Nhà Tiên Tri Cuối Cùng

CHƯƠNG 3: NGÀY 5 THÁNG 9, 7:22 PM THỦ ĐÔ WASHINGTON, D.C.



“Chết ư?”
Gray ngồi tựa vào cạnh bàn trong căn phòng kho của bảo tàng, ông hiểu nỗi đau ông vừa báo cho cô hay. Elizabeth Polk ngồi sụp xuống ghế, thu mình trong chiếc áo choàng thí nghiệm. Không có tiếng khóc. Cú sốc đã nén những giọt nước mắt, cô tháo cặp mắt kính mỏng manh như sẵn sàng đối đầu với sự thật.
“Tôi đã nghe nói có vụ bắn súng ở công viên Mall,” cô trệu trạo nói. “Nhưng không bao giờ nghĩ là….” kèm theo cái lắc đầu. “Tôi ở khu tầng hầm này cả ngày nay”.
“Nơi không bắt được sóng điện thoại” Gray nghĩ thầm.Painter nói rằng đã cố gắng liên lạc với con gái của Polk. Trong khi cô ở ngay bên kia công viên Mall suốt cả ngày.
“Tôi xin lỗi đã lôi cô vào vụ này, Elizabeth,” ông tiếp tục, “nhưng lần cuối cô nhìn thấy cha mình là khi nào?”
Cô nghẹn lời, bắt đầu mất bình tĩnh. Giọng cô rung lên. “Tôi… tôi không chắc lắm. Cách đây một năm. chúng tôi đã tranh cãi. Ôi, chúa ơi, những gì tôi đã nói với ông ấy…” cô đặt tay lên trắn.
Gray nhận ra sự hối tiếc và nỗi đau hiện trong mắt cô. “Tôi chắc chắn ông ấy biết rõ là cô yêu quý ông ấy.”
Mắt cô ánh lên vẻ cứng cỏi so với trước đó. “Cảm ơn vì những lời anh nói. Nhưng anh không biết ông ấy đúng không?”
Gray cảm nhận được nội tâm cứng rắn đằng sau vẻ bề ngoài rụt rè, sách vở. Ông đối diện với sự giận dữ của cô, biết rằng nó hướng đến bản thân cô nhiều hơn là đến ông. Kowalski đã lui về phía xa căn phòng, rõ ràng không lấy gì làm thoải mái với toàn bộ khung cảnh trước mắt.
Gray xoay một vòng tại chỗ và chỉ vào mặt bàn. Những hàng xu cổ vẫn xếp trên một trang giấy đệm. “Tôi biết được vì chúng tôi đã tìm thấy một đồng xu trên thi thể của cha cô.” Gray nhớ lại những gì Painter kể cho ông nghe. “Đồng xu một mặt có hình bán thân của Faustina Mẹ, mặt kia là Đền thờ Delphi.”
Đôi mắt cô mở to, cô nhìn chằm chằm vào ô trống mà đồngxu từng ở đó.
Gray nâng một cánh tay lên. “ông ấy đã đến đây trước khi bị bắn. Đến văn phòng của cô.”
“Đây không phải văn phòng của tôi,” cô lẩm nhẩm, liếc nhìn quanh như muốn tìm kiếm linh hồn của người cha. “Tôi đang nghiên cứu luận án tiến sĩ. Thật ra, cha tôi đã liên hệ để tôi có được vị trí này sau khi tốt nghiệp, làm tại Bảo tàng Delphi ở Hy Lạp. Tôi đã ở đó một tháng trước. Tôi đang trông nom việc sắp đặt cho cuộc triển lãm này. Tôi không nghĩ cha biết là tôi đã ở đây. Đặc biệt là sau khi …”. Cô nén lại để không thốt ra những lời đau buồn.
“Ông chắc hẳn đã dõi theo cô.”
Những giọt nước mắt lăn dài, tuôn thành dòng trên má. Cô lấy cổ áo choàng quệt mạnh lên khuôn mặt.
Gray để cô yên lặng một hồi, ông nhìn sang thấy Kowalski đi lòng vòng chắn chường quanh cái rốn bằng đá, giống như mặt trăng đang quay chậm chạp theo quỹ đạo. Gray biết rằng cha của Elizabeth cũng đã từng đi theo quỹ đạo ấy. Nhưng lý do tại sao?
Cùng một câu hỏi mà Elizabeth đặt ra. “Sao cha tôi lại đến đây? Sao ông lại lấy đi đồng xu?”
“Tôi không biết. Nhưng tôi khá chắc chắn là cha cô biết mình đang bị theo dõi, bị săn lùng.” Ông hình dung Polk lặng lẽ ẩn mình ven công viên Mall, tìm cách nào đó để liên hệ riêng với Sigma. “Ông ấy lấy đi đồng xu đề phòng trường hợp mình bị giết. Đồng xu đầy bụi, dễ bị bỏ sót trong túi nếu kẻ tấn công vội khám xét thi thể. Nhưng khám nghiệm kĩ càng ở nhà xác sẽ lộ diện sự có mặt kỳ lạ của đồng xu. Tôi nghĩ ông đã hy vọng nó dẫn ta tới đây. Tới văn phòng này, nơi ông biết cô sẽ báo cáo là nó bị đánh cắp.”
