Nhà Tiên Tri Cuối Cùng

CHƯƠNG 22: NGÀY 28 THÁNG 9,4:21 PM THỦ ĐÔ WASHINGTONL D.C.



Painter băng qua đám lều bạt và xe hàng nằm la liệt dọc công viên National Mall. Trại của người Gypsy trải dài trên những bãi cỏ xanh mướt. Lều truyền thống được tạo thành từ những thanh sào bằng gỗ phỉ cắm sâu xuống đất và một lớp vải buồm phủ lên. Sản phẩm hiện đại hơn thì được mua trong mấy cửa hàng bán dụng cụ thể thao. Xe ngựa cũng rất đa dạng, kiểu dáng đơn giản cho đến cồng kềnh, ống khói gắn trên những bánh xe cao ngất đủ màu sắc.
Người Romani từ khắp nơi trên thế giới hồ hởi tụ tập về đây. Ngựa được quây trong khu chuồng tạm, trẻ em nô đùa, âm nhạc tưng bừng, những tràng cười rộn rã khắp nơi. Mỗi ngày trôi qua lại có thêm nhiều niềm vui tiếp nối.
Một buổi lễ cảm ơn chính thức từ tổng thống sẽ diễn ra vào cuối tuần. Không gì có ý nghĩa hơn là cứu được tính mạng của một ai đó, khiến họ luôn biết ơn và tìm cách đáp đền. Chứ đừng nói đến việc cứu toàn bộ thế giới này.
Painter men theo con đường có lũ trẻ nhốn nháo chạy qua, chó sủa inh ỏi. Các du khách cũng đổ xô vào những góc chợ hẹp nằm giữa dãy phố quanh co, mua sắm các loại nữ trang rẻ tiền, xem bói hoặc đơn giản là ngắm nghía đám đông nhộn nhịp. Painter nhìn lên Đài tưởng niệm Washington để giúp ông định hướng, tiếp tục hành trình.
Rẽ vào góc khuất, không gian thoáng đãng mở ra trước mắt, chiếc xe ngựa khổng lồ được trang trí công phu xoay lưng về phía ông. Những cánh cửa gỗ để ngỏ. Một căn nhà ấm cúng với chiếc giường tầng, tủ sơn đỏ và vàng khá sáng sủa. Bệ lò sưởi nho nhỏ được khắc hình thù kỳ lạ.
Luca ngồi say sưa trò chuyện cùng Gray trên bậc tam cấp của chiếc xe. Một tay của Gray vẫn đeo băng. Cách đó vài bước, Shay Rosauro đang mải mê chơi trò phóng dao cùng nhóm người Gypsy. Lưỡi dao bay vút trong không trung, găm thẳng vào điểm đen, hạ gục một con dao của đối thủ. Tiếng reo hò trầm trồ lẫn tiếc rẻ vang lên, có vẻ như bà đang thắng thế. Painter ngạc nhiên nhận ra Elizabeth và Kowalski từ đằng xa. Người phụ nữ này có lẽ vừa từ Ấn Độ trở về để tham dự buổi lễ.
Cô đã làm việc cùng những sử gia người Romani và chuyên gia khảo cổ học Ấn Độ trong quá trình khai quật di tích đền đàiHy Lạp bị chôn vùi.
Ông nhìn sang tấm biểu ngữ bên phải, giăng ngoài mặt tiền của Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên. Hình ảnh một ngôi đền Hy Lạp trên núi cùng ký tự epsilon viết hoa nổi bật ở chính giữa là thông tin chính thức cho cuộc triển lãm sắp tới, nói về đề tài Nhà Tiên tri của Delphi. Khám phá khảo cổ được tiết lộ gần đây là nguyên nhân khiến vé tham quan bán hết sạch trước đó vài tháng. Những người Gypsy rất háo hức muốn được chiêm ngưỡng nguồn gốc thị tộc của họ.
Luca phát hiện sự có mặt của Painter liền đứng dậy. Luca mặc một chiếc quần rộng, thắt lưng to bản, kết hợp với giày ống đen và bộ vét để hở khoác bên ngoài lớp áo sơ mi dài tay có thêu họa tiết. “A, Giám đốc Crowe! Hoan nghênh ông!”
Painter kính cẩn cúi đầu chào vị tộc trưởng. “Nais Tuke,” ông cất lời cảm ơn bằng tiếng Romani.
