Nhà Tiên Tri Cuối Cùng

CHƯƠNG 16: NGÀY 7 THÁNG 9, 8:11 AM THÀNH PHỐ PRIPYAT, UKRAINA



Tỉnh dậy nào!”
Gray nghe có tiếng gọi nhưng não bộ phải mất một lúc mới xử lý xong. Cú tát đau điếng khiến ông chao đảo. Vùng sáng trước mắt chập choạng tan thành những mảng nhạt nhòa.
Luca đang nắm lấy vai ông lay mạnh.
Gray ho vài tiếng, đẩy Luca lùi lại rồi chống khuỷu tay gượng dậy. Ông nhìn quanh căn phòng trần trụi xi măng, lớp sơn phồng rộp bong tróc, một cánh cửa ra vào màu đỏ hoen gỉ. Ánh sáng xuyên qua ô cửa có chấn song nằm tít trên cao. Kowalski ngồi trên tấm nệm mỏng mốc meo bên dưới, đầu kẹp giữa hai gối, lầm bầm có vẻ ghê tởm.
Gray hít một hơi thật sâu, cố gắng thư giãn và nhớ lại những chuyện xảy ra. Dưới họng súng, họ đã phải chật vật lội ra khỏi hẻm núi, leo lên chiếc trực thăng tầm thấp, sau đó là máy bay chở hàng đỗ trên đường băng ngập nước. Ông sờ vào vết bầm ở cổ. Họ bị đánh thuốc mê từ trên máy bay.
Gray không hề biết nơi họ được đưa tới. “Elizabeth… Rosauro…?” Giọng ông khàn khàn.
Luca lắc đầu, ngồi bệt xuống đất, dựa lưng vào tường. “Tôi không biết họ ở đâu. Chắc là buồng giam khác.”
“Biết gì về nơi này không?”
Luca nhún vai. Kowalski vẫn rên rỉ.
Gray nhấc chân, đợi một lúc cho hết choáng rồi bước qua ô cửa sổ. Tự ông không thể với tới.
Kowalski phát hiện ra Gray đang để mắt tới đâu. “Pierce, đừng đùa chứ.”
“Đứng dậy nào. Giúp tôi một tay.”
Kowalski thóp bụng, kiễng chân lên đồng thời đan chặt hai bàn tay vào nhau thành một bàn đạp. “ông nghĩ tôi là gì vậy? Cái thang cá nhân của ông chắc.”
“Thang không than phiền nhiều thế đâu.” Gray trèo lên bệ đỡ, vịn vào thành cửa bên dưới và nắm được chấn song nhờ sự giúp sức của Kowalski. Ông quan sát khung cảnh lạ lẫm bên ngoài. Rừng rậm trải dài bao trùm lấy một nửa thành phố. Cả khu vực trông hoang tàn và xiêu vẹo. Những mái nhà nếu không bám đầy rêu thì cũng đổ sụp, cửa sổ vỡ vụn thành từng mảnh nhọn, gỉ sét đóng cặn trên cửa thoát hiểm, cỏ dại lẫn cây bụi mọc tua tủa từ những vệt nhựa đường nứt toác. Bên kia đường, tấm panô bạc màu quảng cáo cho lễ hội nào đó còn in dấu một vòng đu quay, phía trước là hình ảnh một gia đình đang hăng hái tiến về khu giải trí.
Gray nhận ra chiếc đu quay phác họa trên tấm panô vẫn sừng sững giữa bầu trời hoang vu, không cách xa trung tâm là mấy. Tàn dư lặng lẽ còn sót lại trong ánh hào quang thuở trước. Chân tay ông bỗng trở nên nặng trĩu trước quang cảnh ấy. Gray biết rõ ông đang ở đâu. Vòng đu quay hoang phế từng là biểu tượng của thành phố.
“Chernobyl,” ông lẩm nhẩm, hạ phịch xuống sàn.
Tại sao họ lại được mang tới nơi này?
Gray nhớ lại báo cáo của nhà bệnh học trên cơ thể giáo sư Polk. Dấu hiệu phóng xạ cho thấy vị giáo sư từng bị nhiễm độc tại đây. Mặc dù đánh giá này đã bị khuất lấp bởi những xét nghiệm từ Malcolm Jennings sau đó.
Điều gì đang diễn ra?
Mười phút trôi qua, Gray liên tục nghiên cứu buông giam lẫn kiểm tra cánh cửa. Dù bị gỉ sét, nó vẫn rất kiên cố. Gray nghe có âm thanh phát ra từ bên ngoài: bước chân loẹt xoẹt, tiếng ho khẽ. Chắc chắn là của lính gác. Có cả cuộc điện đàm liên lạc với cấp trên và chẳng bao lâu sau, tiếng lộp cộp giày ống tiến gần đến cửa.
Không thể đánh úp một lực lượng đông đảo đến như vậy.
Gray lùi lại đúng lúc cánh cửa bật mở. Súng lục chĩa thẳng, binh lính trong quân phục xám đen ập vào phòng, mở lối cho một người đàn ông cao lớn bước tới đồng thời chốt chặn ngay lối ra. Nét mặt ông ta chẳng có vẻ gì giống với hình ảnh người cha in trên tấm panô bạc màu ngoài kia mà chỉ toàn góc cạnh; bộ râu quai nón được cắt tỉa để lộ mảng cằm chắc khỏe. Ông mặc com lê màu xanh hải quân đi kèm cà vạt bằng lụa đỏ, được thiết kế khá chuẩn với vóc dáng. Ngay cả phụ kiện bên dưới…
“Giày đẹp thật,” Kowalski mở lời.
Nhìn xuống đôi giày đế thấp bóng bẩy, ông chau mày trước nhận xét bất ngờ về trang phục của bản thân.
“Đúng là đẹp thật,” Kowalski nói trong tư thế phòng vệ.
Thế nhưng Gray mới là người được chú ý đầu tiên. “Dobraye utro, Chỉ huy Pierce. Hãy đi với tôi, chúng ta có vài việc cần thảo luận, không tốn nhiều thời gian đâu.” Gray vẫn đứng yên tại chỗ. “Chừng nào ông chưa cho biết hai người phụ nữ kia ở đâu”.
Ông ta khoát tay trấn an. “Cô Elizabeth Polk và Tiến sĩ Shay Rosauro, cả hai đều ổn, đảm bảo với anh. Thật ra chỗ ở của họ còn tiện nghi hơn chút đỉnh. Chúng tôi có quá ít thời gian chuẩn bị. Anh vui lòng theo lối này.”
