Nhà Tiên Tri Cuối Cùng

CHƯƠNG 4: NGÀY 5 THÁNG 9, 8:12 PM THỦ ĐÔ WASHINGTON, D.C.



Có cửa!” Kowalski hét lên từ đằng sau.
Gray ngừng chạy, ngoảnh đầu nhìn lại. Elizabeth Polk giơ cao bật lửa soi đường, một cánh cửa nhỏ nấp sau hai bậc thang trong căn hầm tối. Gray vội vã lao đến mong tìm ra một lối thoát dẫn đến đường cái, nhưng vẫn rất chú ý cẩn trọng với mái hầm công sự.
Âm thanh của đội tìm kiếm vang lên sau lưng. Một tiếng sủa đanh thép vọng tới khi họ lại lần ra dấu vết. Gray đã đi theo một đường chéo trong mê cung, cố gắng để thoát và xóa dấu vết, nhưng dường như vô ích, giờ thì khoảng cách giữa họ và nhóm truy đuổi đang thu hẹp.
Kowalski bước tới cầm tay nắm cửa. “Bị khóa rồi.” Anh chàng thất vọng đấm vào mặt kim loại.
Đứng kế bên, Gray nhận ra một bàn phím điện tử bên dưới. Ánh lửa lập lòe lướt qua tấm biển tử bên dưới. Ánh lửa lập lòe lướt qua tấm biển nhỏ bằng thép trang trí kiểu chữ nghệ thuật:
VIỆN BẢO TÀNG LỊCH SỬ QUỐC GIA MỸ
Cánh cửa chính là lối ngầm dẫn sang một bảo tàng khác thuộc Viện Smithsonian. Elizabeth thử nhét chiếc thẻ ra vào của cô nhưng ổ khóa vẫn không suy suyển. Để chắc chắn, Kowalski kéo mạnh tay nắm nhưng rồi lại lắc đầu.
“Thẻ của tôi chỉ dùng được trong Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên,” Elizabeth giải thích. “Nhưng tôi hy vọng…”
Tiếng sủa hung hãn khiến họ phải để ý xung quanh. Ánh đèn pin loang loáng thắp sáng cả một quãng đường hầm phía xa.
“Tốt hơn hết là đi thôi”. Kowalski nói xong liền rời khỏi cửa.
Một tiếng súng nổ. Có gì đó lóe lên từ bề mặt kim loại, dội vào chỗ Kowalski đứng một giây trước. Khoanh tròn bật ra khỏi cửa, xoay vòng trên sàn xi măng, tóe tia lửa điện màu xanh.
Kowalski nhảy giật lùi, như một con voi tránh xa con chuột nhắt.
Gray nhận ra loại đầu đạn: một phi tiêu Taser XREP. Từ khẩu độ mười hai tiêu chuẩn, vũ khí bắn ra một phi tiêu không dây dẫn động có thể gây tê liệt thần kinh cơ. Và có khả năng bắn hạ một con đười ươi trên núi.
“AN NINH QUỐC GIA! DỪNG LẠI NẾU KHÔNG CHÚNG TÔI SẼ BẮN!”
“Giờ lại cảnh cáo cơ đấy,” Kowalski vừa lẩm nhẩm vừa giơ hai tay lên đầu.
Nửa người nấp dưới thân hình to lớn của anh chàng cộng sự, Gray xoay lại, ấn tấm thẻ căn cước Sigma màu đen vào ổ khóa. Ánh sáng xanh nháy lên dọc theo mép khóa.
Cảm ơn Chúa!
“ĐẶT HAI TAY LÊN ĐẦU. QUỲ XUỐNG!”
Gray vặn tay nắm, cửa bật mở. Đằng xa tối đen. Ông kéo khuỷu tay Elizabeth đang lần mò phía sau. Cô lưỡng lự vì bất chợt nhìn thấy cánh cửa đã mở quá nửa. Đến lượt cô tiến vào, không quên với lấy thắt lưng của Kowalski. Hai tay đặt lên đầu, anh chàng cúi người chuẩn bị quỳ xuống.
Kowalski ngoái lại nhìn.
Gray đẩy cửa sang một bên và kéo Elizabeth theo cùng. Mất thăng bằng, Kowalski trượt một đầu gối xuống đất – anh chàng co chân đẩy người ra sau, vượt qua cánh cửa.
Gray nghe thấy một phát nổ khác.
Kowalski vỗ nhẹ ra hiệu cho họ bò ngang qua những bậc thang tối om nằm bên kia ngưỡng cửa. Một chân đá cho cánh cửa đóng lại – không hiểu sao anh chàng vẫn tiếp tục đá. “Trời chết tiệt thật!” có tiếng nghiến răng rên rỉ.