Giống như Kowalski, Gray mặc trang phục giản dị, quần bò và áo thun nhẹ. Liên tiếp mấy ngày qua, lui tới đây đã trở thành thói quen của hầu hết mọi người. Những tuần dài dành cho hội họp và tang lễ đã kết thúc. Painter cùng Lisa lang thang quanh khu vực này gần như mỗi tối. Họ tay trong tay tản bộ, không ai nói lời nào, chỉ lắng nghe những bài hát và tiếng cười hạnh phúc phát ra từ mỗi tổ ấm nhỏ đang quây quần ăn tối bên ánh nến. Painter thanh thản khi hòa mình vào dư vị tươi sáng và thiết tha của cuộc sống yên bình, ông còn được nghe những bài hát truyền thống, tìm lại niềm vui thân thuộc thuở thơ bé, những lễ hội từ khu bảo tồn Mashantucket, cảm giác giống như được quay trở về nhà… dù chỉ là thoáng qua. Nhưng buổi tụ họp hôm nay mang tính trang trọng và thực tiễn hơn.
Mọi người tiến đến chiếc bàn gỗ ép. Hai chú ngựa chiến được nhốt gần đó.
Vừa ngồi xuống, Gray liền vào chủ đề, “Cuộc họp diễn rathế nào?”
Luca nhìn ông với ánh mắt rạng ngời. Painter vừa tham dự cuộc họp với những đại diện của Bộ Ngoại giao, Đại sứ quán Nga và một vài tổ chức phúc lợi dành cho trẻ em. Tình trạng của bảy mươi bảy đứa trẻ là chủ đề tranh luận chính. Có khá nhiều thỉnh cầu được đặt ra.
“Người Nga vui vẻ thừa nhận mọi thẩm quyền thuộc về chúng ta,” Painter bắt đầu. “Họ còn nhiều thứ phải bận tâm. Những nghiên cứu về phóng xạ mới đây từ lực lượng đặc nhiệm phối hợp cho biết một phần nước từ hồ Karachay đã tràn vào mạch ngầm gây ra thảm họa cục bộ, mặc dù diện tích di tản lên đến vài dặm tại vùng hạ lưu, nhưng nó vẫn chưa lan rộng ra toàn cầu. Hệ thống cống ngầm đã được ngăn kịp thời.”
Gray tỏ ra bớt căng thẳng. “Còn lũ trẻ?” Painter cũng vừa ghé thăm bệnh viện sáng nay. Toàn bộ một khu vực của Bệnh viện Đại học George Washington được rào chắn để kiểm soát những đứa trẻ đến từ Nga. Đội ngũ bác sĩ chuyên khoa thần kinh đã rất kĩ lưỡng tháo rời dần từng mô cấy suốt mấy tuần qua. Trưởng khoa phẫu thuật đưa ra chẩn đoán ban đầu rằng việc tách rời là một quy trình tinh vi nhưng không quá phức tạp. Mô cấy cuối cùng đã được loại bỏ cách đây vài ngày. Chúng đều hồi phục rất tốt.
“Kiểm tra cho thấy khả năng bác học vẫn tồn tại ở những đứa trẻ nhưng ở mức độ suy yếu đáng kể,” Painter tiếp lời. “Tiếp xúc trực quan cuối cùng giữa chúng có vẻ như đã đốt cháy cấu trúc thần kinh nền tảng tạo ra những khả năng phi thường. Nhưng ngược lại, thay đổi cũng khiến những biểu hiện tự kỷ giảm bớt. Lũ trẻ đều tiến triển rất khả quan. Những ai giữ trọng trách nuôi dưỡng lũ trẻ vẫn sẽ phải theo dõi thể trạng đồng thời có những đánh giá tâm lý thường xuyên liên quan đến năng khiếu và sức khỏe tâm thần tổng quát của chúng.”
Luca lúc này đang tư lự nhưng mắt ông sáng bừng hy vọng. Painter mỉm cười. “Hội đồng đã nhất trí rằng lũ trẻ sẽ được giao cho những gia đình Gypsy chăm sóc.”
Luca đấm mạnh vào bàn. “Đồng ý!”
Hành động quyết liệt của ông được hưởng ứng bằng tiếng hí vang và cú giậm chân chắc nịch từ con ngựa chiến.