Sáu tay súng không mấy bận tâm đến vẻ lịch sự của lời mời. Ra đến hành lang, Gray quan sát mọi thứ xung quanh. Buồng giam xếp dọc hai bên, rõ ràng là một nhà tù bỏ hoang. Sau vài khung cửa ngỏ chỉ còn lại nước tù đọng, mấy chiếc giường gỉ sét ngã đổ, rác chất chồng trong góc. So ra thì phòng giam của họ quả là hào phóng.
Một trạm gác nằm cuối hành lang. Khu vườn phía trước mọc um tùm, đúng hơn là khoảng sân đầy cỏ dại của nhà tù. Gray nhận ra cột tháp thông gió khá cao từ đằng xa, tài sản của lò phản ứng Chernobyl.
Chiếc ghế kẽo kẹt đã ở trong tầm với, âm thanh ám ảnhđáng sợ.
Gray đổi hướng. Giữa phòng đặt một bàn dài. Masterson ngồi phía sau, rất ngay ngắn trong bộ đồ trắng thường trực, trông có vẻ thảnh thơi và tự mãn. Gray dằn lòng để không nhảy lên túm cổ tên khốn bỉ ổi ấy. Nhưng ông cần vài lời giải đáp, vì thế dường như cách tốt nhất là hợp tác.
Gray buộc phải ngồi đối diện. Sau đầu ông, súng vẫn chĩa thẳng.
Một người lạ mặt khác cũng đứng đợi trong phòng, bên cạnh Masterson. Mái tóc đen phủ lấy gương mặt u ám, khắc kỷ, không lay động. Cô mặc bộ vest đen, kiểu dáng khá giống với trang phục của người đàn ông đã dẫn Gray tới đây. Người đàn ông còn lại tiến đến và ngồi xuống, hầu như không để ý đến sự có mặt của Masterson.
Ông khoanh tay lên bàn. “Tôi là Thượng nghị sĩ Nicolas Solokov. Có lẽ anh đã nghe về tôi.”
Gray lặng im, một sự giễu cợt khiến cho người đối diện phải thất vọng trước lời giới thiệu.
“Chưa à? Vậy thì, giờ sẽ thay đổi,” ông tiếp lời. Ông vẫy người phụ nữ mảnh khảnh. Cô bước lại gần Gray, dáng điệu uyển chuyển nhưng kiên quyết. Quỳ gối bên cạnh chiếc ghế Gray ngồi, cô nghiêng đầu. Trước khi chạm vào tay ông, cô nhướn mày tỏ ý xin phép.
Gray nhún vai. Cô nhẹ nhàng nâng tay ông lên, đặt vào lòng bàn tay mình. Đầu ngón khẽ chạm vào bên dưới cổ tay ông, ánh mắt xoáy sâu.
“Chúng tôi đã nói chuyện với cô Elizabeth Polk,” Nicolas mào đầu. “Con gái của giáo sư Polk đã thông tin cho chúng tôi về khám phá của anh ở Ấn Độ. Thật đáng kinh ngạc. Thông tin đó đủ hấp dẫn để lôi kéo tất cả các anh tới đây. Tuyệt vời ở chỗ các anh được tận mắt chứng kiến di sản của chúng tôi trải rộng khắp Hy Lạp cổ đại, gắn liền với cả Nhà Tiên tri nổi danh của Delphi.”
Gray hắng giọng. “Di sản của các ông?”
Ông ta chỉ sang người phụ nữ. “Và Elena. Tất cả chúng tôi mang cùng dòng máu.”
Gray nhớ đến câu chuyện của Luca. “Của những người Gypsy mất tích.”
“Phải. Tiến sĩ Masterson cho tôi biết anh đã được nghe kể về câu chuyện bi đát ấy, nhưng việc giành lại những đứa trẻ là cần thiết. Thật ra cha tôi là một trong số những đứa trẻ Gypsy mất tích. Tôi tin là anh cũng đã gặp một thành viên khác trong đại gia đình của chúng tôi. Bé Sasha. Cô bé có năng khiếu thiên bẩm.” Gray biết ông cần liên tưởng cái tên đó với ai, nhưng vẫn giữ nét mặt dửng dưng, phớt lờ.
Elena quay sang Nicolas, nói rất khẽ bằng tiếng Nga.
Viên thượng nghị sĩ gật đầu. “Vậy là anh đã gặp Sasha. Đừng dối lòng.” Ông chỉ về phía người phụ nữ. “Cảm thụ của Elena vô cùng tốt, phải nói là vậy. Xúc giác rất nhạy bén, có thể đo được hơi nóng trên da cũng như mạch đập của ông. Cô ấy còn cảm nhận được đồng tử và hơi thở của ông. Không gì che giấu được. Cô ấy là máy phát hiện nói dối đặc biệt của riêng tôi.”
Nicolas chỉ vào tai mình. Elena xoay người, bàn tay còn lại vuốt mảng tóc sau gáy. Gray phát hiện ra mảnh thép uốn cong quen thuộc. Mô cấy giống như của đứa trẻ. Người phụ nữ này là phiên bản trưởng thành của Sasha, chỉ có điều mang một năng khiếu bác học khác.
“Cô ấy khá xuất sắc,” giọng Nicolas đầy tự hào nhưng ẩn chứa trong đó một ý niệm mơ hồ.
Gray quan sát, để ý có điều gì thiếu sót ở người đàn ông này. “Vậy thì mô cấy của anh đâu?”
Mắt Nicolas nhíu lại trước câu hỏi của Gray. Gray thích thú ngắm nhìn vẻ mặt cau có thoáng qua, rõ ràng là ông đã chọc đúng điểm yếu. Những ngón tay ngượng ngập lướt xuống mảng tóc gáy bên phải. “Phần này không nằm trong kế hoạch của tôi, e là vậy.”
Gray cố suy nghĩ tìm ra ẩn ý phía sau. Nếu Nicolas không được cấy ghép, vậy chắc hẳn ông ta không có năng khiếu bác học. Vậy lý do nào ông ta lại được đặt vào một vị trí quyền lực ở Nga? Nước cờ chiếu bí ở đây là gì?
Nicolas tiếp tục, “Quay lại vấn đề Sasha. Toàn bộ rối loạn ở Washington khiến chúng tôi gặp khó khăn để thu thập thông tin chính xác về vị trí của cô bé. Đây là lý do chính các ông được đưa từ Ấn Độ tới đây.”
