bàn giấy?
Painter tiến đến như còi báo động từ đằng xa. “Đã cho sở cảnh sát địa phương kiểm soát chặt công viên Mall,” ông nói bằng giọng nhanh dứt khoát.
“Quá ít, quá muộn.”
“Còn nhiều khả năng. Tuy nhiên, tầm đạn đạo sẽ được thu hẹp trong bán kính bay. Ta sẽ phát hiện đạn được bắn ra từ đâu. Có ai theo dõi anh không?”
Gray lắc đầu. “Theo như tôi đánh giá thì không.”
Gray nhận ra những cân nhắc trong đôi mắt vị giám đốc khi ông quan sát công viên National Mall. Ai lại cố ám sát Gray? Họ đã dừng chân trên bậc thềm nhà. Đó là một cảnh cáo rõ ràng, nhưng nhằm chống đối điều gì? Gray không hoạt động trong bất cứ chiến dịch nào kể từ nhiệm vụ cuối trong bất cứ chiến dịch nào kể từ nhiệm vụ cuối cùng ở Campuchia.
“Bố mẹ anh đã được đưa vào chương trình bảo vệ,” Painter nói. “chỉ là đề phòng thôi.”
Gray gật đầu biết ơn. Mặc dù ông có thể hình dung rằng bố ông sẽ chẳng vui thích gì. Mẹ ông cũng vậy. Họ vừa khó khăn lắm mới phục hồi tâm lý sau một cuộc bắt cóc con tin tàn bạo hai tháng trước.
Mối đe dọa đã giảm đi tức thời, Gray chuyển hướng tập trung tới nhân vật đã cố giết ông – và quan trọng hơn cả là tại sao. Khả năng hàng đầu xuất hiện: đường dây ông đang điều tra. Có phải cuộc điều tra về số phận người bạn của ông đã đánh trúng trung tâm đầu não ở đâu đó?
Mặc cho cái chết đã hiện hữu, hy vọng bừng lên trong Gray.
“Giám đốc, có khi nào vụ ám sát…?”
Painter nhíu lông mày lo lắng, một tay giơ lên. Ông quỳ một chân bên cạnh ông lão vô gia cư và nhẹ nhàng xoay mặt ông lão. Sau một lúc, ông ngồi bằng gót chân, mắt khép hờ. Trông ông có vẻ lo âu hơn.
“Gì vậy, thưa ngài?”
“Tôi không nghĩ cậu là mục tiêu đâu Gray.”
Gray nhìn sang vệ đường và nhớ lại những phát đạn tóe lửa dưới gót chân.
“Ít nhất không phải là mục tiêu chính,” vị giám đốc tiếp tục. “Tên bắn tỉa có thể đã cố gắng khử cậu như khử một nhân chứng.”
“Làm sao ông có thể chắc chắn?”
Painter gật gù trước xác chết. “Tôi biết người đàn ông này.”
Bất ngờ đến choáng ngợp.
“Ông ta tên là Archibald Polk. Giáo sư thần kinh học tại M.I.T” (viết tắt của Massachusetts Institute of Technology – Học viện Kĩ thuật Massachusetts, Mỹ (ND).
Gray nghi ngờ nhìn vẻ tái nhợt vàng vọt, lớp bụi bẩn, bộ râu quai hàm rối bù của ông lão, nhưng lời Painter tỏ ra rất chắc chắn. Nếu quả thật là thế, ông bạn già rõ ràng đã nếm trải những giai đoạn khó khăn.
“Làm quái thế nào mà ông ta lại phải kết thúc thế này?” ông hỏi.
Painter đứng dậy, lắc đầu. “Tôi không biết. Chúng tôi đã không liên lạc cả thập niên qua. Nhưng vấn đề quan trọng hơn cả: Tại sao lại có ai đó muốn ông ta chết?”
Gray chăm chú nhìn xuống cái xác, ông xem xét lại đánh giá của bản thân. Đáng nhẽ ra Gray phải yên tâm khi biết rằng mình không phải là mục tiêu, nhưng nếu lời của Painter là đúng, cuộc điều tra của Gray chẳng liên quan gì đến vụ tấn công.
Giận dữ xuất hiện trở lại – cùng với đôi chút ý thức trách nhiệm.