Gray phát hiện một đầu đạn tóe lửa đâm xuyên qua giày Kowalski, chân anh ta đang co cứng lại. Elizabeth cũng nhận ra.Cô leo qua người Kowalski, giữ chặt cổ chân, dùng gót giày đè lên mảnh đạn Taser.
Chân Kowalski tiếp tục co giật theo nhịp thở, rồi ngừng lại.
Anh chàng buột miệng chửi thề.
Gray đứng dậy, vươn tay giúp anh chàng lấy thăng bằng. “May cho cậu là bắn trúng giày. Miếng da đã ngăn mấy ngạnh phi tiêu không đâm sâu thêm.”
“May thật!” Kowalski gập người chùi những vết đâm xé toạc lớp da bóng lộn. “Mấy tên khốn làm hỏng giày chukkas mới cứng của tôi!”
Tiếng la hét ỏm tỏi đã lan đến cánh cửa.
“Đi nào,” Gray ngẩng đầu hối thúc.
Kowalski vẫn phàn nàn khi cả ba chạy lên cầu thang. “Crowe sẽ mua đôi mới cho tôi!”
Gray phớt lờ, tiếp tục chạy đua với những bậc thang.
Kowalski lại tuôn một tràng chửi rủa. “Vứt cái sọ khỉ xuống đó đi. Để họ giữ lại cái thứ quỷ tha ma bắt đó đi.”
“Không!” Elizabeth và Gray đồng thanh.
Gray cảm nhận được nỗi tức giận toát ra từ giọng Elizabeth.Cả hai có sự đồng cảm. Cha cô đã ra đi trong nỗ lực giữ cái đầu lâu thoát khỏi những kẻ săn đuổi ông. Đã chết trên cánh tay Gray. Gray không có ý định bỏ cuộc.
Họ lên đến cánh cửa cầu thang phía trên, cũng bị khóa. Bước chân rầm rập dồn vang phía cuối đường, sẽ chẳng mất bao lâu để ai đó khóa chiếc thẻ từ ra vào cửa.
“Đây này,” Elizabeth chỉ vào đầu đọc thẻ khuất trong bóng tối.
Gray lại ấn tấm thẻ căn cước vào và nghe tiếng khóa bật mở. Ông đẩy cửa đồng thời ngoái nhìn lại. Chắc chắn tin tức đã lan truyền. Bất kỳ ai rượt đuổi cũng biết họ đang chạy trốn đến Bảo tàng Lịch sử.
Gray dẫn đoàn đi vào một hành lang sáng đèn. Gần như là một đường nối với tầng hầm của Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên, có vài chồng hộp trên lối đi. Gray kiểm tra điện đàm vô tuyến nhưng chưa có tín hiệu vì vẫn còn quá sâu dưới mặt đất.
“Đường này,” ông nhắm đến lối cầu thang dẫn lên.
Họ suýt đứng tim bởi một anh kĩ sư điện mặc đồng phục đang lơ lửng với vòng dây cáp trên vai cùng đai dụng cụ khá nặng nề. “Sao ông không biết nhìn đường!”
Chút biểu hiện gì đó ở Gray khiến anh ta im bặt. Ra khỏi hành lang, ông áp sát vào tường. Hai cộng sự cùng tiến lên và đi về phía trước. Càng đi xa, họ càng phải đối mặt với những hỗn độn: mấy đám công nhân, những bức tường trần trụi, ống thông gió lộ liễu ngang dọc. Đến đầu cầu thang tiếp theo, họ phải lắt léo né qua những phiến đá chất đống, lớp cẩm thạch bằng phẳng xếp chồng lên nhau. Tiếng gầm rú từ động cơ mô tô và tiếng rít của lưỡi cưa vọng từ lối ra phía trước. Không khí ám mùi sơn mới quét cùng bụi mùn cưa.
Gray nhớ ra, Bảo tàng Lịch sử Mỹ đang trong thời gian đại tu cơ sở hạ tầng đã bốn mươi năm tuổi nhằm phục vụ tốt nhất cho việc trưng bày ba triệu báu vật lịch sử, từ chiếc mũ chóp của Abraham Lincoln cho đến đôi giày màu đỏ thẫm của Dorothy. Bảo tàng đã đóng cửa hai năm qua nhưng sẽ mở lại vào tháng tới.
Quan sát mọi thứ đang diễn ra ở hội trường trung tâm bảo tàng, Gray nhận định buổi lễ tái khai trương trọng đại có thể sẽ hoãn lại. Bề mặt nào hầu như cũng bọc đầy những lớp phủ nhựa; giàn giáo được dựng cao đến tận tầng ba cầu thang lớn đang được làm vệ sinh, cửa sổ áp mái khổng lồ trên đỉnh đầu vẫn còn trùm kín giấy.