Thay vì bị khử tại chỗ giống như Abhi Bhanjee.
“Chúng tôi lo ngại cho sức khỏe của Sasha và muốn cô béquay về. Nên trước hết, chúng tôi muốn biết cô bé ở đâu, trong tay ai lúc này?”
Gray nhìn Nicolas không chớp mắt. “Tôi không biết.”
Elena ngồi bên cạnh ông lắc đầu.
“Ông có muốn nói lại không? Tôi đang cố gắng khiến cho chuyện này êm xuôi. Nhưng nhớ là bốn cộng sự của ông đang ở trong tay chúng tôi.”
“Tôi không thể khẳng định chắc chắn,” Gray trả lời. “Lần cuối nhìn thấy thì cô bé vẫn được tổ chức của chúng tôi bảo vệ.”
Nicolas nhận được cái gật đầu từ Elena. Đó là sự thật.
“Tôi đoán là anh không làm việc cho John Mapplethorpe, vì kẻ phản bội này đã cố ám sát anh cùng Tiến sĩ Masterson ở khách sạn tại Agra.”
“Không, thật ra chúng tôi đối đầu với ông ta để giữ lấy đứa trẻ.”
“Sáng suốt. Gã đó không đáng tin chút nào. Vậy là chúng ta có thể đàm phán. Nhất là khi hai bên đều có thứ đáng giá để trao đổi.”
“Trước hết, anh muốn gì ở đứa trẻ?” Gray cố tìm hiểu.
“Cô bé thuộc về nơi này. Cùng những thành viên trong gia đình. Chúng tôi chăm sóc cho cô bé tốt hơn bất kỳ ai ở đất nước các anh.”
“Có lẽ vậy. Nhưng tại sao các anh muốn có cô bé? Vì mụcđích gì?”
Nicolas nhìn chòng chọc vào Gray bằng ánh mắt sắc sảo. Gray cảm nhận được sự khéo léo ẩn sâu bên trong, cùng với bản chất kiêu hãnh, một con người đang kiếm tìm danh vọng, bù đắp cho sự thiếu hụt tài năng nào đó.
Gray chọc sâu hơn vào điểm yếu. “Chẳng phải anh có một kế hoạch mờ ám hơn nhờ vào việc lợi dụng những đứa trẻ như Sasha?”
Tia lửa ánh lên trong mắt Nicolas. “Đừng xem thường giới hạn sáng kiến của chúng tôi. Hay khiến chúng tôi bị hoen ố bằng những suy nghĩ hiềm khích. Chúng tôi chẳng có gì khác ngoài những mục đích nhân văn nhất, vì một thế giới tốt đẹp hơn. Sự hi sinh đáng có của vài đứa trẻ chỉ là vấn đề rất nhỏ so với những hành động bạo tàn bị phớt lờ mỗi ngày trong thế giới kia.”
Gray nhận rõ khát khao được hợp thức hóa vấn đề trong từng lời lẽ bức xúc ấy. “Vì mục tiêu gì?”
“Còn gì ngoài việc thay đổi tiến trình lịch sử nhân loại.”
Đến đây thì lòng tự đại phù phiếm của Nicolas đã quá rõ ràng, ông ta thậm chí rướn mình về phía Gray.
“Cứ vài thế kỷ, một nhân vật vĩ đại lại xuất hiện để bất ngờ thay đổi lịch sử – một ai đó muốn chuyển dời bước tiến căn bản của nhân loại. Tôi đang kế tục sự nghiệp của những nhà tiên tri vĩ đại. Đức Phật, Tiên tri Mohammed, Chúa Giêsu. Những con người có suy nghĩ quá khác biệt, nhìn thế giới bằng con mắt vô song, bởi thế mà loài người có hướng đi mới. Những nhân vật ấy bắt nguồn từ đâu? Trí tuệ phi thường này đến từ đâu?”
Masterson cựa quậy, vặn vẹo tấm lưng. Gray nhớ lại lời hắn diễn giải về chứng tự kỷ và vai trò của nó trong lịch sử loài người. Và cả lời trích dẫn. “Nếu bởi một ma thuật nào đó, căn bệnh tự kỷ bị nhổ tận gốc rễ khỏi thế giới này, thì con người vẫn đang đứng trước cửa hang mà hòa mình vào đống lửa bập bùng”.
“Tại sao lại phải chờ đến lượt con xúc xắc di truyền được tung ra?” Nicolas vẫn tiếp tục. “Nếu điều phi thường có thể được phát hiện, tách rời, khai thác vì lợi ích chung, hãy tưởng tượng đến một thời kỳ khai sáng mới có thể được ấp ủ. Nhất là khi điều phi thường được đẩy lên đến những giới hạn đáng kinh ngạc.”
Ánh nhìn của Nicolas dừng lại ở Elena. Gray bắt đầu hiểu ra tầm nhìn huyễn hoặc của dự án. Không phải là một kế hoạch gián điệp đơn thuần. Tổ chức của Nicolas muốn cầm cương lịch sử bằng cách dùng đến những cá nhân có năng lực. Và Gray bắt đầu nghi ngờ lý do Nicolas được đưa vào vị trí quyền lực như vậy. Ai đó đang cất công chuẩn bị cho ông ta trở thành lãnh đạo bù nhìn, được lũ trẻ tài năng đứng sau yểm trợ. Gray cố hình dung sự thật tất cả những tài năng đó phải trả giá ra sao cho lợi ích của một cá nhân.
Gray không giấu nổi bàng hoàng lẫn kinh sợ. “Anh dự định thế nào để..?”
“Đủ rồi!” Nicolas quát lên. “Giờ ông đã hiểu rõ hơn về mục đích của chúng tôi, vậy cũng có thể hiểu tại sao chúng tôi muốn Sasha trở về. Cô bé là sợi dây quan trọng của dự án… và đặc biệt có ý nghĩa đối với tôi.”
Gray đọc thấy điều gì đó trong mắt Nicolas. “Tại sao là anh?”
“Tại sao à?” ông ta nhìn xoáy vào Gray. “Vì nó còn hơn cả một vật thí nghiệm, nó là con gái tôi.”
Móng tay Elena sượt một đường bên dưới cổ tay Gray. Cô đột ngột xoay sang Nicolas. Rõ ràng điều này cũng gây không ít ngạc nhiên cho Elena. Chẳng còn phải hoài nghi lý do Gray và mọi người lại bị lôi đến tận Chernobyl.