Người đàn ông ấy đã chết trong vòng tay Gray.
“Chắc chắn ông ấy đến đây,” Painter lẩm nhẩm và liếc nhìn sang lâu đài. “Để gặp tôi. Mà tại sao?”
Gray chìa tay ra, nhớ đến một vật chứng của người đàn ông. Đồng xu cổ xưa nằm trong lòng bàn tay loang máu. “Có lẽ ông ấy muốn ông giữ cái này.”
2:02 chiều
Còi báo động vang lên từ xa, người đàn ông đã đứng tuổi chậm rãi đi bộ xuống đại lộ Pennsylvania. ông mặc một bộ com lê xám bám đầy bụi. Một tay xách va li du lịch bằng sợi dệt, tay kia dắt theo một bé gái. Đứa trẻ chín tuổi mặc chiếc váy cùngmàu với bộ com lê ông dệt, tay kia dắt theo một bé gái. Đứa trẻ chín tuổi mặc chiếc váy cùng màu với bộ com lê ông khoác trên người. Mái tóc sậm màu của cô bé cột lại đằng sau bằng một dải ruy băng màu đỏ, gương mặt nhợt nhạt. Vệt bùn khô ở sân chơi bắn lên đôi giày đen làm hỏng lớp xi bóng trong lúc cô bé đang chơi đùa trước khi được đón cách đây không lâu.
“Bác ơi, bác đã tìm thấy bạn chưa?” cô bé hỏi bằng tiếng Nga.
Ông siết chặt tay cô bé, trả lời bằng giọng mệt mỏi. “Rồi, bác tìm thấy rồi, Sasha. Nhưng nhớ là, phải nói tiếng Anh, cháu yêu.”
Cô bé hơi lê chân bước đi sau khi nhận lời khiển trách, rồi lại tiếp tục. “Bác ấy có vui khi thấy bác không?”
Hình ảnh ống ngắm từ khẩu súng trường của tên bắn tỉa và một cơ thể ngã xuống chợt hiện về trong ông.
“Có, bác ấy vui. Bác ấy còn rất ngạc nhiên nữa.”
“Giờ ta về nhà được không bác? Marta nhớ cháu.”
“Sẽ sớm thôi.”
“Sớm thế nào cơ ạ?” cô bé gãi gãi tai, hờn dỗi hỏi. Một tia sáng như ánh thép lóe lên sau làn tóc đen, chỗ cô bé gãi ngứa.
Ông buông tay và nhẹ nhàng gỡ tay cô bé xuống khỏi tai. ông vuốt lại mái tóc cô bé bằng một cái vỗ về. “Bác còn phải dừng ở một nơi nữa. Rồi chúng ta sẽ trở về nhà.”
Ông đã tiến đến gần đường số Mười. Tòa nhà sừng sững ngay phía bên phải, khối hộp xấu xí chìa ra những tấm bê tông, ai đó đã cố trang trí lại bằng một dãy những lá cờ. Ông rẽ về phía lối vào tòa nhà.
Điểm dừng chân.
Trụ sở của Cục Điều tra Liên bang.
3:46 chiều
Có tiếng lạo xạo lách cách bên trong tủ quần áo của Gray.
Ông vội vã, suýt trượt chân trên sàn ướt. Vừa mới tắm xong, ông chỉ kịp quấn khăn tắm quanh hồng. Sau khi đã bàn giao cho chỉ huy Crowe tất cả chi tiết của vụ bắn tỉa, ông rút lui về phòng thay đồ đặt tại tầng thấp nhất trong công sự của Sigma. Ông đã tắm trước đó, trải qua một giờ tập tạ nghiêm ngặt trong phòng thể dục – và tắm lại lần nữa. Nỗ lực giúp mình định thần.
Nhưng không hoàn toàn.
Cho đến khi nào ông tìm ra câu trả lời về tên sát nhân.
Tiến đến tủ đồ, ông kéo mạnh cánh cửa và phát hiện chiếc điện thoại BlackBerry đang rung lên dưới đáy tủ quần áo bằng kim loại. Chắc là chỉ huy Crowe. Tay vừa chạm vào, điện thoạingừng rung, ông bỏ lỡ cuộc gọi. ông kiểm tra nhật ký và cau mày. Không phải Painter Crowe.