Painter dành thêm nửa tiếng đồng hồ giải thích mọi chi tiết, giúp Luca trấn tĩnh lại nhưng rõ ràng không làm dịu đi chút ánh sáng nào trong đôi mắt người đàn ông Gypsy này. Kết thúc vấn đề, mọi người đứng lên và bắt đầu giải tán.
Kowalski không rời Elizabeth nửa bước. “Cô trở lại rồi,” Kowalski thì thào, tay vuốt vuốt mảng da đầu đã cạo nhẵn. “Cô có muốn… à, ta có thể…?”
Gray đột ngột lùi lại nhường chỗ cho mọi cố gắng của anh chàng, nháy mắt để Painter lánh sang một bên. “Chắc thành công cốc mất thôi.”
“Gì thế, Joe?” Lông mày Elizabeth nhướn lên đầy tò mò.
Anh chàng lắp bắp, rủa thầm bản thân rồi bất ngờ lấy hết can đảm đứng ngay người lại. “Cô có muốn hai ta hẹn hò không?”
Trôi chảy, Painter cố nín cười.
Elizabeth nhún vai bước đi. “Anh muốn nói đến cuộc hẹn thứ hai à?”
Kowalski chưa hiểu ra vấn đề, mặt nhăn như bị.
“Tôi nghĩ lúc bị bắn, bị bắt cóc, gặp nguy hiểm và cứu cả thế giới đã là cuộc hẹn đầu tiên rồi.”
Anh chàng rảo bước theo cô, đầu óc mở mang được đôi chút. “Thế là cô đồng ý đúng không?”
Elizabeth gật đầu. “Miễn là anh mang theo mấy điếu xì gà.”
Kowalski cười nhăn nhở. “Tôi có cả một hộp… Ôi trời, phân!” Anh chàng dừng lại, dán mắt vào đôi giày, cả bàn chân trái nằm gọn trên một bãi phân ngựa, “ối đôi Chukkas mới toanh của tôi!”
Elizabeth khoác tay anh chàng bước tiếp. “Rửa sạch được,đánh bóng bằng tay…”
Cả hai hòa vào đám đông.
Gray lắc đầu. “Kowalski mà hẹn hò thì tôi nghĩ địa ngục thêm chút giá lạnh rồi.” Painter và Gray hướng về tòa nhà Smithsonian. Hàng tấn công việc đang chờ họ giải quyết, sở chỉ huy Sigma vẫn xáo trộn cả về mặt chính trị lẫn cơ cấu tổ chức. Họ mất vài nhân sự chủ chốt từ đợt công kích đầu tiên, cả một tầng bị niêm phong vì trận bão lửa. Quá trình sửa chữa và kiểm tra cơ sở hạ tầng đang tiến hành. Nhưng vấn đề chính trị còn muôn phần rối rắm. Họ đã bắt được Tiến sĩ James Chen, một thành viên của nhà Jason có liên hệ với Mapplethorpe và McBride. Qua thẩm vấn, hắn khai có nhiệm vụ trợ giúp nhổ tận gốc những thành viên Jason bị mua chuộc trong số các nhà khoa học chân chính làm việc cho Bộ Quốc phòng. Mapplethorpe là trường hợp ngoại lệ. Hắn có tay trong mạng lưới tình báo rộng khắp Washington. Liệu chăng vẫn tồn tại một cơ sở ngầm nào đó do hắn điều hành, hoặc có thành viên của Washington hỗ trợ cho hoạt động của hắn. Kết quả là, các cơ quan tình báo vẫn tiếp tục làm việc, vừa phòng vệ vừa âm thầm điều tra. Ngay cả với hàng ngũ Sigma.
Trong khi đám kền kền còn lượn lờ, Painter có được sự ủng hộ từ vị tổng thống đáng kính. Hoàn cảnh khá thuận lợi, nhưng họ phải chuẩn bị mọi thứ sẵn sàng, không thể ngồi yên chờ đợi. Painter đã lên kế hoạch gặp gỡ nhân vật thay thế cho Sean McKnight vào ngày mai, giám đốc lâm thời của DARPA. Tổng thống đề nghị Painter giữ chức vụ này nhưng ông từ chối. Sigma cần được duy trì vững chắc. Painter không thể rời bỏ Sigma, đứa con tinh thần của cả Archibald Polk và Sean McKnight.
Painter xoay sang nhìn Gray. “Chắc anh sẽ dành cả ngày mai ở bệnh viện.”