“Trước khi kết thúc ngày hôm nay, anh sẽ biết tôi có khả năng làm gì.” Nicolas đổ người về phía Gray, đôi mắt rực lửa quyết tâm. “Và sẽ đưa con gái tôi trở về.”
8:20 sáng
Phía Nam dãy Ural
Thiếu tướng Savina Martov đang đứng ở trung tâm của Chiến dịch Thổ Tinh. Sau lưng bà, con tàu chở hàng vẫn xình xịch chờ sẵn, mùi dầu và khói quyện lẫn. Trạm dừng tại Khu mỏ phức hợp 337 còn cách đó chừng trăm mét, một khu khai thác uranium hoang phế được đào dưới chân dãy núi Ural. Khu mỏ 337 là nơi những tù nhân của Chelyabinsk 88 lao động quần quật mười tám tiếng một ngày trong bóng tối và bị nhiễm độc.
Giờ đây nó trở thành bãi rác chứa đầy công cụ khai thác mỏ hỏng hóc cũng như hàng đống đá sót lại từ Chiến dịch Thổ Tinh. Trong khoảng thời gian năm năm, một đội ngũ thợ mỏ và các chuyên gia khai phá đã lấp đầy những căn hầm cũ bằng chính đống đá vụn lấy từ khu vực này.
Chiến dịch Thổ Tinh còn sở hữu một hang động nhỏ tự tạo ngoài hệ thống đường ray xe lửa. Gian phòng có kích thước như một sảnh khách sạn, được bố trí giàn giáo tẩm dầu, chứa đầy thiết bị khai thác mỏ: băng tải, tời thủy lực, máy hút bụi đá, máy bơm nước, vòi, tất cả được sắp quanh một máy khoan chắc gọn với mũi khoan tốc lực vonfram cacbua. Phần lớn trong số đó sẽ vẫn nằm lại hoặc được chuyến tàu kế tiếp chở đi.
Savina quan sát một máy xúc đang làm nhiệm vụ đổ đá cùng vụn vữa vào một trong những xe quặng phía sau. Đợt chuyên chở cuối cùng của con tàu đến Khu mỏ 337.
Tất cả đều đúng tiến độ.
Bà chống hai nắm tay lên hông, thế đứng hình chữ V chắc chắn, tiếp tục khảo sát địa hình của chiến dịch. Cuộc trò chuyện với Nicolas vẫn khiến bà kích động. Bà biết tính ông ương ngạnh, dễ bị chi phối bởi những quyết định chóng vánh và thiên về cảm xúc. Bà hối tiếc đã thông báo tình hình của Sasha cho ông nghe, không thể ngờ rằng ông lại hành động thiếu suy nghĩ. Sự tỉnh táo của ông đã biến đi đâu trong những tình huống như vậy? Họ vẫn còn mười đối tượng Omega, nhiều hơn cần thiết để gầy dựng nên một cơ đồ mới ở Moscow. Mười vũ khí uy lực đủ để trao ông cả thế giới, dẫn dắt loài người đến với thời kỳ Phục hưng mới do Đế quốc Nga hồi sinh lãnh đạo. Và vị Nga hoàng tương lai sẽ không chỉ có một Rasputin cố vấn mà có đến mười. Mười bác học phi thường làm việc bên cạnh nhau, cùng với năng lực gia cố vững chắc, có thể khuất phục thời gian lẫn khoảng cách để phục vụ ông.
Chẳng lẽ ông không nhận ra điều đó?
Làm thế nào một đứa trẻ lại có thể phá hỏng tầm nhìn chiến lược?
Phải là hai nếu tính cả con trai Nicolas, Pyotr. Nhưng tài năng của cậu bé dù mạnh mẽ vẫn chẳng mấy giá trị. Có chăng cảm xúc xen vào quá trình tôi rèn nên một thế giới mới? Nếu có, chẳng qua đó chính là một trở ngại. Tất cả mất mát cũng chỉ gói gọn trong tiềm năng di truyền của cậu bé. Một mất mát quan trọng, nhưng không phải không khắc phục được, vẫn còn hy vọng giành lại đứa trẻ. Thông điệp cuối cùng bà nhận được từ Trung úy Borsakov cho biết ông chuẩn bị tiến vào vùng đầm lầy Asanov. Cuộc tìm kiếm diễn ra khá chật vật trong đêm nhưng giờ đây mặt trời đã lên, bà khắc khoải mong chờ kết quả. Đó là lời hứa với Nicolas.
Cho dù chẳng đáng để bận tâm. Nicolas sẽ trưởng thành hơn vì điều này.
Một kĩ sư mặc áo choàng trắng, đội mũ bảo hộ và đeo mặt nạ phòng độc tiến đến gần. Ông là kĩ sư từ Học viện Khai thác Mỏ Quốc gia st. Petersburg. “Đã sẵn sàng kiểm tra sàn và vách ngăn.”
Bà gật đầu. Sau thử nghiệm cuối cùng này, vùng chiến dịch sẽ được sơ tán. Bà phải khẩn trương cho hai ngày cuối để đi đúng lịch trình rút ngắn. Chiến dịch của Nicolas dự định tiến hành ngày hôm nay, nối gót là kế hoạch của Savina diễn ra trong hai tuần tới. Nhưng sự phản bội của Mapplethorpe đã dẫn đến quyết định khởi động cả hai chiến dịch cùng thời điểm. Sau thành công của Nicolas, bà sẽ tiến lên.
“Có vấn đề gì không?” Bà hỏi người kĩ sư đang đồng hànhcùng mình.
Giọng ông nghẹn trong lớp mặt nạ phòng độc. “Chúng tôi đã tiến hành mọi phân tích, tái kiểm tra hàm lượng dầu trong nhiên liệu amoni-nitrat, quét GPR lần cuối lớp đất phủ, khắc phục toàn bộ hệ thống điện. Đã sẵn sàng phong tỏa khu vực và mở vách ngăn theo lệnh bà. Bây giờ sẽ thử nghiệm khai hỏa.”
“Rất tốt.”