Ông vừa dứt câu, mắt cô cũng đã khô lệ. “Nhưng tại sao ông lại làm thế?”
Gray nhắm mắt lai, cố suy nghĩ sâu hơn và đặt mình vào tình cảnh của vị giáo sư. “Nếu suy đoán của tôi về đồng xu là đúng thì cha cô đã lo ngại mình sẽ bị săn đuổi. Ông chắc chắn biết rõ kẻ ấy đang đuổi theo cái gì. Thứ mà ông sở hữu.
Tất nhiên là vậy!
Gray mở mắt và đứng dậy. Ông cũng kéo Elizabeth đứng lên theo. Mắt cô đảo quanh căn phòng, lúc này không còn là để tìm kiếm những linh hồn. Gray nhận ra cô đã đoán biết được điều gì đó qua cái nhíu mày. Cô đeo kính vào.
“Cha tôi hẳn đã cất giấu ở đây thứ mà kẻ giết người tìm kiếm”.
Gray hướng đến vị trí Kowalski đứng đợi bên cạnh tảng đá hình chiếc nón.
“Cha cô có vẻ đặc biệt quan tâm đến cái rốn của ngôi đền”.
Elizabeth theo sau với vẻ tư lự: “Làm thế nào ông biết được điều đó?”
Gray giải thích ngắn gọn về tình trạng phơi nhiễm phóng xạ và giơ chiếc máy Gamma- Scout lên. “Dấu vết của cha cô dẫn đến đây, tôi biết nhờ các tín hiệu thu nhận hoạt động mạnh, ông đã ở bên hiện vật một khoảng thời gian nào đó.”
Elizabeth hơi nhợt nhạt khi nghe những tai ương mà cha cô gặp phải. Nhưng cô vẫn ra hiệu cho Kowalski. “Có một cái đèn pin khẩn cấp gắn trên bức tường đằng kia.”
Anh ta gật đầu rồi đi lấy nó xuống.
Cô tiến đến gần tảng đá. “Nó trông có vẻ chắc chắn nhưng thực chất là rỗng bên trong. Không khác gì một cái bắt đẽo bằng đá hoa cương bị lật úp.” Cô chỉ vào lỗ hổng trên cùng.
Gray hiểu ra vấn đề. Rất có khả năng cha cô ấy đã bỏ thứ gì đó vào trong, ông đỡ lấy đèn pin từ tay Kowalski, tựa lên tảng đá và chĩa thanh xà vào chính giữa. Quả thật là nó trống rỗng. Ở dưới đáy, những thanh đệm trụ đỡ cho tảng đá được rọi sáng. Ông đảo thanh xà xung quanh và phát hiện ra có gì đó nằm bên mé. Trông giống như một hòn đá bị mài bóng cỡ chừng quả dưa gang.
“Chưa biết là cái gì” Ông lẩm nhẩm rồi đứng thẳng dậy. “Ta phải nâng tảng đá lên.
“Nó nặng đấy”, Elizabeth giải thích. “Sáu người đàn ông mới lấy được nó ra khỏi thùng. Nhưng có một cái đòn bẩy trong đám dụng cụ đằng sau, ta có thể lật nghiêng nó lên, nhưng phải rất cẩn thận.”
“Tôi đi lấy cho”. Kowalski nhanh nhẹn đáp lời.
Anh ta vừa đi khỏi thì có tiếng điện thoại reo trên bànElizabeth. Cô bước tới kiểm tra số người gọi trên ống nghe. “Là nhân viên an ninh.” Cô nhìn vào đồng hồ đeo tay rồi nhìn sang Gray. “Đã đến giờ đóng cửa. Họ phải kiểm tra xem tôi còn làm việc dưới này bao lâu.”
“Bảo họ ít nhất là một tiếng nữa.”
Cô gật đầu và nhấc điện thoại lên. Sau khi xưng tên, cô lắng nghe đầu dây bên kia. Mắt bỗng mở to. “Tôi hiểu rồi. Chúng tôi sẽ lên ngay.” Dập máy, cô quay về phía Gray. “Có ai đó đe dọa đánh bom. Ngay ở bảo tàng. Họ đang sơ tán hết tòa nhà.”
Gray vẫn im lặng, ông biết rõ kiểu cảnh báo như thế không phải là trùng hợp ngẫu nhiên, đặc biệt vào lúc này. Ông nhận ra cái nhìn tinh ý của người phụ nữ đang ở bên cạnh ông. “Ai đó biết tình hình,” ông chậm rãi. “Sau vụ bắn tỉa ở công viên Mall, chẳng ai lại đi đe dọa đánh bom. Đây là một vỏ bọc hoàn hảo hòng ngấm ngầm rà soát tòa nhà.”
Ông tiếp tục nghiên cứu tảng đá.