Ông gật đầu. “Kat cần có người bên cạnh.”
Cuộc phẫu thuật cho bệnh nhân Monk Kokkalis được ấn định lúc sáu giờ sáng. Kết quả chụp cộng hưởng từ cho biết điều gì đã xảy đến với Monk ở Nga, nhưng vẫn chưa chắc chắn tổn thương có thể đảo ngược hay không. Người Nga đã gắn một vi mạch vào hạch hạnh nhân nằm ở tâm não. Các nhà thần kinh học tin rằng con chíp đã tạo ra cũng như duy trì dịch lỏng làm mất trí nhớ. Đó là một kĩ thuật đang được nghiên cứu bằng việc sử dụng hóa chất, cụ thể là propranolol với vai trò phương thuốc thử nghiệm nhằm loại bỏ những ký ức thương tổn quá lớn. Người Nga dùng công nghệ sinh học tương đương để tác động lên Monk.
Cuộc phẫu thuật diễn ra sau khi Monk hoàn thành một loạt các điều trị chống phơi nhiễm phóng xạ. Các nhà thần kinh học mất nhiều thời gian nghiên cứu trường hợp của Monk nhưng họ vẫn chưa thể kết luận liệu ông có lấy lại được trí nhớ – đặc biệt là khi máy chụp cộng hưởng phát hiện ra vấn đề khác. Để cài đặt con chíp, một phần vỏ não của Monk đã bị gỡ bỏ.
Painter nhớ lại vẻ mặt kinh hoàng của Gray khi biết được điều này và cả câu nói thất thần của ông: Đầu tiên là bàn tay, giờ lại là não bộ… giống như Monk đang bị gọt đẽo dần.
“Có dấu hiệu nào cho thấy Monk nhận ra Kat không?” Painter hỏi thêm.
Gray lắc đầu. “Bác sĩ hầu như không cho bà ấy gặp. Họ tin là khi con chíp còn ở trong đầu, căng thẳng kiểu như cố tìm mối liên hệ cảm xúc với Kat sẽ khiến thương tổn nặng nề hơn.”
“Nhưng bà ấy đã ghé thăm.”
Ông gật đầu xác nhận. “Bà ấy đã đến. Đi vào phòng cùng một nhóm các y tá. Monk trò chuyện với họ nhưng không có phản ứng gì khi nhìn thấy Kat. Không chút phản ứng. Bà ấy hầu như suy sụp. Monk đã trở lại nhưng vẫn quá xa cách.”
“Vậy thì ta phải cầu nguyện cho mọi việc được tốt lành.”
Ngày 29 tháng 9, 6:21 chiều
Bệnh viện Đại học George Washington
Ông tỉnh dậy trong một căn phòng chói lòa. Ánh sáng khiến mắt ông nhức nhối, âm ỉ xuyên sâu vào óc. Cảm giác buồn nôn ập đến, những đợt sóng mang theo mối liên hệ nào đó cũng dâng trào, ông khó nhọc nuốt lấy hơi vài lần rồi từ từ hòa nhập vào không gian trước mắt.
Một phụ nữ mảnh khảnh trong bộ áo xanh vỗ nhẹ lên tay ông. “ông đây rồi, ngài Kokkalis. Hít thở đều nhé.” Cô quay lưng đi. “Lần này ông ấy sẽ tỉnh táo hơn.”
Cơn choáng váng lắng dịu. Tiếng trống dồn trong đầu lúc này cũng đã biến thành một giai điệu chậm chạp buồn tẻ. Ông nhận ra mình đang nằm trong phòng bệnh, cố nhớ lại chút ký ức rời rạc. Cuộc phẫu thuật. Thanh nẹp nhựa buộc cố định một cánh tay gắn những đường truyền máu và nước biển. Thiết bị theo dõi đặt cạnh phát ra tiếng bíp bíp.
Monk định đổi hướng nhìn nhưng cổ ông đau nhói, ống truyền chạy dọc từ mảnh băng trên đỉnh đầu.
Đội ngũ bác sĩ đến thăm khám cho ông, rọi đèn vào mắt, làm một vài kiểm tra vận động thần kinh đơn giản, đánh giá khả năng nuốt trôi bằng nước đá và thực hiện những xác minh liên quan đến chức năng thần kinh sọ não. Sau khoảng mười phút, họ rời đi để hội chẩn, bỏ lại hai nhân vật đứng ở cuối giường.