Savina cùng người kĩ sư đi dưới giàn giáo hình cánh cung. Máy khoan gắn trên xe chuyên chở đã rời vị trí. Công nhân làm việc quanh một không gian chật chội: trên giàn khoan, dưới nền đất và giữa đống thiết bị. Bà nhìn sang bức tường phía cuối gian phòng. Băng tải chạy dọc một cửa hầm rộng hai mét, thoai thoải nghiêng theo chiều dốc đứng, nước nhỏ giọt qua vòi thoát. Ánh sáng phát ra từ khoảng cách gần nửa cây số, phía sâu trong lò. Có những chấm nhỏ xíu di chuyển trong lòng sáng. Đội khai phá đang kiểm tra lần cuối.
Savina đánh giá rất cao tính triệt để trong công việc họ làm.
Tổng cộng hơn năm mươi lỗ khoan – dày bằng ngón tay cái, sâu một mét – đã được nhồi thuốc nổ ANF0 phía cuối lò. Các lỗ khoan len qua một địa tầng nằm dưới lòng hồ Karachay. Theo thứ tự, các kích nổ sẽ tạo một khe hở dưới đáy hồ nhiễm độc, hút lấy toàn bộ chất thải phóng xạ strontium và cesium xuống đường hầm.
“Ở đây, thưa Thiếu tướng.” Viên kĩ sư đứng giữa gian phòng, ra hiệu.
Một cửa sập hình tròn rộng ba mét bên dưới nền đất được đóng bởi xưởng đóng tàu hải quân Sevmorput ở thành phố Murmansk. Đó là cửa hầm chứa tên lửa mới nhất, gồm sáu tấm thép dày nửa mét có hình dạng của một vách ngăn.
Bà bước lùi lại, hướng về chiếc máy tính có dữ liệu phân tích đặt trên bàn làm việc. Các biểu đồ kĩ thuật đã hiện sẵn. Vài công nhân cũng đứng xem.
Ông liên lạc bằng điện đàm, nhận hồi đáp rồi gật đầu với Savina. “Ta được nối với phòng điều khiển. Mười giây nữa sẽkhai hỏa.”
Savina khoanh tay quan sát. Phòng điều khiển nằm ở Chelyabinsk 88, chính là một trong những tòa nhà cũ kĩ bỏ hoang từ thời Xô viết. Các chuyên viên kĩ thuật tập trung trong một căn phòng nhỏ toàn màn hình giám sát và máy tính. Một khi phong tỏa kết thúc, ba mươi máy quay sẽ làm nhiệm vụ đưa tin về khu vực.
Người kĩ sư bắt đầu đếm ngược. “Ba… hai… một… không.”
Tiếng mạch điện kêu lách tách phía cửa hầm, những mảnh thép mở ra giống hình thù một tròng máy quay. Có tiếng nước ầm ầm vọng lại khi cánh cửa mở rộng hơn. Bà bước qua vách ngăn, nhìn chòng chọc vào miệng hố. Một đường hầm thẳng đứng xuyên qua độ sâu hai trăm mét dưới lòng đất.
Người kĩ sư chĩa chiếc đèn pin cỡ lớn xuống miệng hầm. Một luồng sáng bạc dội lại từ rất xa bên dưới. Một dòng sông ngầm. Có nhiều đường nước như vậy lưu thông qua dãy Ural, những tầng nước ngầm khổng lồ đổ xuống từ cao nguyên. Phía bên kia rặng núi, sông suối chảy vào biển Caspi, nhưng ở đây, nước ngầm lại tràn qua hàng loạt con sông, đặc biệt là sông Techa và sông Ob, thẳng hướng đến Bắc Băng Dương.
Savina nhìn lên cửa hầm có lối đi nghiêng dẫn đến địa tầng bên dưới hồ Karachay. Nơi đó chứa lượng strontium và cesium cao gấp trăm lần lượng phóng xạ cùng loại thoát ra ở Chernobyl. Màn khói độc Chernobyl từng bao trùm khắp thế giới. Còn miệng hầm thẳng đứng nơi có mạch nước ngầm lại là một nguy cơ mới. Các nhà địa chất hiểu rõ những địa tầng bên dưới hồ Karachay. Chỉ còn là vấn đề thời gian cho một trận động đất xảy ra, khiến khe nứt nào đó vỡ tung và cuốn trôi tất cả phóng xạ xuống hệ thống thoát nước của dãy Ural. Nghiên cứu từ các nhà địa chất Na Uy ước lượng rằng tai họa này sẽ phá hủy phần lớn Bắc Băng Dương, một trong những vùng hoang vu rộng lớn cuối cùng của trái đất. Bắt đầu từ đó, lớp màn độc hại sẽ quét qua nửa bán cầu, tác động mạnh nhất vào miền Bắc châu Âu. Những đánh giá dè dặt cho biết thiệt hại về nhân mạng do bức xạ ban đầu và ung thư thứ phát lên đến một trăm triệu. Điều đó có thể dễ dàng kéo theo thiệt hại gấp đôi hay gấp ba cho môi trường cũng như nền kinh tế.
Bà không rời mắt khỏi cửa hầm bên dưới. Thảm họa luôn bất biến nhưng lại ít được công khai thừa nhận. Thiên nhiên chỉ cần một tác động nhỏ.
Để rồi thế giới sẽ bùng cháy.
Hơi thở bà dồn dập trước tội ác sắp được thể hiện. Đằng sau ngọn lửa mang tên phóng xạ, một Đế quốc Nga sẽ hồi sinh, như con chim phượng hoàng tung cánh từ đống tro tàn hạt nhân do chính họ tạo ra.
Không gì có thể ngăn cản nổi bà.
Bà đã dành cả cuộc đời và linh hồn cho căn cứ Warren, cho Tổ quốc. Sau bao nhiêu hy sinh, bao lần đổ máu, nước Nga còn lại gì? Mấy thập kỷ qua, Savina chứng kiến Tổ quốc chìm trong cái bóng mục ruỗng đáng thương của chính mình. Phần đời còn lại, bà muốn mang lại cho đất nước niềm hy vọng. Đó là di sản mà con trai bà sẽ kế tục.
Bà sẽ đốt cháy mọi tàn dư thối nát, kiến tạo nên một thế giới mới.
“Thiếu tướng? Còn điều gì không?”
Bà lắc đầu và kết thúc ngắn gọn. “Tôi xem đủ rồi.”
Viên kĩ sư gật đầu, bước tới một cần gạt bằng thép cạnh chỗ làm việc. Trông giống như một phanh tay khổng lồ trên xe hơi. Ông nắm lấy phần tách rời trên cần gạt, kéo nó lên và đẩy về hướng ngược lại. Vách ngăn dưới chân bà trượt đóng, lấp kín miệng hầm. Vẫn còn nhiệm vụ phải hoàn thành. Những thợ mỏ quay trở lại với vách ngăn họ đã cùng làm việc trong suốt hai năm qua kể từ lúc khởi công. Chiến dịch Thổ Tinh đã sẵn sàng.