Không còn đủ thời gian cho những hành động nhã nhặn. Kowalski chắc cũng hiểu được điều này. Anh ta trở lại từ phía cuối căn phòng. “Tôi nghe thấy rồi!”. Trên vai anh ta là một cái búa tạ thật lớn, thay cho đòn bẩy có đệm bọc. “Lùi ra sau!”
“Không!” Elizabeth cảnh báo.
Nhưng Kowalski cũng chẳng quan tâm trả lời. Anh thu hẹp khoảng cách chỉ bằng một sải bước, vung búa lên quá đầu và bổ xuống.
Elizabeth thở dốc vì lo sợ cho hiện vật có tuổi thọ cả hàng thế kỉ.
Nhưng thay vì phang vào tẳng đá, nhát búa bổ xuống những thanh trụ đệm đỡ. Từng thớ gỗ bung ra và vỡ thành từng mảnh. Kowalski lại nâng búa và đập vỡ vài thanh gỗ bên hồng.
Phân nửa trọng lượng không còn được trụ đỡ, tảng đá lớn nghiêng về phía phần trụ bị phá vỡ tan tành – chầm chậm rơi xuống rồi tự lật. Thêm vài thanh gỗ bị đè dưới sức nặng của tảng đá những có vẻ không hề hấn gì nhờ cú lăn khá chậm.
Kowalski vác búa trên vai.
Elizabeth nhìn anh chàng không chớp mắt, vừa kinh hãi vừa nể sợ.
Gray vội tiến đến tấm đệm và quỳ xuống. Vật giấu trong cái rốn giờ đây đã hiện nguyên hình. Đó không phải là một hòn đá mài. Gray chĩa máy dò Gamma-Scout vào đấy. Máy hiển thị độ phóng xạ nhưng không cao bằng cặp ống nhòm họ tìm thấy vài giờ trước.
Gray nhặt lấy vật đó và đứng dậy với vẻ hài lòng.
Elizabeth lùi về sau khi ông đứng thẳng người dậy.
Kowalski căng mắt nhìn. “Một cái đầu lâu à? Cái này liên quan đến mọi chuyện sao?”
Gray quan sát kỹ hơn. Cái này khá nhỏ và thiếu hàm dưới. Ông lật nó qua. Mấy cái răng còn sót lại là răng nanh nhô lên từ vòm miệng lôi ra. “Không phải người” Ông nhận xét. “Với kích thước và hình dạng của hộp sọ, có thể nói đây là một loài khỉ. Có khả năng là một con tinh tinh.”
Kowalski tỏ ra gắt gỏng hơn. “Hay thật..” Anh ta kéo dài giọng. “Lại thêm cả khỉ!”
Gray biết anh chàng to lớn ấy không thích thú gì đến những thứ liên quan đến khỉ kể từ một nhiệm vụ trước đó. Những công việc có dính dáng đến khỉ đầu chó…. Hay là đười ươi. Gray không hiểu được chuyện gì rõ ràng từ phía anh chàng này.
“Nhưng cái gì … cái gì gắn bên cạnh đầu lâu thế kia?”Elizabeth chỉ vào.
Gray hiểu ra ý cô. Khó có thể bỏ qua. Gắn với vùng xương thái dương ở ngay bên lỗ tai là một mảnh thép không gỉ uốn cong.
“Tôi không chắc lắm!” Ông nói. “Có thể là thiết bị trợ thính, cũng có thể là một loại ốc tai cấy ghép mới”.
“Cho một con khỉ chết tiệt sao?”. Kowalski xen vào.
Gray nhún vai. “Ta phải khám nghiệm nó sau”
“Sao cha tôi lại đem nó tới đây?”
Gray lắc đầu. “Tôi cũng chưa biết. Nhưng ai đó muốn chặn ông ấy. Hắn cũng muốn lấy lại nó.”
“Ta làm gì đây?”
“Tìm lối ra khỏi đây. Trước khi ai đó biết ta đã tìm được nó”.
Gray dành vài phút lục lọi trong đống gỗ, phòng trường hợp vị giáo sư còn bỏ lại vật gì khác. Đôi khi một manh mối lại giải quyết được vấn đề. Ai cũng có thể hy vọng. Ông chĩa đèn pin vào cái khoang rỗng bên trong cái rốn bị lật úp.
Không còn gì.
Khi ông rọi đèn qua chỗ khác, ánh sáng vụt qua một bề mặt phía trong. Có gì đó khiến ông phải chú ý. Trông như một đường rãnh hình xoắn ốc được khắc lên bề mặt, kéo dài từ dưới mép lên đến cái lỗ tròn. Ông chạm một ngón tay vào và nhận ra đó là một đường cong dài liền mạch bởi những hoa văn viết tay. Ông cúi xuống, rọi ánh sáng lên hàng ký tự.
Elizabeth nhận thấy sự chú ý của ông. “Tiếng Phạn cổ”.
Gray đứng thẳng dậy. “Sao lại có tiếng Phạn cổ bên trong?”
Kowalski cắt ngang. “Cái vấn đề chết tiệt kết thúc ở đây chưa?” Anh chàng chĩa ngón cái ra cửa. “Nhớ là có vụ đe dọa đánh bom, chẳng phải ta nên cuốn xéo khỏi đây sao?”