Monk nhận ra người đàn ông. “Gray…” giọng ông khàn khàn, cổ họng còn đau buốt vì ống đặt khí quản.
Mắt Gray rạng rỡ.
Monk biết rõ những gì họ hy vọng, chính ông cũng hy vọng, nhưng ông lắc đầu. Chẳng qua đó là người ông từng gặp ở Nga. Một phụ nữ nổi bật trong trang phục quần bò và áo choàng rộng đứng cạnh đó, mái tóc nâu vàng xõa trên vai. Đôi mắt màu lục bảo đang kiếm tìm ở Monk chút ý thức. Nhưng ông chưa hề có ý niệm gì.
Gray nắm nhẹ khuỷu tay bà. “Có lẽ còn quá sớm, Kat à. Bác sĩ nói là phải mất vài tháng.”
Bà khẽ xoay người lau nước mắt, nghẹn ngào. “Tôi biết.”
Mọi giác quan bỗng trở nên nhạy bén, Monk cảm nhận được mùi không khí quen thuộc, một hương thơm ngọt ngào. Không có ký ức xen kẽ nhưng dư vị càng lúc càng đậm đà. Có điều gì… điều gì đó…
“Ta nên để ông ấy nghỉ ngơi,” Gray dẫn Kat ra cửa. “Mọi người sẽ lại ghé thăm vào buổi sáng. Ngày hôm nay anh vất vả nhiều rồi. Anh phải bình phục để còn đưa Kat về nhà.”
Gray gật đầu chào sau chiếc xe đẩy màu xanh. Một đứa trẻ đang rúc trong chăn, đầu đội mũ, mắt nhắm nghiền, môi chúm chím.
Monk không rời mắt khỏi đứa trẻ. Thanh âm dữ dội ùa về từ trong hư vô…. những ngón tay bé xíu cuộn tròn… một hành lang tối thăm thẳm, mỏi mệt, khẽ ru
… một hình hài trong vòng tay… bàn chân nhỏ quẫy đạp khi ông thay mảnh tã…
Chỉ là những vụn vỡ. Không rõ đầu đuôi. Nhưng lần này, thứ ánh sáng êm dịu đó vẫn lưu lại trong ông.
Ông chợt nhận ra một mảnh vỡ nhỏ của riêng mình.
“Cô bé… tên cô bé…” cả hai người quay lại. “Là Penelope.”
Người phụ nữ lặng nhìn đứa trẻ rồi hướng về ông. Bà run lên trong nước mắt đang tuôn trào những dòng hạnh phúc. “Monk…”
Bà lao đến, ôm lấy ông. Nụ hôn nhẹ nhàng ẩn dưới mái tócxõa tung.
Ông nhận ra.
Hương vị của quế, đôi môi mềm… vẫn không nhớ nổi cái tên, nhưng tình yêu trào dâng khiến nước mắt đong đầy. Có thể sẽ chẳng bao giờ nhớ nổi, Monk chỉ biết rằng tim ông đang rạo rực một niềm tin: nếu như người phụ nữ ấy đồng ý, ông sẽ dành cả quãng đời còn lại để tìm kiếm yêu thương đánh mất.
7:01 tối
Gray bước ra hành lang bệnh viện, để lại không gian riêng tư cho Kat và Monk. Ông muốn đến thăm một bệnh nhân cuối cùng. Rảo bước qua khu bệnh nhi, ông giơ thẻ căn cước cho người sĩ quan vũ trang đang trực bảo vệ tại đây.
Phải băng qua vài khu nữa và những buồng bệnh nhỏ. Tường được sơn hình bong bóng và nhân vật hoạt hình. Cậu bé có vóc dáng lênh khênh mặc bộ pyjama bệnh viện đang sánh bước cùng bé gái nhỏ nhắn, cả hai đều cạo trọc một bên đầu. Chúng hào hứng nói chuyện bằng tiếng Nga.
Lũ trẻ dường như đã vượt qua thử thách, hồi phục nhanh chóng.
Tất cả, ngoại trừ một cậu bé.
Ông tiến đến căn phòng riêng ở cuối hành lang, cửa mở, có giọng nói vang lên từ bên trong.