Gray túm lấy người công nhân đứng gần đó, một thợ mộc đeo khẩu trang che nửa khuôn mặt. “Lối ra! Lối ra gần nhất ở đâu?”
Người đàn ông nheo mắt nhìn Gray. “Lối ra đại lộ Constitution đã bị khóa, ông phải leo lên tầng hai. Đâm ra ngoài lối vào chính của công viên Mall.” Ông ta chỉ về phía cầu thang.
Elizabeth gật đầu hiểu ý, cả nhóm tiếp tục di chuyển. Gray kiểm tra điện đàm một lần nữa, vẫn không có tín hiệu. Ai đó hay chuyện gì đó đã làm tín hiệu của ông bị khóa.
Họ gấp rút chạy lên cầu thang tầng hai, chỗ này bớt lộn xộn hơn. Sàn nhà lát đá cẩm thạch màu xanh ngọc có vẻ như vừa được lau chùi, bật lên những khung nền hình ngôi sao bạc. Trước mắt Gray, không có trở ngại nào từ hội trường trung tâm cho đếndãy cửa kính hướng ra công viên Mall, ông cần vạch kế hoạchtrước khi quá trễ.
Một tốp người mang theo súng trường tấn công đã tràn vào, ngay phía bên ngoài. Họ mặc đồng phục sẫm màu trang bị những mảnh đệm trên vai.
Gray ra lệnh cho Kowalski và Elizabeth quay trở lại.
Có tiếng sủa, tiếng gầm gừ vọng lên từ tầng trệt. Công nhân la hét vì kinh ngạc.
“Giờ thì sao đây?” Kowalski bối rối hỏi.
Tiếng loa phóng thanh phát ra từ lối vào công viên Mall. “AN NINH QUỐC GIA! TÒA NHÀ SẼ LẬP TỨC SƠ TÁN! TẤT CẢ MỌI NGƯỜI RA CỔNG CHÍNH!”
“Đường này,” Gray vững giọng.
Ông dẫn họ men theo tường đến mẫu vật trưng bày lớn nhất ở tầng hai. Tác phẩm sắp đặt là một lá cờ nghệ thuật trừu tượng,tạo thành bởi mười lăm dây ruy băng làm bằng nhựa tổng hợpphản quang.
“Ta không thể tiếp tục chạy thế này,” Elizabeth lên tiếng.
“Ta không chạy.”
“Vậy là đang trốn à?” Kowalski tiếp lời. “Còn mấy con chó thì sao?”
“Ta không chạy hay trốn,” Gray quả quyết.
Ông băng ngang lá cờ sáng lấp lánh. Bề mặt gương phản chiếu hình ảnh như lăng kính của bảo tàng. Trong từng mảnh tán sắc, Gray nhìn thấy một nhóm vũ trang lập thành một hàng rào không thể xuyên thủng trải dài ở lối ra duy nhất.
Bước qua một trong những giàn giáo chứa đầy dụng cụ và quần áo bảo hộ dự trữ, Gray nhặt nhạnh những thứ ông cần. ông đưa một mớ cho Kowalski. Còn mình giữ lại những gì cần thiết: một hộp sơn và một thùng dung môi bằng nhựa. Ông hướng đến hành lang bên dưới ngọn cờ. Kowalski đọc được tấm biển trưng bày ở lối vào, khẽ huýt gió.
“Pierce, ông đang tính làm gì vậy?”
Gray dẫn lối đến trung tâm triển lãm những hiện vật quý giá nhất của bảo tàng. Đây là lý do chính cho việc đổi mới toàn bộ. Họ bước vào một hội trường rộng, tối tăm. Ghế xếp dọc một bên, đối diện với bức tường ốp thủy tinh. Sức nặng của báu vật lịch sử bảo quản sau tấm kính thậm chí khiến cho đám hỗn độn sau lưng họ dường như bị lu mờ, một trong những biểu tượng quốc thể quan trọng nhất. Hiện vật trải dài trên một mặt nghiêng được phủ tấm vải len pha sợi, kích thước khéo bằng một phần tư kích thước sân bóng ném. Màu đã phai nhưng lá cờ vẫn lông trong đó bức tranh nghệ thuật ấn tượng của lịch sử nước Mỹ, truyền cảm hứng cho những giai điệu quốc ca hùng tráng.
“Pierce…?” Kowalski có vẻ đã hiểu ra, ngậm ngùi. “Đó là Star-Spangled Banner.”