Gary bỏ qua. Anh chàng có lý. Họ đã dành đủ thời gian cho việc tìm kiếm. Tòa nhà chắc chắn đã được rà soát.
Một tiếng hét thất thanh ngoài hành lang.
Kowalski đảo mắt, ý bảo: “Tôi đã bảo mà.”
“Ta làm gì đây?” Elizabeth cất tiếng hỏi.
7h37 tối
Painter đẩy cánh cửa khép hờ tại văn phòng của nhà nghiên cứu bệnh học.
“Mời vào,” Malcolm nói vọng ra. “Jones, anh đã có dữ liệu từ …?”
Painter đẩy cửa đúng lúc Malcom xoay ghế về phía bàn.Ông vẫn mặc bộ đồ khử trùng màu xanh. Cặp mắt kính kéo ngược lên đỉnh đầu. Ông đang chà chà sống mũi thì bất chợt nhận ra người đứng ở lối vào.
Mắt ông mở to ngạc nhiên, “chỉ huy…” ông đứng bật dậy, nhưng Painter ra hiệu cho ông ngồi xuống.
“Brant có báo với tôi là ông đã gọi. Tôi vừa mới quay về từ phòng giám sát hình ảnh.”
“Có cảnh nào của kẻ bắn tỉa không?”
“Đến giờ thì chưa, chúng tôi vẫn đang lược lại những đoạn băng. Nhưng có hàng đống hình ảnh cần lọc ra. Một số tư liệu phản hồi khá chậm.”
Kể từ vụ 11 tháng 9, hoạt động giám sát thủ đô được tăng cường. Tất cả các hướng trong phạm vi mười dặm quanh Nhà Tráng đều trang bị máy quay đa chiều cho việc quan sát từng centimét vuông đường phố, công viên và những khu vực công cộng. Hơn 60 phần trăm khu vực nội bộ cũng nằm trong tầm kiểm soát. Vài máy quay đã ghi lại những hình ảnh của giáo sư Archibald Polk trên đường băng qua công viên Mall. Họ xác nhận lại những gì Gray thu thập được từ máy dò vô tuyến. Nhưng vẫn còn những lỗ hổng đáng lo ngại. Mặc dù họ thấy hình ảnh Polk ngã gục trong tay Gray nhưng không có máy quay nào bắt được tia sáng từ khẩu súng trường dù thoáng qua hay dấu hiệu của tên bắn tỉa.
Vấn đề khá rắc rối.
Painter bắt đầu nghi ngờ kẻ bắn tỉa biết được hoạt động của hệ thống máy quay và tìm ra lỗ hổng trên mạng lưới giám sát để ẩn nấp. Hoặc tệ hơn, ai đó đã làm xáo trộn những hình ảnh ở công viên Mall và chủ tâm xóa hết bằng chứng về vụ ám sát.
Những kết nối đó cho thấy kẻ giết hại Giáo sư Polk có khả năng mang trong mình mối quan hệ quyền lực tại Washington. Nhưng đó là kẻ nào, ở đâu? Nếu quá khứ của Polk với vai trò thành viên nhà Jason có can hệ đến kẻ giết người, chiếc hộp Pandora sẽ hé mở những khả năng kỳ bí. Nhà Jason nhúng tay vào những dự án tối mật ở mọi khía cạnh bóng tối từ thấp đến cao.
Painter hiểu rằng tối nay ông sẽ mất ngủ.
Không ai trong số họ chợp mắt được.
“Có tin tức gì từ Gray không?” Malcolm hỏi, ôm một chồng giấy tờ khỏi ghế và mời Painter ngồi.
“Anh ấy đang tìm kiếm ở Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên. Dấu vết của Polk dẫn đến đó.”
“Hy vọng cậu ấy tìm thấy thứ gì, nhưng đó cũng là lý do tôi cho nối cuộc gọi tới ông. Có lẽ tôi đã phát hiện thêm vài manh mối.”
Painter tò mò ngồi thụp xuống ghế. Malcolm xoay chiếc máy tính màn hình phẳng để Painter có góc nhìn rõ hơn.
“Ông tìm thấy gì vậy?” Painter thắc mắc.
“Một điều kỳ lạ. Tôi thực sự chưa biết phải làm gì với nó nhưng có thể nó cho ta một địa điểm nào đó để tiếp tục điều tra. Biết là nạn nhân bị nhiễm độc phóng xạ nên tôi đã tìm vài đầu mối để lần ra gốc gác. Khám nghiệm ban đầu trên đường dạ dày – ruột và gan của Polk cho thấy ông ta không ăn bất cứ thứ gì có chứa phóng xạ tự nhiên.”
“Không có bữa ăn nào bị nhiễm độc polonium- 210 hay tương tự vậy sao?”
Malcolm gật đầu. “Theo như mức độ viêm da bức xạ, tôi khá chắc chắn là phóng xạ xuất phát từ môi trường, ông ta phải ở đâu đó có khí hậu nóng. Vi phân trên tóc cho thấy tình trạng phơi nhiễm cấp tính trong môi trường tự nhiên, ông ấy đã nhiễm độc khoảng một tuần trước đây.”