Màn hình hiện lên: R. Trypol.
Ông hầu như đã quên mất.
Thượng úy Rone Trypol thuộc Tinh báo Hải quân.
Thượng úy đang giữ nhiệm vụ giám sát các hoạt động cứu hộ tại hòn đảo Pusat của Indonesia. Hôm nay là hạn chót nộp báo cáo về đánh giá của ông đối với việc trục vớt tàu tuần tra bị đắm có tên chủ nhân của Biển khơi, ông có hai tàu lặn hải quân tại chỗ để tìm kiếm xác tàu đắm và nghiên cứu khu vực xung quanh.
Nhưng Gray có mối quan tâm riêng đối với cuộc tìm kiếm.
Hòn đảo Pusat là nơi bạn ông, đồng thời là người cộng sự, Monk Kokkalis, người mà vị trí cuối cùng được xác định là bị kéo lê trong tấm lưới có tải trọng lớn dưới đáy biển. Thượng úy Trypol đã đồng ý tìm kiếm thi thể của Monk. Thượng úy là bạn tốt và là đồng nghiệp cũ của vợ Monk, bà góa phụ Kat Bryant. Sáng nay, Gray đã ghé qua Trụ sở Tình báo Hàng hải Quốc gia (NMIC – viết tắt của National Maritime Intelligence Center – Trụ sở Tình báo Hàng hải Quốc gia (ND).) ở thành phố Suitland, bang Maryland với hy vọng nghe ngóng được tin tức gì đó. Ông bị khước từ, yêu cầu đợi đến khi có giải trình đầy đủ. Đó là lý do ông hộc tốc quay trở lại đây, sẵn sàng cho việc yêu cầu vị giám đốc gây sức ép lên lực lượng hải quân.
Một chút bối rối, cắn rứt vì tội lỗi đã quên mất mục tiêu, Gray nhấn phím gọi lại và đưa điện thoại lên nghe. Trong khi chờ nối máy đến NMIC, ông ngồi bệt xuống ghế dài, nhìn chăm chăm vào tủ quần áo đối diện. Trên ngăn tủ của chủ nhân cũ vẫn còn tên viết bằng mực đen chồng lên một miếng băng keo.
KOKKALIS.
Mặc dù chắc chắn là Monk đã chết, không ai muốn tháo miếng băng. Đó là một niềm hy vọng lặng lẽ, chỉ có Gray mới níu giữ.
Ông nợ người bạn ấy.
Monk đã luôn song hành cùng Gray qua từng nhiệm vụ tại Sigma. Bạn ông từng được tuyển chọn từ lực lượng đặc nhiệm Mũ Nồi Xanh cùng thời điểm Gray rời khỏi nhà tù Leavenworth, nơi ông bị tống giam sau khi tấn công một viên chức cấp cao trong thời gian làm nhiệm vụ tại Quân đoàn Biệt động. Họ nhanh chóng kết bạn, nếu không muốn nói là một cặp đôi khá cọc cạch ở Sigma. Monk chỉ cao nhỉnh hơn một thước rưỡi, một chú bò mộng trọc đầu so với vóc dáng săn chắc, cao lớn hơn của Gray. Nhưng khác biệt không chỉ đơn thuần thể hiện qua hình dáng. Tính cách thân thiện dễ dãi của Monk đã dần hóa giải trái tim bằng thép không biết nhân nhượng của Gray. Nếu không vì tình bạn với Monk, chắc chắn Gray đã rời khỏi Sigma vì ông từng gắn bó với Quân đoàn Biệt động.
Gray tranh thủ hình dung lại người cộng sự trước đây trong lúc hờ đợi. Họ đã bên nhau nếm trải những gian truân không kể xiết biết bao nhiêu năm qua. Trên người Monk lỗ chỗ những vết đạn và sẹo nhăn nhúm để chứng minh cho điều ấy. Ông mất cả bàn tay trái trong một nhiệm vụ, phải dùng tay giả. Khi ngồi xuống, Gray còn nghe âm thanh huyên náo trong tiếng cười vang… hay sức mạnh thầm kín từ giọng nói, thể hiện chỉ số IQ cao ở mức thiên tài của Monk, theo đánh giá nghiêm ngặt của khoa học.