Savina tiến về phía con tàu. Bà cần hoàn tất những chuẩn bị cuối cùng ở Chelyabinsk 88. Nhìn đồng hồ đeo tay, bà chắc mẩm Nicolas đang trên đường đến dự nghi thức sau mộtgiờ nữa tại Chernobyl. Dù có vài động thái vội vã, ông cũng đã khiến mọi việc êm thấm. Kế hoạch sẽ diễn ra theo tiến trình, mặc cho Nicolas có tham gia hay không. Mọi thứ được chuẩn bị đâu vào đấy. Trì hoãn là điều không thể.
Khi những cánh cửa tàu vừa khép lại, bà ngoái nhìn lần nữa trái tim của Chiến dịch Thổ Tinh. Bà hình dung sự thật hàng triệu con người sẽ chết, nhưng họ chỉ là khái niệm trừu tượng, một dự tính quá lớn chưa có thống kê. Con tàu lắc lư chuyển động, đưa bà trở về với căn cứ Warren, với Chelyabinsk 88. Đội ngũ giảng viên cũng như các nhà nghiên cứu đang chuẩn bị sơ tán. Máy tính bị xóa sổ, hồ sơ hóa thành tro tàn. Lũ trẻ cũng được lên tinh thần sẵn sàng – nhưng không phải để di dời. Chúng sẽ tự đáp chuyến tàu cuối cùng.
Tất cả, ngoại trừ mười đứa trẻ sẽ đi theo bà.
Savina mường tượng sáu mươi tư khuôn mặt còn lại, cả những đứa trẻ còn đang ẵm ngửa. Con số quá nhỏ để được xem là trừu tượng. Bà biết tên phần đông trong số chúng. Khi những guồng quay dần tiến vào bóng tối của căn cứ, Savina chống một tay lên thành tàu. Hai đầu gối run rẩy, một đợt cảm xúc chợt trào dâng trong bà. Bà không bắt mình phải kìm nén. Ngực và cổ họng thắt lại. Vài giọt lệ nóng hổi lướt qua gò má. Một khoảnh khắc cô độc bà để mặc cảm xúc lan tỏa tự nhiên. Bà nhận ra phần nhân tính đang trỗi dậy và cho phép bản thân được đau buồn.
Nhưng chỉ là phút chốc.
Con tàu chậm dần, cái cớ để cho bà lau khô nước mắt, vỗ vỗ tay lên má để lấy lại tinh thần. Bà hít vài hơi thật sâu. Khái niệm thoái lui không được tồn tại.
Tất yếu phải nghiệt ngã.
Và bà cũng sẽ phải trở nên tàn nhẫn.
9:32 sáng
Thành phố Pripyat, Ukraina
Nicolas leo lên chiếc limo cùng với Elena. Một đoàn xe trải dài từ khu vực khán đài phía trước khách sạn Polissia. Các chính trị gia, các viên chức cấp cao đang nhộn nhịp lui tới hoặc được hộ tống gắt gao. Ngay từ nửa đêm, đội ngũ báo chí từ khắp nơi trên thế giới đã lắp đặt máy quay và ăng-ten thu vệ tinh cao ngất ngưởng trên xe lưu động. Những nhân vật nổi tiếng cũng như giới chức sắc đã di chuyển về phía ánh đèn dành cho các cuộc phỏng vấn, thưởng ngoạn hoặc chỉ là khoảnh khắc trở thành tâm điểm.
Vài giờ tới, mọi ánh mắt sẽ đổ dồn về bức màn niêm phong Chernobyl, động thái cuối cùng để chấm dứt thời kỳ hạt nhân xưa cũ, khởi xướng một hội nghị thượng đỉnh hướng đến mục tiêu xa hơn trong tương lai.
Nhưng lúc này đây, Nicolas lại có mối bận tâm riêng.
Cửa xe vừa đóng, Nicolas dành ngay thời gian nói chuyện với Elena. “Anh xin lỗi. Đáng lẽ anh phải nói với em về Sasha và Pyotr.”
Elena lắc đầu giận dữ. Cô không nói lời nào kể từ sau buổi thẩm vấn những nhân vật người Mỹ. Lúc này cô đang hững hờ nhìn ra ngoài cửa sổ. Sasha và Pyotr luôn chiếm vị trí đặc biệt trong trái tim cô, hơn tình cảm thông thường. Cô có mối liên hệthân thuộc với chúng, bởi chúng do chính chị gái cô sinh ra. Natasha đã qua đời lúc lâm bồn.
“Em biết chính sách ở Warren mà,” Nicolas cố gắng giải thích trong lúc chiếc limo chuyển bánh trên trục đường chính. “Hồ sơ thai sản bị niêm phong.”
Đó là một nguyên tắc mở đầu ở căn cứ Warren. Dòng dõi kế tục hầu như bị giấu kín. Lũ trẻ chỉ biết đến anh em trực hệ của mình để tránh tình trạng gần gũi quá mức, và mọi sự chấm hết tại đó. Vấn đề sinh sản được điều phối bởi các nhà di truyền học.
Nhưng Nicolas là một sản phẩm khác biệt. Là con trai của nhà sáng lập, toàn bộ lý lịch của ông được ngụy tạo, bắt đầu bằng một bệnh viện địa phương tại thành phố Yekaterinburg nơi ông chào đời với cái họ giả Solokov. Mẹ ông từng muốn dùng cái tên Romanov, nhưng có thể là quá liều lĩnh. Ngay từ đầu, ông đã được trao một số phận khác biệt, được hưởng những đặc ân nhất định.
“Có lần anh đã kiểm tra hồ sơ của phòng thụ tinh,” ông tiếp tục. “Anh tò mò muốn biết anh có đứa con nào không. Rồi anh phát hiện ra Sasha và Pyotr chính là con anh. Nhưng anh không được phép nói.” Ông với tay định đặt lên đầu gối cô, nhưng bỗng do dự vì cảm giác sợ hãi. “Thật ra, mẹ anh muốn củng cố vững chắc cho liên minh của chúng ta nhờ vào tài năng của bọn trẻ. Với nỗ lực gầy dựng lại một phả hệ di truyền thật xứng đáng.”