“Nhưng mà ở đâu?”
Malcolm giơ một tay đề nghị ông kiên nhẫn, tay còn lại gõ bàn phím và một bản đồ thế giới hiển thị trên màn hình. “Dấu vết về số lượng các mảnh vỡ phóng xạ được tìm thấy sâu trong những túi phổi của hai lá phổi. Giống như bụi than trong phổi của một thợ mỏ. Tôi đã kiểm tra mẫu thử bằng một máy quang phổ khối và chắc chắn có sự phân hủy mạnh thể tích đồng vị.”
Ông chỉ vào máy tính. Dữ liệu bắt đầu lướt ở bên trái màn hình. “Thông tin kiểu này thường độc nhất vô nhị như dấu vân tay. Nó nối với dữ liệu IAEA ở Vienna.”
Painter để ý thấy cửa sổ tìm kiếm có đánh dấu tên của tổchức ở trên cùng: CƠ QUAN NĂNG LƯỢNG NGUYÊN TỬ QUỐC TẾ.
“Cơ quan kiểm soát các khu vực năng lượng nguyên tử trên thế giới: các khu mỏ, các lò phản ứng, các nguồn công nghiệp. Không phải tất cả các nguồn năng lượng đều giống nhau như những gì người ta nghĩ. Ta đang nói đến nguồn vật liệu có tính phá hủy liên lục mà thể tích đồng vị của nó thay đổi tùy thuộc vào địa điểm khai thác và tiến trình xử lý. Kết quả cuối cùng là mỗi khu vực có dấu hiệu phóng xạ đặc thù riêng.”
“Còn những mảnh nằm trong phổi của vị giáo sư?”
“Tôi đã tìm kiếm thông qua dữ liệu của IAEA và thành công.”
“Ông biết Polk đã có mặt ở đâu sao?”
Ông gật đầu khi dữ liệu ngưng chạy và bản đồ thế giới phóng to lên, hiển thị một vị trí nằm ở trung tâm nước Nga. Cái tên xuất hiện bên trong ô được đánh dấu, trùng khớp với một thảm họa nguyên tử.
CHERNOBYL
Archibald Polk đã làm gì ở Chernobyl? Làm thế nào ông ta lại nhiễm một mức phóng xạ chết người từ khu vực lò phản ứng hạt nhân đã tê liệt ấy? Người ta sẽ niêm phong lò phản ứng trong tuần này bằng một cỗ quan tài mới, một mái vòm thép khổng lồ được khớp nối. Giữa tầng kiến trúc như thế, phóng xạ tiếp xúc ra sao?
Trước khi Painter kịp chất vấn Malcolm kĩ càng hơn, điện thoại ông rung lên dưới thắt lưng, ông móc ra kiểm tra xem ai đang gọi đến. Là viên trợ lý. Nhíu mày, ông bật điện thoại.
“Gì thế, Brant?”
“Chỉ huy, tôi nhận được báo động từ Bộ An ninh nội địa. Vừa có cuộc gọi đến Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên đe dọa đặt bom.”
Ngón tay Painter siết chặt chiếc điện thoại.
Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên… nơi Gray đã có mặt.
Không hay chút nào.
“Nối cho tôi vào điện đàm của Gray.”
Ông chờ đợi, điện thoại vẫn bên tai. Malcolm lặng nhìn.
Lời đe dọa liên quan đến Gray? Hay một ai khác?
Dù thế nào đi nữa, có điều gì đó bất ổn.
Một lúc sau, tín hiệu hồi đáp xuất hiện.
Brant nghe máy. “Thưa ngài, ông ấy không trả lời.”
7:56 chiều
Elizabeth Polk quan sát Gray Pierce khi họ đến gần khu xếp dỡ của bảo tàng. Nhìn nghiêng, cô để ý thấy vết thâm mờ một bên khuôn mặt ông. Nước da cháy nắng đã che đi hầu hết những vết tích bầm tím. Trận đánh nhau chắc phải diễn ra cách đây một tháng hoặc hơn thế. Khuôn mặt ông trông như một cảnh sát lão luyện, đôi mắt màu xanh da trời nổi bật. Cũng chính cặp mắt ấy khiến cô rùng mình lúc ông phát hiện ra gần chục người đang rà soát khu xếp dỡ, buộc họ quay đầu lại.
“Có gì đó không ổn ở đây,” ông nhận xét.
Cô thoáng thấy nhà kho sau lưng ông. Dưới ánh đèn huỳnh quang nhấp nháy, khoảng không chất đầy những chiếc kệ cao chứa dụng cụ lau chùi và vật phẩm khô dùng cho các kệ trưng bày khác nhau trong bảo tàng. Chiếc xe nâng hàng duy nhất nằm cạnh một chùm ròng rọc và những quả cân đối trọng, làm nhiệm vụ chuyên chở hiện vật lớn của triển lãm. Một cánh cửa cuốn bằng thép để ngỏ phía bên phải. Lực lượng chống bạo động đã lập thành một hàng rào bảo vệ gần lối ra. Trong tiếng còi báo động rào báo vệ gần lối ra. Trong tiếng còi báo động sơ tán và ánh trăng khuyết mập mờ, họ rà soát mọi công nhân và nhân viên bảo tàng đi ra theo hướng đó.