Làm sao một con người quá rộng lượng và đầy nghị lực như thế lại có thể ra đi?
Có tiếng nhấc máy trong điện thoại. “Thượng úy Ron Trypol nghe”, tiếng trả lời rất nghiêm nghị.
“Thượng úy, tôi là Gray Priece”
“À, trung tá. Tốt quá. Tôi đã gọi anh chiều nay. Tôi không có nhiều thời gian trước khi cuộc họp kế tiếp được tiến hành.”
Gray có vẻ đã hiểu ra hàm ý chua xót. “Thượng úy?”
“Tôi sẽ vào thẳng vấn đề. Tôi được ra lệnh ngưng cuộc tìm kiếm.”
“Sao cơ?”
“Chúng tôi đã tìm lại được hai mươi hai thi thể. Khám nghiệm pháp y trên răng cho thấy không có ai khớp với bạn anh.”
“Chỉ có hai mươi hai thôi sao?” Đó chỉ là một phần nhỏ trong số những cái chết theo ước tính dè dặt.
“Tôi biết, Trung tá. Nhưng những nỗ lực tìm kiếm bị cản trở bởi độ sâu cộng với sức ép. Toàn bộ đáy vũng chứa đầy hang hốc và lỗ dung nham, có nhiều cái trải dài hàng dặm như mê cung, cứ rối tung lên.”
“Nhưng mà, với …”
“Trung tá!” giọng viên thượng úy cương quyết. “Chúng tôi đã mất một thợ lặn hai ngày trước. Một sĩ quan tận tụy đã có gia đình và hai đứa con.”
Gray nhắm mắt, cảm nhận được nỗi đau mất mắt ấy.
“Tìm kiếm trong hang hốc chỉ gây nguy hiểm thêm đến tính mạng. Cuối cùng để làm gì?”
Gray vẫn im lặng.
“Trung tá Pierce, tôi chắc là anh chưa biết thêm thông tin gì khác. Không còn thông điệp nào khó hiểu hơn chứ?”
Gray thở dài.
Để có được sự hợp tác của viên thượng úy, ông đã phải dùng đến một thông điệp ông nhận được… hoặc là có khả năng đã nhận được. Chuyện xảy ra vài tuần sau khi Monk biến mất.
Dõi theo những sự kiện diễn biến trên đảo, phần duy nhất trên cơ thể bạn ông được tìm thấy là bàn tay giả, một sản phẩm công nghệ sinh học hiện đại được chế tạo bởi các kĩ sư tại DARPA và có gắn liền một mạch vô tuyến không dây. Khi đưa bàn tay đứt lìa đến đám tang của Monk, những ngón tay giả bắt đầu phát ra âm thanh s.o.s yếu ớt. chỉ kéo dài vài giây – và chỉ có Gray nghe thấy. Rồi nó trở nên câm lặng. Các kĩ thuật viên đã kiểm tra bàn tay và kết luận có khả năng đó là sự nhiễu điện đơn thuần. Nhật ký lưu trữ của bàn tay không cho thấy tín hiệu. Đó chỉ là một trục trặc. Không gì khác hơn. Một hồn ma trong thiết bị điện tử.
Gray vẫn không chịu từ bỏ – mặc cho hết tuần này đến tuần khác cứ thế trôi qua.
“Trung tá?” Trypol cất tiếng hỏi.
“Không,” Gray rầu rĩ thừa nhận, “vẫn chưa có thêm đầu mốinào khác”
Trypol ngưng một lúc rồi chậm rãi. “Vậy có lẽ đã đến lúc dẹp chuyện này sang một bên, Trung tá. Vì lợi ích của mọi người.” Giọng ông dịu lại ở cuối câu. “Thế còn Kat? Vợ của bạn anh. Bà ấy có nói gì sau tất cả mọi chuyện?”