Gray gõ nhẹ và bước vào. Căn phòng bày biện một giường đơn, khu vui chơi nhỏ cùng chiếc bàn nhựa màu vàng dành cho trẻ em, ghế xếp xung quanh. Tiến sĩ Lisa Cummings đang chăm chú điền vào biểu đồ trên tay. Bà dùng kinh nghiệm y khoa của mình để trợ giúp cho các bác sĩ và chuyên gia phẫu thuật đồng thời báo cáo tình hình cho Painter, hỗ trợ giải quyết mọi vấn đề phát sinh.
Sasha tỉ mẩn tô màu bên chiếc bàn nhựa. Cô bé đội mũ bê-rê hồng che đi khoảng đầu bị cạo trọc.
“Bác Gray!” Cô bé mừng rỡ gọi, nhảy khỏi ghế như một chú thỏ, chạy lại ôm chầm lấy chân ông.
Ông vỗ nhẹ lên vai cô bé.
Sasha cũng thường xuyên đến đây thăm em trai mình.
Pyotr ngồi trên xe lăn cạnh cửa sổ, đăm đăm hướng về khoảng không chạng vạng. Nhìn cậu bé giống một người nộm. Thẳng đứng, cứng đờ, thiếu phản ứng.
“Có thay đổi nào không?” Gray hướng về phía biểu đồ trên tay Lisa.
“Thật ra là đôi chút. Cậu bé đã ăn được bằng thìa. Thức ăn cho trẻ nhỏ. Gần như là bé lại vậy. Các bác sĩ hy vọng qua thời gian, cơ thể cậu sẽ phát triển dần.”
Gray cũng mong là họ sẽ đúng. Cậu bé đã cứu cả thế giới, hy sinh mọi thứ để thực hiện điều đó.
“Gray, chúng tôi để anh một mình với cậu, đưa cậu vềgiường nhé.”
Gray gật đầu.
“Đi thôi Sasha, về phòng của cháu nào.” “Khoan đã!” Cô bé buông chân Gray và chạy đến bên Pyotr.
“Nói chúc ngủ ngon với Pyotr rồi ta đi thôi,” Lisa dứt khoát.
Sasha hôn em trai rồi quay trở lại, đưa hai tay lên cao phía trước mặt Gray.
Ông cũng quỳ xuống nhận nụ hôn tạm biệt lên má. Sẵn tiện, cô bé dựa sát vào người ông, nắm lấy vành tai ông thì thầm bằng một giọng điệu bí ẩn.
“Pyotr không ở trong hình hài đó đâu bác. Có ai khác ở trong đó. Nhưng cháu vẫn yêu em ấy.”
Gray hơi rùng mình trước lời nói của cô bé. Sasha chắc đã nghe lỏm từ các bác sĩ. Dự đoán cuối cùng khá ảm đạm. Cho dù khôi phục được phần nào, Pyotr vẫn sẽ không còn là chính mình.
Gray xoa cánh tay động viên cô bé. Tốt hơn hết là để cô bé tự thích nghi với thực tế theo cách riêng.
“Sasha,” Lisa nghiêm khắc gọi.
“Khoan đã!” Cô bé hối hả chạy lại bàn. “Cháu có cái này cho bác Gray.” Đống giấy lộn xộn được gom gom xếp xếp.
Gray vẫn kiên nhẫn quỳ gối đợi.
Lisa mỉm cười. “Cô bé này rõ ràng chưa muốn đi ngủ mà.”
Cuối cùng một trang giấy bị xé bay khỏi quyển sách tô màu. Cô bé lao về phía Gray, dúi vào tay ông. “Đây ạ,” giọng đầy tự hào.
Gray ngắm bức tranh chú hề. Ngoài nét tô màu hoàn hảo, cô bé còn tạo bóng khiến cho chú hề có thêm sắc thái buồn và hơi đáng sợ. Năng khiếu nghệ thuật rõ ràng chưa mất đi.
Sasha ngả người bên tai ông lần nữa. “Bác sắp chết.”
Gray giật mình lùi lại, không chút đe dọa nào trong giọng nói bình thản ấy, âm hưởng thực tế như một lời dự báo thời tiết. Có lẽ Sasha đang đấu tranh để hiểu được khái niệm về cái chết. Cô bé đã đối mặt với nó quá nhiều, ngay cả cậu em trai thân thiết cũng đang lơ lửng đâu đó giữa sự sống và cái chết.