Một người đàn ông vai hẹp, mặc bộ com lê xanh đang đứng ngoài quan sát tình hình. Rõ ràng là một nhân vật cốt cán.
Gray đưa cô quay trở lại hành lang, ông nâng chiếc túi trên vai lên cao hơn. Trên đó có in biểu tượng của bảo tàng, bên trong là chiếc đầu lâu kỳ lạ cha cô đã giấu trong phòng lưu trữ. Mỗi lần nghĩ về ông, một nỗi đau lại âm ỉ trong ngực cô, khiến nước mắt cứ thổn thức tuôn trào. Cô cố nén lòng, cô sẽ toàn tâm nghĩ về những mất mắt ở một thời điểm tĩnh lặng hơn.
Bên dưới tiền sảnh, phía đối diện khu xếp dỡ, một tiếng hét vang lên ở cầu thang, báo động lục soát mọi phòng ốc. Tiếng giày nện xuống bậc thang.
Gray ngừng lại và quay sang cô. “Có đường nào khác ra khỏi đây không?”
Cô gật đầu. “Đường hầm công vụ. Đi lối này.”
Khi họ quay đầu, Gray dồn ánh mắt dữ dội về phía cô có ý chất vấn.
“Vài nhân viên ra đó hút thuốc trong giờ nghỉ.” Cô liếc nhìn ông với vẻ hối lỗi. Cô cần được ra bên ngoài. Thói quen đã khiến cô lôi kéo một vài nhà nghiên cứu khác. Một câu lạc bộ bí mật dành cho những người hút thuốc. Giá phải trả chỉ là nguy cơ tràn dịch và ung thư phổi. “Dĩ nhiên chúng tôi không định hút thuốc trong bảo tàng. Nguy hiểm cháy nổ, nhưng toàn là đá và đường ống hơi nước ở dưới đó.”
Cô dẫn cả ba tới một cánh cửa không biển báo và mở khóa bằng thẻ từ. Cầu thang ở phía xa làm bằng xi măng sẫm màu với lan can bằng thép bên hồng, dẫn xuống những khúc cua đột ngột.
Trước khi tiến vào, tiếng gầm gừ khiến cả ba nhìn về phía khu xếp dỡ. Một bóng dáng thấp bé lượn lờ ở tiền sảnh. Cách đó khoảng ba mươi mét. Con chó chăn cừu giống Đức. Nó được trang bị áo vest đen, ai đó dắt theo nhưng vẫn ở ngoài tầm nhìn.
Elizabeth lặng người.
Con chó phát hiện ra họ liền lao về phía trước, kéo căng dây buộc cổ.
“Đi thôi,” Gray thúc giục, đẩy cô qua cánh cửa cầu thang và theo sau. Anh bạn lực lưỡng của ông cũng bám sát. Nóng và chật chội. Hệ thống máy lạnh của bảo tàng không gắn tới đây. Ánh sáng duy nhất tỏa ra từ chiếc bóng đèn khẩn cấp lông trong khung.
Gray hạn chế tối đa tiếng khóa chốt lúc cửa sập vào. Tiếng còi báo động giảm dần. Ông vẫy tay ra hiệu tiến về phía cầu thang hẹp. “Cô có biết đường hầm này dẫn đến đâu không?”
Cô lắc đầu. “Không chắc lắm. Tôi chưa bao giờ đi xa. Dưới này là một mê cung, hướng nào cũng có đường nhánh. Nghe đồn dẫn đến cả Nhà Tráng. Nhưng chắc chắn phải có đường ra ở đâu đây.”
Tiếng đập cửa rất mạnh từ phía sau cùng với tiếng chó sủa inh ỏi. Mọi âm thanh dội xuống cầu thang.
“Có phải đó là chó đánh hơi không?” Elizabeth hỏi. “Có khi nào đe dọa đánh bom là thật.”
Cộng sự Kowalski khịt mũi xen vào. “Bom thật xung quanh Pierce mới đúng là điều thú vị chứ nhỉ.”
Họ đụng phải một cổng chắn dưới chân cầu thang. Gray bẻ khóa, cánh cổng kẽo kẹt mở. Đường hầm trải dài theo hai hướng, tối đen như mực, ngột ngạt, bốc mùi xi măng ướt, nước lách tách nhỏ giọt.
“Tôi mong là có ai đó mang theo đèn pin,” Kowalski than phiền.
Gray khẽ buột miệng chửi thề. Ông đã bỏ lại đèn pin ở phòng lưu trữ.
Elizabeth lục trong túi áo, một chiếc bật lửa hiệu Dunhill màu bạc kiểu cổ. Cô bật nắp và đánh lửa, ánh sáng le lói hiện ra. Bằng kinh nghiệm bản thân, cô điều chỉnh ngọn lửa.