Đó là vấn đề đau buồn. Gray chỉ ước sẽ chẳng bao giờ phải thông báo chuyện ấy cho bà. Nhưng có thể nào trốn tránh? Monk là chồng bà; họ có một cô con gái nhỏ tên là Penelope. Có thể chẳng qua đó chỉ là một việc làm không thích hợp. Kat lắng nghe câu chuyện từ Gray với vẻ hiện đầy cam chịu. Bà đứng đó trong bộ phục trang đen dành cho tang lễ, rất thẳng thớm, đôi mắt trĩu nặng đau buồn. Bà biết rằng cuộc sống là sợi dây mong manh, chỉ như một hy vọng nhất thời. Bà thoáng nhìn Penelope đang ngồi trong chiếc xe limo màu đen rồi quay sang Gray. Bà im lặng, chỉ lắc đầu một lần duy nhất. Bà không thể nào níu giữ sợi dây cuộc đời ấy. Bà tưởng chừng chẳng thể sống nổi khi mất đi Monk yêu dấu lần thứ hai. Sự thật khiến cho tâm hồn mong manh ấy tan nát thêm. Giờ đây bà chỉ còn lại Penelope, một phần xương thịt của Monk. Giọt máu thực sự của cả hai. Không phải hy vọng hão huyền nào cả.
Ông thấu hiểu điều đó. Nên ông tiếp tục cuộc điều tra cho riêng mình, ông không nói chuyện với Kat kể từ ngày ấy. Một thỏa thuận lặng thầm giữa họ. Bà không muốn nghe gì từ phía ông cho đến khi nào sự thật được sáng tỏ, dù là bằng cách nào đi chăng nữa. Mẹ của Gray thường tới thăm Kat và đứa trẻ mỗi buổi chiều. Mẹ ông không biết gì về tín hiệu s.o.s nhưng bà cảm nhận có điều gì đó bất thường xảy ra với Kat.
Bị ám ảnh, đó là những gì bà mô tả về Kat.
Và Gray biết điều gì ám ảnh Kat.
Quyết định của Kat ngày hôm đó là níu lấy sợi dây cuộc đời. Mặc cho lý trí cố gắng lãng quên, trái tim chẳng thể nào làm được, chúng cứ thế hành hạ Kat.
Vì Kat, vì gia đình Monk, Gray cần phải đối mặt với thực tại khắc nghiệt.
“Cảm ơn vì những nỗ lực của ông, Thượng úy,” Gray khẽ kết thúc.
“Anh đã rất cố gắng vì ông ấy, Trung tá. Tôi biết điều đó. Nhưng rốt cuộc chúng ta vẫn phải sống tiếp.”
Gray háng giọng, “cho tôi gửi lời chia buồn vì những mất mắt trong lực lượng của ông.”
“Tôi cũng chia buồn đến anh.”
Gray tắt máy, ông đứng lặng thinh một lúc lâu. Cuối cùng, ông bước đến tủ quần áo đối diện, áp lòng bàn tay lên mặt kim loại lạnh lẽo như tấm bia mộ.
Tôi xin lỗi.
Ông với tay gỡ một góc của miếng băng dính rồi xé toạc.
Gray kết thúc nhiệm vụ đuổi bắt những hồn ma.
Tạm biệt Monk.
4:02 chiều
Painter xoay đồng xu cổ trên mặt bàn. ông nhìn thấy ánh bạc lóe lên khi đang tập trung suy nghĩ về những bí ẩn ẩn giấu phía sau nó. Nó được trả lại từ phòng thí nghiệm cách đây nửa giờ đồng hồ. ông đã đọc hết báo cáo chi tiết liên quan đến nó. Đồng xu đã đươc ánh xa bằng tia laze để xác định dấu vân tay. Cả phần trong bằng kim loại và lớp muội bề mặt được phân tích bằng quang phổ kế hình khối, vô số các bức ảnh được chụp lại, vài bức trong đó chụp qua kính hiển vi nhìn nổi. Đồng tiền xoay chậm lại, lật ngửa trên mặt bàn làm bằng gỗ gụ. Hình vẽ cổ xưa trên bề mặt sáng lấp lánh sau khi được lau chùi kĩ càng.
Một đền thờ Hi Lạp được trụ đỡ bởi sáu khối cột Duric. (kiểu kiến trúc đơn giản nhất trong năm kiểu kiến trúc Hy Lạp cổ đại (ND).
Ngay trung tâm ngôi đền hiện rõ một kí tự lớn “E”
Chữ cái Hy Lạp Epsilon. (là chữ cái thứ năm của bảng chữ cái Hy Lạp. Các chữ cái xuất phát từ Epsilon bao gồm E trong tiếng La Mã và Ye trong tiếng Cyrill (ND).