Gray không biết phải phản ứng ra sao. Ông chưa từng nói dối cô bé. Ông đứng dậy, một tay đặt lên vai Sasha. “Tất cả chúng ta đều sẽ chết, Sasha. Đó là quy luật tự nhiên.”
Cô bé thở dài não nuột, đúng kiểu cáu giận thái quá của những đứa trẻ.
“Không, ngớ ngẩn.” Cô bé vẫn kiên quyết đưa ngón tay lên. “Bác phải cẩn thận với nó! Bởi thế cháu mới vẽ đấy!”
Lisa chỉ về phía cửa. “Đủ rồi, Sasha. Đã đến giờ đi ngủ.”
“Khoan đã!”
“Không.”
Cô bé tiu nghỉu để cho Lisa kéo đi, cánh tay vươn cao vẫychào Gray.
Họ vừa đi khỏi, Gray đến bên Pyotr. Ông muốn cậu bé biết rằng cậu không bị quên lãng, rằng sự hy sinh cao cả luôn được khắc ghi. Ông cũng đến đây vì Monk. Pyotr có ý nghĩa quá lớn lao đối với bạn ông. Gray cảm thấy mình có nghĩa vụ quan tâm, bảo bọc lấy cậu.
Những lần đến thăm còn là niềm an ủi vô bờ xoa dịu trái tim ông. Sự yên bình bên cạnh đứa trẻ này khó mà giải thích, như thể thấu cảm vẫn tỏa ra xung quanh.
Ngay lúc này đây, mọi thứ lại hiện về. Hình ảnh cậu bé đưa Monk đến cuối hành lang. Gray hiểu ra ý định của Pyotr lúc đó. Chị gái cậu đã cứu tính mạng Monk bằng cách đưa ông ra khỏi lòng biển khơi, gắn ông với cuộc đời chúng và Pyotr có sứ mệnh trao trả lại, tương tự như việc đặt chiếc kềm đi mượn vào đúng hộp đồ nghề của chủ nhân nó.
Tất cả đã xảy ra… không phải do may mắn, cũng chẳng phải ngẫu nhiên. Ông ngắm nhìn Pyotr đồng thời mường tượng đến Sasha.
Tất cả được phối hợp nhuần nhuyễn.
Ông nhớ lại mục tiêu của Nicolas Solokov: thao túng những tài năng bác học để tạo ra đấng tiên tri vĩ đại tiếp theo của thế giới. Một Đức Phật, một Tiên tri Mohammed hay thậm chí là Chúa Giêsu mới. Gray từng chia sẻ với Monk mọi suy xét thấu đáo khi cả hai ghé thăm Pyotr. Monk đã gật đầu thừa nhận.
Có lẽ người Nga thành công hơn họ tưởng tượng.
Như nhiều vĩ nhân khác, Pyotr cũng phải nếm trải hy sinh. Giờ đây sự thật sẽ không bao giờ được hé lộ. Và biết đâu lại tốt hơn.
Gray thở dài, gạt đi suy nghĩ phiền muộn. Ông gấp trang giấy tô màu của Sasha. Không thể dối lòng, điều ông quan tâm lúc này là hình ảnh những chú hề đáng sợ. Bất ngờ nhận ra điều gì trên mảng giấy trắng phía sau, ông lại giở ra. Một hình thù được tỉ mỉ vẽ bằng bút màu đen.
Đó là một con rồng Trung Hoa nhỏ nhắn, nét vẽ rất tinh xảo.
Gray chợt thấy lạnh buốt sống lưng khi sự thấu hiểu ập đến, tay ông đặt lên cổ họng. Bên dưới lớp áo ông đang mặc là mặt dây chuyền có hình con rồng bạc, món quà từ một sát thủ, mang theo cả lời hứa và lời nguyền ẩn sâu bên trong.
Gray đảo mắt ra cửa. Có khi nào Sasha đã nhìn thấy lá bùa? Nhìn lại bức vẽ, ông biết rằng điều đó là không thể.
Đây là lời cảnh báo – những chú hề nằm ngoài dự tính. Gray nhận ra cô bé đã chỉ tay từ bên dưới bức vẽ ông đang cầm. Ở vị trí thấp, cô bé chỉ có thể ngụ ý hình ảnh nào đó nằm bên dưới.
Biểu tượng con rồng.
Giữa không gian tĩnh mịch, Gray lờ mờ cảm nhận được mối hiểm nguy, ông lẩm nhẩm cái tên gắn liền với sự đe dọa.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.