“Tốt quá,” Kowalski thốt lên. “Giá mà tôi mang theo điếu xì gà ở đây.”
“Cả tôi nữa,” Elizabeth phụ họa theo.
Kowalski vờ ngạc nhiên trước lời cô nói.
Chưa kịp tán đồng, cầu thang sau lưng họ đã ngập ánh sáng. Còi báo động réo ầm ĩ hơn.
Đoàn người đuổi theo họ đã đi qua cửa lớn.
“Nhanh lên.” Gray tiến theo lối bên phải. “Bám sát nhau.”
Elizabeth đi cùng Gray, sau cô là Kowalski. cô giơ cao bật lửa. Ngọn lửa lập lòe chỉ đủ soi sáng khoảng cách vài mét phía trước. Gray vội vã bước nhanh. Đầu ngón tay ông lần theo những đường ống chạy dọc phía trên đầu. Ông đã chọn lối thoát đầu tiên đưa họ ra khỏi tầm nhìn trực diện phía chân cầu thang.
Một tiếng sủa ngắn vang lên.
Gray giục mọi người rút chạy.
Áo khoác của Elizabeth bay phần phật sau lưng cô. Ngọn lửa trên tay cô vụt qua một cái mạng nhện, họ chạy thục mạng quanh một lối rẽ khác.
“Chúng ta đi đâu đây?” Kowalski thắc mắc.
“Thật xa,” Gray đáp.
“Kế hoạch lớn của anh đấy à? Đi thật xa?”
Tiếng sủa hung bạo phát ra liên hồi. Tiếng la hét ầm ĩ. Dấu vết của họ đã bị phát hiện.
“Quên những gì tôi nói đi,” Kowalski sửa sai. “Đi xa có vẻ ổn đấy.”
Cả nhóm bám sát nhau chạy như bay giữa lòng mê cung.
 
Đã nửa chặng đường đi vào thành phố, Yuri ngồi trên một chiếc ghế dài dưới bóng cây anh đào. Cảm giác thật thoải mái khi được ngồi đây nghỉ ngơi. Đầu gối ông đau nhức, còn phần lưng hồng có nguy cơ co cứng, ông đã uống bốn viên Aleve mà không dùng đến một ngụm nước, ông có những loại thuốc liều cao ở nhà nhưng không dám mang vào Mỹ. Tốt hơn hết là đợi quay về căn cứ Warren.
Ông duỗi một chân, xoa xoa đầu gối.
Lúc dừng chân, mặt trời đã sắp lặn, ngả bóng dài qua các con lộ dọc công viên. Cách đó vài bước, bức tường xi măng thấp viền ngang một góc đường. Lũ trẻ và cha mẹ chúng xếp thành hàng bên lề, ngắm nghía quang cảnh ngoài trời từ phía xa bức tường. Một mảnh rừng Trung Hoa được tái tạo với hòn non bộ lởm chởm đá đặt giữa những hang động, màn sương dày đặc phủ lên hồ và suối. Đám cây bụi tô điểm cho mấy triền dốc, mọc xen vào đó là liễu rủ, vài cây bần và những nhánh tre. Môi trường sống của những động vật cư ngụ nơi đây, hai con gấu trúc khổng lồ từ Trung Quốc – Mei Xiang và Tian Tian – đã thu hút sự quan tâm thích thú của lượt khách đến thăm cuối ngày.
Trong đó có Sasha.
Cô bé đứng đó, hai cánh tay khoanh tròn tựa lên mép bức tường đá. Một chân vung vẩy, giày chạm xuống nền xi măng, rất nhịp nhàng. Rồi cử động chậm dần.
Đúng như ông mong đợi.
Yuri mang đứa trẻ đến Vườn thú Quốc gia sau những gì cô bé thể hiện trước mắt Mapplethorpe. Bằng kinh nghiệm lâu năm, ông biết rằng động vật có tác động trấn tĩnh những ưu tư trong lòng. Đặc biệt là Sasha. Yuri chưa kiểm tra lượng BDNF trong dịch tủy sống của cô bé. Sau mỗi giai đoạn tập trung cao độ như vậy, lượng hóc môn “dinh dưỡng thần kinh thu được từ não bộ” chắc chắn đã tăng vọt tới mức nguy hiểm, ông đã không chuẩn bị trước. Ông hiểu nhiệm vụ lúc này là phải nhanh chóng khiến cô bé trấn tĩnh lại sau khi mất cảnh giác trước những hành vi đột ngột. Đặc biệt khi rời xa quê nhà, tâm tính cô bé dễ tổn thương và khuấy động. Có một nguy cơ cho việc thương tổn thần kinh kéo dài, ông từng gặp trước đây. Phải mất hàng thập niên để tìm ra mối liên hệ bẩm sinh giữa trạng thái tinh thần của trẻ tự kỷ và tác động xoa dịu từ những tiếp xúc với các loài động vật.
Trong lúc Mapplethorpe bận thực thi nhiệm vụ tìm kiếm tại Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên, Yuri đưa Sasha tới thăm vườn thú nổi tiếng của thành phố. Cũng tương tự như một bầy thú trong rạp xiếc, nhưng ông có thể tìm thấy ở ngay đây, trong khuôn viên thành phố xa lạ này.