Mặt còn lại có khắc tượng bán thân một phụ nữ với dòng chữ DIVA FAUSTINA ở bên dưới. Ít nhất thì nguồn gốc của đồng xu không còn là bí ẩn sau khi báo cáo được công bố.
Nhưng điều gì?
Dòng suy nghĩ của ông bị gián đoạn, “chỉ huy Crowe, Trung tá Pierce có mặt.”
“Tốt lắm. Cho ông ấy vào, Brant.”
Painter kéo bản báo cáo lại gần khi cửa bật mở. Gray bước vào, mái tóc đen đã chải nhưng còn ướt. Ông đã thay bộ quần áo dính máu bằng chiếc áo thun màu xanh lá có phù hiệu QUÂN ĐỘI ở phía trước, quần bò đen và giày ống. Painter để ý thấy nét mặt sầm lại cộng với chút mệt mỏi nhưng kiên định từ trong đôi mắt màu xanh xám của Gray. Painter có thể đoán ra lý do. Ông đã nghe ngóng từ văn phòng tình báo Hải quân qua các nguồn tin tức riêng.
Painter vẫy tay ra hiệu cho Gray ngồi xuống.
Ông dồn tập trung vào đồng xu trên mặt bàn khi Gray đã yên vị. Một thoáng tò mò lóe lên.
Painter dời đồng xu về phía Gray. “Trung tá, tôi biết anh sẽyêu cầu được nghỉ phép vô thời hạn, nhưng tôi muốn anh cầm trịch vụ này.”
Gray không để ý đến đồng xu. “ông có thể cho phép tôi đặt câu hỏi trước?”
Painter gật đầu.
“Người đàn ông đã chết. Vị giáo sư.”
“Archibald Polk.”
“Ông bảo rằng ông ấy đang trên đường đến đây. Để gặp ông.”
Painter gật đầu. Ông hoài nghi không rõ lời chất vấn sẽ đi về đâu.
“Vậy Giáo sư Polk có quen với Sigma? ông ta biết về tổ chức của chúng ta và bị khử vì những tin tức tối mật?”
“Phải. Đúng theo một cách nào đó.”
Gray cau mày. “Cách nào vậy?”
“Archibald Polk đã sáng lập ra Sigma.”
Painter thấy có chút thỏa mãn trong sự bất ngờ của Gray. Gray cần lấy lại chút thăng bằng, ông ngồi thẳng lại.
Painter giơ một tay lên. “Tôi đã trả lời câu hỏi của anh, Gray. Giờ là lúc anh trả lời tôi. Anh sẽ chỉ huy vụ này chứ?”
“Vị giáo sư bị bắn ngay trước mắt tôi, tôi chắc chắn muốn biết câu trả lời hơn ai hết.”
“Thế còn… những hoạt động bên lề của anh thì sao?”
Cái nhăn mặt đau đớn khiến mắt Gray khép lại. Mặt ông như giãn ra trong khi các bộ phận khác ở bên trong siết chặt. “Tôi chắc là ngài đã nghe.”
“Phải. Hải quân đã ngưng tìm kiếm.”
Gray hít thở sâu. “Tôi đã lần theo mọi ngõ ngách. Không còn gì để có thể tìm kiếm. Tôi phải thừa nhận như vậy.”
“Và anh nghĩ là Monk vẫn còn sống?”
“Tôi… Tôi không biết.”
“Và anh có thể sống trong nghi ngờ?”
Gray bắt gặp ánh nhìn xuyên thấu không nao núng của vị giám đốc. “Phải vậy thôi.”
Painter gật đầu hài lòng. “Còn chuyện đồng xu này.”
Gray với lấy đồng xu trên bàn. Xoay nó trên tay, ông kiểmtra bề mặt đã được lau chùi sáng bóng, “ông có xác định được gì về nó chưa?”