Elena không động đậy. Phần nào đó trong con người ông ngưỡng mộ sự lạnh lùng rất đỗi kiểm soát ấy. Ông muốn chạm vào cô nhưng chưa được phép.
“Làm ơn, milaya moya, thứ lỗi cho anh.”
Cô vẫn phớt lờ.
Thở dài, ông nhìn về phía trước.
Qua khung cửa kín, thành phố Chernobyl lại hiện ra trước mắt. Một tháp thông gió cao chót vót bao quanh bởi lớp giàn giáo bảo trì, xen giữa những tòa nhà xi măng hổ lốn. Bên cạnh là mái vòm hình khối khổng lồ làm bằng thép và bê tông đen ngòm. Quang cảnh trông có vẻ ẩm thấp như đang đổ mồ hôi. Không còn lý do nào để bàn cãi về công trình được cho là Quan tài bằng đá. Giống hệt một lăng mộ phủ lên đống đổ nát của lò phản ứng số bốn.
Nicolas đã xem qua những bức ảnh mô tả lớp lớp xi măng bị thiêu đốt, thép bị vặn xoắn bên trong, ở một căn phòng, hình ảnh chiếc đồng hồ nửa cháy đen nửa tan chảy đã khắc ghi thời khắc lịch sử của vụ nổ. Bên trong Quan tài, trên hai trăm tấn uranium và plutonium bị chôn vùi cùng đống đổ nát, phần lớn ở dạng dung nham đóng cứng, hình thành từ khối nhiên liệu và bê tông nóng chảy, cộng với hai ngàn tấn chất đốt. Lõi phát nổ được tìm thấy khắp nơi, một số găm vào cả những bức tường bên ngoài, ở những tầng thấp nhất của lò phản ứng, nước mưa rò rỉ và bụi khí đốt tụ lại thành một đám mây phóng xạ. Chẳng phải một giải pháp mới sẽ trở nên cần thiết sao?
Câu trả lời nằm ở bên trái.
Nó mang nhiều tên gọi: Hầm trú ẩn, Mái vòm sự sống, cỗ quan tài hồi sinh. Mái vòm hình vòng cung cao ba mươi bảy tầng, nặng hơn hai mươi ngàn tấn, rộng một phần tư kilômét và chiều dài bằng phân nửa con số ấy. Bên trong công trình có nhiều hang hốc khiến cho các kĩ sư phải lo ngại rằng mây và mưa có thể hình thành bên trong. Dưới mái vòm, những cần cẩu tự động đang đứng chờ để tháo dỡ chiếc Quan tài cũ thành từng mảnh, được vận hành an toàn bởi các kĩ sư ở bên ngoài.
Nhưng mọi thứ đã bắt đầu từ trước đó. Toàn bộ mái vòm gắn vào các rãnh thép bôi trơn, giờ đây được kéo chầm chậm trên đường ray bởi những đòn bẩy thủy lực khổng lồ. Một kiến trúc có thể di dời đồ sộ nhất, do con người tạo dựng nên. Trước mười một giờ sáng nay, Hầm trú ẩn sẽ phủ lên Quan tài lẫn công trình bê tông kế cận, che đậy hoàn toàn lăng mộ cũ, mãi mãi chôn giấu phần lịch sử ảm đạm của nước Nga đồng thời báo trước một khởi đầu mới.
Thật trọn vẹn, sự kiện này còn khai màn cho hội nghị cấp cao sắp tới. Đáng tiếc thay, hội nghị chẳng bao giờ có cơ hội diễn ra.
Chiếc limo đi vào bến đỗ dọc theo hướng Nam của chiếc Quan tài cũ. Những khách mời quan trọng đã ngồi kín chỗ. Diễn văn khai mạc trên sân khấu bắt đầu đưa ra bản tuyên bố chung chính thức giữa Mỹ và Nga, đồng ý với nhau vấn đề niêm phong Chernobyl giai đoạn cuối cùng. Toàn bộ sự kiện đã được lên dây cót, khớp với thời gian tháo dời mái vòm khổng lồ.
Đúng theo dự kiến của Nicolas.
Một thoáng sợ hãi lướt qua người ông. Không giống với khoảnh khắc ông đứng ở bục tin tức, lãnh phát đạn chí tử từ kẻ ám sát. Lần mạo hiểm buổi sáng hôm nay còn tồi tệ hơn gấp ngàn lần.
Ông xoay người nhận ra tay Elena đang đặt lên tay ông. Cô vẫn chưa nguôi giận, cái nhìn hướng ra cửa sổ cho ông biết vấn đề chưa kết thúc. Những móng tay cong lên, ấn mạnh vào lòng bàn tay ông như một lời hứa trừng phạt diễn ra sau đó.
Ông ngả người về sau chịu đựng.
Cơn đau khiến ông tập trung.
Phía trước, mái vòm từ từ phủ lấy Chernobyl.
Ông biết điều gì sẽ đến.
Rõ ràng ông đáng bị trừng phạt.
10:04 sáng
Gray đi qua đi lại trong buồng giam, bỗng nghe tiếng thịch va vào cửa. Kowalski nhướn mắt quan sát còn Luca đứng bật dậy khỏi bờ tường.
“Chuyện quái gì nữa đây?” Kowalski càu nhàu.
Tiếng then cài kim loại kèn kẹt vang lên, cửa mở toang.
Một nhân vật bước qua đôi chân mang ủng của tên lính gác nằm trên sàn.
“Nhanh lên,” người đàn ông vung chiếc gậy cán ngà. “Ta phải ra khỏi đây.”
Gray nhìn với ánh mắt hoài nghi. Đó là Tiến sĩ Hayden Masterson.
Bất động tại chỗ, Gray bối rối giữa quyết định đấm cho ông ta một trận hay bắt tay hợp tác.
Masterson hiểu được sự hoang mang ấy, “Chỉ huy, tôi làm việc cho MI6.”
‘Tình báo Anh?”
Ông ta thở dài gật đầu. “Giải thích sau. Ta phải đi thôi. Ngaybây giờ.”
Masterson tiến thẳng ra hành lang, cả nhóm theo sau. Gray ngừng lại một lúc để nhặt vũ khí, một khẩu súng lục Nga được gọi là Grach hay Rook. Tên lính gác bị hạ gục, mũi vỡ nát. Có vẻ như cây gậy của Masterson mang nội lực hơn mong đợi. Gray tiến sát Masterson. Ngờ vực vẫn dấy lên trong lòng, “ông ư? ông là gián điệp cho MI6?”