Nhịp chân của Sasha đã chậm hơn, cô bé đang lấy lại thăng bằng. Nhưng phần mũi của đôi giày da tinh xảo đã bị trầy xước thê thảm. Thà là đôi giày còn hơn trí óc cô bé bị tổn thương.
Yuri cảm thấy dây chằng nối các khớp xương vai đã bớt căng, ông sẽ đưa cô bé về lại Nga trong chuyến bay sắp tới. Một khi trở lại căn cứ Warren, ông sẽ lên kế hoạch kiểm tra toàn bộ tình trạng thể chất của cô bé: sinh thiết máu, xét nghiệm nước tiểu, chụp CT hoàn chỉnh hộp sọ. Ông muốn chắc chắn không có tổn thương sọ. Ông muốn chắc chắn không có tổn thương nào xảy ra.
Nhưng quan trọng hơn cả là ông cần câu trả lời cho thắc mắc: làm thế nào cô bé tự mình cảm nhận được một vấn đề hiện hữu. Điều đó không nên xảy ra. Một mô cấy ở vỏ não có chức năng duy trì trạng thái ổn định, điều chỉnh khả năng của mỗi đứa trẻ. Những gì Sasha thể hiện tại văn phòng của Mapplethorpe đáng lý ra không xuất hiện, trừ khi mô cấy của cô bé được điều khiển từ xa dẫn đến phản ứng như vậy.
Điều gì làm nên thay đổi? Một trục trặc trong mô cấy của cô bé? Hay ai khác đã kích hoạt nó? Hay thậm chí rắc rối hơn, Sasha đang trưởng thành vượt ngoài tầm kiểm soát của họ?
Mặc cho cái nóng ngoài trời và không gian yên bình, ông vẫn cảm thấy lạnh lẽo.
Có gì đó bất ổn.
Một âm thanh náo động khiến ông bừng tỉnh. Từ phía đám đồng tụ tập trước khuôn viên của các chú gấu trúc. Tiếng rì rầm càng lúc càng sôi nổi. Một loạt máy ảnh chớp đèn giữa đám đồng. Thêm nhiều người bị thu hút bởi sự hiếu kỳ. Yuri nghe thấy tên ai đó được kêu vang, liên tiếp lặp lại.
“Tai shan… Tai shan…”
Ông ngồi thẳng dậy mặc dù tấm lưng đau nhức đang cực lực phản đối. Ông nhận ra cái tên nhờ tờ rơi quảng cáo của vườn thú. Tai-shan là chú gấu trúc con của Mei Xiang, sinh cách đây mấy năm. Chú gấu con chắc là đi lang thang, lọt vào tầm ngắm của du khách.
Đám người chen nhau để nhìn rõ hơn. Càng lúc càng đồng. Trẻ em được công kênh trên vai cha mẹ. Máy ảnh chớp liên tục. Khó chịu trước phản ứng lộn xộn ấy, Yuri đứng lên. Sasha bị che khuất giữa đám đồng, ông biết cô bé không thích đụng chạm.
Ông băng ngang vệ đường, hòa mình vào đám người. Vài phút nữa công viên sẽ đóng cửa. Đã đến giờ về.
Ông cố tiến đến bức tường nơi Sasha đang đứng.
Cô bé không còn ở đó.
Tim đập thình thịch, ông đảo mắt tìm kiếm khắp các hướng kéo dài của bức tường. Mái tóc gỗ mun cột nơ đỏ đã biến đâu mất. Ông loạng choạng lê chân bước ra ngoài, lòng nặng trĩu. Phản ứng cáu giận khiến ông khiếm nhã lấn vào giữa đám đồng. Một chiếc máy ảnh bất ngờ rơi xuống, đập vào vỉa hè.
Ai đó túm lấy vai ông, ông bị kéo giật lại.
“Này ông kia, giải thích lý do đi chứ!”
Yuri bất thần run lên. Mắt ông hiện rõ sự hoang mang tột cùng khi đối diện người đàn ông to lớn. “Cháu… cháu gái tôi. Tôi lạc mất đứa cháu gái.”
Sự tức giận bỗng biến thành quan tâm.
Ai nấy có mặt đều truyền tai nhau rất nhanh. Đó là nỗi sợ hãi lớn nhất của các bậc cha mẹ. Câu hỏi dồn dập hướng vào ông. Cô bé trông như thế nào? Cô bé mặc gì? Những người khác hứa giúp đỡ, trấn an rằng sẽ tìm thấy cô bé.
Yuri khó lòng mà nghe được họ nói điều gì, nhịp tim rộn rã áp đảo ông. Đáng nhẽ ra ông không được rời xa cô bé, không được ngồi xuống nghỉ ngơi.
Đám đồng vây quanh ông thưa dần, họ bắt đầu tản ra các hướng.
Yuri thẫn thờ xoay một vòng, ông tìm kiếm, nhưng sự thật vẫn không thay đổi.
Sasha đã mất tích.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.