“Một chút. Đó là một đồng xu La Mã được đúc từ thế kỷ thứ hai. Nhìn vào chân dung người phụ nữ ở mặt sau đi. Đó là Faustina Mẹ (vợ của hoàng đế La Mã Antoninus Pius, người cai trị đế quốc La Mã từ năm 137 đến năm 161 sau Công nguyên, có con gái là Faustina Con (ND).), vợ của hoàng đế La Mã Antoninus Pius. Bà là người bảo trợ cho các thiếu nữ mô côi đồng thời tài trợ cho rất nhiều hội từ thiện của phụ nữ. Bà cũng có niềm đam mê dành cho một hội từ thiện của các thầy bói, những nhà tiên tri trong một ngôi đền ở Hy Lạp.”
Painter ra hiệu cho Gray lật lại đồng xu. “Mặt kia chính là đền thờ. Ngôi đền của Delphi.”
“Có phải Nhà Tiên tri của Delphi? Những nữ tiên tri?”
“Tương tự vậy.”
“Những báo cáo liên quan đến đồng xu bao gồm một tư liệu lịch sử về Nhà Tiên tri có nêu chi tiết rằng những người phụ nữ này sẽ hít khói tạo ảo giác và trả lời những câu hỏi về tương lai do chúng dân cầu xin. Nhưng những lời tiên tri của họ gây tác động mạnh hơn là bói toán, vì họ có tầm ảnh hưởng lớn đến thế giới cổ đại”.
“Trong suốt một thiên niên kỷ, những lời tiên tri đóng vai trò lớn cho việc giải phóng nô lệ, gieo mầm cho nền dân chủ phương Tây và đề cao tính thiêng liêng của cuộc sống loài người. Một số tuyên bố rằng lời tiên tri của họ là yếu tố quyết định đưa Hy Lạp ra khỏi lạc hậu, hướng đến một nền văn minh tiên tiến.”
“Thế còn chữ E lớn ở giữa ngôi đền?” Gray lên tiếng. “Tôi cho rằng cũng là một chữ cái Hy Lạp. Chữ cái Epsilon.”
“Phải. Nó cũng xuất phát từ ngôi đền của Nhà Tiên tri. Có một vài khắc mục bí ẩn trong đền thờ như: Gnothi seauton, được dịch là…
“Thấu tự trong thân,” Gray trả lời.
Painter gật đầu. Ông phải nhắc mình nhớ ra là Gray thành thạo triết học cổ đại. Khi Painter tuyển dụng ông từ nhà tù Leavenworth, Gray đã học qua ngành hóa học và Cao cấp Thần học. Đó là đặc điểm tư duy rất khác biệt khiến Painter tò mò thích thú ngay từ đầu. Nhưng mỗi khác biệt đều có cái giá của nó. Không phải lúc nào Gray cũng giỏi mọi mặt, như những gì ông đã thể hiện rõ trong mấy tuần qua. Tin tốt là ông đã quay trở lại với hiện tại và vị trí của mình.
“Vậy là có một chữ cái E bí ẩn,” Painter vừa tiếp tục vừa gật gù trước đồng xu. “Nó được khắc ngay trong chính điện của ngôi đền.”
“Nhưng thế có nghĩa gì?”
Painter nhún vai. “Không ai biết. Ngay cả những người Hy Lạp. Các nhà sử học đã nghiên cứu ý nghĩa của nó trên đường quay trở về tìm hiểu học giả cổ đại người Hy Lạp mang tên Plutarch. Suy nghĩ của các sử gia hiện đại cho rằng đã từng có hai ký tự. Ký tự G và E, đại diện cho nữ thần Đất Gaia. Ngôi đền cổ nhất tại Delphi được xây nên để thờ thần Gaia.”
“Nếu ý nghĩa quá bí ẩn thì sao lại được miêu tả trên đồng xu?”
Painter đẩy tập báo cáo về phía Gray. “Anh có thể đọc thêm cái này để biết rõ. Theo thời gian, ký tự E của Nhà Tiên tri đã trở thành một biểu tượng cho một giáo phái về tiên tri. Nó được mô tả trong các bức tranh qua suốt các thời kỳ, khắc họa ngay trên đầu chúa Giêsu khi Người trao chìa khóa của Thượng đế cho Peter, trong bức Định đoạt của họa sĩ Nicolas Poussin (một họa sĩ người Pháp thuộc trường phái cổ điển (ND). Biểu tượng được xem là đánh dấu một thời kỳ chuyển biến cơ bản và vĩ đại đối với thế giới, do một cá nhân duy nhất mang lại, phải chăng đó chính là Nhà Tiên tri của Delphi hay chúa Giêsu xứ Nazareth.” (thủ phủ và thành phố lớn nhất vùng phía Bắc Israel, được mô tả là quê hương thời niên thiếu của Chúa Giêsu).