Kowalski lẩm bẩm phía sau, “Chẳng giống như James Bond, phải không?”
Masterson tập tễnh bước đi nhưng vẫn quay sang trả lời. “Thật ra là một MI6 đã nghỉ hưu.” ông ta nhún vai. “Nếu anh gọi đó là nghỉ hưu.”
Gray thận trọng, không nghĩ ra nguyên nhân khiến người này thả tự do cho họ. Masterson khò khè đáp, “Tôi được chiêu mộ sau khi tốt nghiệp đại học Oxford và hoạt động ở Ấn Độ trong thời gian quân đội Xô viết chiếm đóng Afghanistan. Tôi đã giải nghệ mười năm, sau đó trượt vào mớ bòng bong này vì có người hứa trả hậu hĩnh cho nhiệm vụ theo dõi Archibald. Chẳng bao lâu thì phát hiện ra người Nga đứng đằng sau vụ đó. Nên tôi liên hệ với MI6 để báo cáo. Vấn đề bị coi nhẹ. Không ai xem hoạt động của Archibald là mối đe dọa cho an ninh toàn cầu. Thật ra mà nói, tôi cũng vậy. Cho đến khi ông ấy bị bắt cóc và chết ở D.c. Tôi cố gắng thuyết phục MI6, nhưng thời đại này ai lại đi nghe một lão già? Tôi không chờ được. Cứ gọi là bản năng già nua đi. Tôi biết có kế hoạch to tát đẫm máu nào đó đang được tiến hành. Tôi lo sợ kể từ sau khi mất đi Archibald, tôi phải dùng đến các anh để mào đầu.”
“Dùng chúng tôi à,” Kowalski phẫn nộ. “Họ đã giết Abe.”
Masterson nhăn mặt. “Tôi đã cố ngăn họ, nhưng anh bạn ấy tung kiếm ra quá nhanh.” ông lắc đầu buồn bã. “Có lẽ đây là cuộc chơi của những người trẻ thì đúng hơn.”
“Nhưng đợi đã!” Kowalski bỗng hấp tấp với phát hiện bất ngờ. “ông định bắn tôi còn gì!”
Gray xua đi nghi ngờ của anh chàng. “Masterson phải giả vờ.”
Ông gật đầu xác nhận. “Tôi phải tỏ ra thuyết phục.”
“Ông thuyết phục tôi thành công muốn chết đấy!”
“Cũng may là tôi thành công.” Masterson chuyển hướng sang Gray. “Lũ khốn nạn khát máu đang lên kế hoạch khử sạch nửa số lãnh đạo trên thế giới ngay trong hôm nay.”
“Gì cơ?”
Masterson dẫn họ đến một lối cầu thang cạnh trạm gác cũ, ông hạ giọng. “Còn vài người ở tầng dưới. Họ đã giúp tôi lên đây. Cũng là tù nhân như các anh thôi. Tôi đi giải thoát cho Elizabeth và Tiến sĩ Rosauro.” Vượt qua trạm gác, ông di chuyển xuống hành lang kế tiếp. “Nếu có đồng nghiệp quyến rũ của các anh hộ tống, chúng tôi sẽ cố gắng tìm cách liên lạc và di tản.”
“Đưa Luca đi nữa,” Gray đề nghị, ông muốn càng nhiều thường dân thoát khỏi khu vực nguy hiểm càng tốt. Thêm nữa, sự có mặt của tộc trưởng người Gypsy đủ để chứng minh cho Rosauro thấy rằng Masterson ngay thẳng.
Luca gật đầu đồng ý.
“Tốt rồi. Anh ấy có thể hỗ trợ tôi,”
Masterson dứt khoát, ông lôi từ trong áo khoác chiếc điện đàm của quân đội Nga, trao cho Gray để họ có thể liên lạc. “Nhưng trong lúc chờ đợi..”
Gray ngắt lời, “—Tôi phải chặn Thượng nghị sĩ Solokov.”
Masterson gật đầu. “Anh có chưa đầy một tiếng đồng hồ. Tôi không biết ông ta đang hoạch định điều gì, liên quan đến buổi lễ ở Chernobyl thì phải.”
“Buổi lễ nào?”
Masterson mở một mảnh giấy gấp trong túi áo rồi đưa cho Gray. “Họ sắp rào lại cỗ Quan tài cũ ở Chernobyl,” ông hất cằm về phía mảnh giấy. “Dưới một mái che bằng thép khổng lồ.”
Trong lúc Gray nghiên cứu mảnh giấy, Masterson liệt kê những chức sắc và lãnh đạo sẽ có mặt ở sự kiện đồng thời tóm gọn nhanh những nghi thức diễn ra vào buổi sáng. “Theo như kế hoạch cụ thể của Nicolas, tôi chỉ nắm được cái tên. Chiến dịch Thiên Vương Tinh.”
“Chiến dịch Hậu Môn của Bạn?” (Trong tiếng Anh, Uranus (Thiên Vương Tinh) được phát âm gần giống với Your anus) – Kowalski hỏi lại. “Nghe đau nhỉ.”
Gray phớt lờ câu nói ngớ ngẩn của anh chàng, tiến về phía cầu thang. “Giờ này Solokov ở đâu?”
“Đang đến Chernobyl.”
Gray mường tượng ra cột tháp thông gió lúc đi xuống cầu thang cùng Kowalski. Dù là hoạch định gì đi chăng nữa, chắc chắn có liên quan đến lò phản ứng. Nhưng cái tên của chiến dịch – Chiến dịch Thiên Vương Tinh – tại sao chứ? Khi tham gia huấn luyện ở Quân đoàn Biệt động, Gray học được bối cảnh lịch sử của tên gọi từ lớp nghiên cứu chiến thuật. Chiến dịch Thiên Vương Tinh là một tội ác của Nga trong Thế chiến thứ II, kết thúc bằng cuộc chiến đẫm máu nhất trong lịch sử nhân loại, Trận Stalingrad.
Sao lại là cái tên này?
Điều gì đó khiến Gray rối bời, nhức nhối, nhưng nỗi căng thẳng đã nhanh chóng khỏa lấp. Có hai lính gác đang chặn ở lối ra của nhà tù. Họ quay lưng về phía Gray. Ông nâng khẩu súng lục Rook vừa đánh cắp.
Phải tạm gác lại lo lắng thôi.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.