Gray bỏ lại tập tài liệu lên bàn và lắc đầu. “Nhưng tất cả những thứ này có gì liên quan đến vị giáo sư đã chết?” Gray nhặt đồng xu lên. “Thứ này có giá trị? Đáng để giết người ư?”
Painter lắc đầu. “Chưa đặc biệt đến vậy. Giá trị phải chăng nhưng không có gì ngoạn mục hơn thế.”
“Vậy thì vì cái gì?”
Liên lạc nội bộ ngắt lời ông. “chỉ huy Crowe, tôi xin lỗi làm gián đoạn,” tiếng trợ lý của ông trên loa.
“Gì thế, Brant?”
“Ông có cuộc gọi khẩn của Tiến sĩ Jennings từ phòng thí nghiệm bệnh lý. Ông ấy yêu cầu thảo luận trực tuyến ngay bây giờ.”
“Được thôi. Kết nối với màn hình số một.”
Gray đứng lên chuẩn bị đi, Painter vẫy tay ra hiệu cho ông ngồi lại rồi xoay ghế. Văn phòng của ông nằm sâu trong một công sự ngầm, không có cửa sổ nhưng có ba màn hình tinh thể lỏng treo tường. Những cửa sổ bí mật của ông để nhìn thấy thế giới. Hiện tại cả ba đều tối om nhưng bàn hình bên trái đã nhấp nháy ánh sáng.
Painter nhìn chăm chú vào một trong những phòng thí nghiệm bệnh lý. Tiến sĩ Malcolm Jennings đứng ở vị trí cận cảnh. Vị trưởng phòng R&D (viết tắt của Research & Development – phòng Nghiên cứu và Phát triển (ND) đã sáu mươi tuổi của Sigma mặc trang phục phẫu thuật khử trùng và đội chiếc mũ bảo vệ bằng nhựa trong suốt hơi nghiêng trên đỉnh đầu. Phía sau ông là khu bệnh lý: sàn nhà phủ bê tông kín, những dãy cân kĩ thuật số, một thi thể nằm trên bàn, tấm ga kính cẩn phủ lên.
Giáo sư Archibald Polk.
Phải mất vài cuộc gọi điều đình với nhà xác của thành phố mới đưa được thi thể ông đến Sigma, vả lại Malcolm Jennings là một nhà bệnh học pháp y được nể trọng.
Nhưng nhìn cách đối xử nhẫn tâm trên miệng các vết thương, dường như có điều gì đó bất ổn.
“Gì vậy, Malcolm?”
“Tôi phải cách ly phòng thí nghiệm.”
Painter không thích nghe tín hiệu đó. “Lo ngại vì bệnh truyền nhiễm sao?”
“Không, nhưng có điều rất đáng quan tâm. Để tôi chỉ anh xem.” ông bước ra khỏi tầm máy quay nhưng giọng vẫn còn vang. “Từ lúc khám nghiệm thi thể sơ bộ, tôi đã nghi ngờ. Tôi phát hiện nhiều mảng tóc đã rụng, men răng bị ăn mòn và mấy vết bỏng trên da của ông ta. Nếu ông ta không bị bắn, tôi dám cá là ông ta cũng sẽ chết trong khoảng vài ngày sau.”
“Ông nói sao cơ, Malcolm?” Painter hỏi lại.
Ông không nghe rõ. Nhà bệnh học trở lại vị trí máy quay, lúc này đã mặc thêm một tấm áo phủ nặng nề hơn. Ông mang theo một thiết bị có gắn bút thử màu đen.
Gray đứng dậy và di chuyển đến gần màn hình.
Tiến sĩ Jennings khua cây bút thử màu đen trên thi thể. Thiết bị trên tay ông phát ra tiếng lách cách liên hồi. Nhà bệnh học quay lại nhìn thẳng vào máy quay.
“Cơ thể này bị nhiễm phóng xạ.”