Gray đặt hộp sơn lên sàn nhà, bắt đầu vặn mở nắp thùng dung môi có khả năng bắt lửa cao.
“Pierce… ông không có ý… không phải trò đùa đâu.”
Gray không quan tâm, quay sang Elizabeth. “cô còn mang bật lửa ở đấy không?”
8:32 tối
Ngồi trong phòng an ninh của Vườn thú Quốc gia, Yuri thấy trĩu nặng tâm can cho cuộc đời đã ngót nghét bảy mươi bảy năm. Tất cả những kích thích tố, những ca phẫu thuật không che đậy nổi vết thương trong trái tim ông. Nỗi sợ hãi khiến ông chết lặng, càng khiến cho chân tay ông đau nhức rã rời; sự lo âu hằn những vệt sâu trên khuôn mặt ông.
“Chúng tôi sẽ tìm ra cháu gái ông,” viên trưởng phòng an ninh đã hứa với ông như thế. “chúng tôi đã đóng cửa công viên. Mọi người đang tìm kiếm cô bé.”
Yuri ngồi một mình trong văn phòng với một phụ nữ trẻ trạc tuổi hai mươi lăm. Cô mặc bộ đồng phục thợ săn bằng vải kaki dành cho nhân viên vườn thú. Thẻ nhân viên có đề tên TABITHA. Cô có vẻ bồn chồn trước bộ dạng của ông, không biết làm cách nào để đối diện với nỗi thất vọng đang hiện rõ trong ông. Cô đứng dậy, ra khỏi bàn làm việc.
“Bác có muốn gọi điện cho ai không? Người thân?”
Yuri ngẩng đầu. ông nhìn cô trong thoáng chốc. Cô gái trẻ có cặp má tròn ửng hồng… còn nhiều thời gian chờ đợi cô phía trước, ông chợt nhận ra mình chỉ lớn hơn cô vài tuổi khi nhảy khỏi chiếc xe tải rầm rập tiến lên vùng cao nguyên thuộc dãy Carpathian. Ông ước gì mình chưa từng đến cái khu trại du mục ấy.
“Bác có muốn gọi điện không ạ?” cô gặng hỏi.
Ông chầm chậm gật đầu. Không thể nào trì hoãn thêm được nữa. ông đã báo cho Mapplethorpe, chẳng có gì nhiều để mà tường trình, với hy vọng nhận được sự hợp tác từ nhà chức trách trong giới cảnh sát thành phố D.c. Nhưng ông bị ngó lơ, Mapplethorpe đang bận rộn săn tìm hiện vật bị đánh cắp. Mapplethorpe đã nhắc điều gì đó về con gái giáo sư Polk. Nhưng Yuri chẳng còn quan tâm. Mapplethorpe hứa với ông sẽ đặt Báo động Hổ phách để tìm kiếm đứa trẻ mất tích. Mọi ngõ ngách của thành phố D.c. và những thị trấn cách xa trung tâm sẽ được báo động. Phải tìm cho ra cô bé.
Sasha…
Khuôn mặt bầu bĩnh và đôi mắt xanh rạng ngời của cô bé lấp đầy tâm trí ông. Lẽ ra ông không bao giờ được phép rời xa cô bé. Ông cầu mong cô bé chỉ đi lang thang đâu đó. Nhưng giữa một công viên toàn thú hoang dã, ngay cả khung cảnh tươi đẹp nhất đôi khi cũng ẩn chứa những hiểm nguy. Tệ hơn là biết đâu ai đó đã tóm được cô bé, đã bắt cóc cô? Trong tình cảnh hiện tại, cô bé sẽ dễ bị ảnh hưởng, bị tác động. Yuri biết rõ hàng đống những kẻ mắc chứng ái nhi bên ngoài kia. Có kẻ còn gặp rắc rối khi dính dáng đến những nhân viên mới vào ở căn cứ Warren. Nơi đó có quá nhiều trẻ em, quá nhiều. Sai lầm tiếp diễn.
Nhưng không phải tất cả những vụ lạm dụng đều do sai lầm.
Ông muốn lẩn tránh cái suy nghĩ sau cùng này.
Tabitha mang đến một chiếc điện thoại không dây.
Yuri lắc đầu và rút điện thoại di động của riêng ông. “Cảm ơn cô nhưng đây là cuộc gọi đường dài,” ông giải thích. “Về Nga. Gọi cho bà của cô bé. Tôi dùng điện thoại của tôi được rồi.”
Tabitha gật đầu rồi quay lưng đi, “cháu để cho bác tự nhiên” cô bước sang văn phòng kế bên.
Yuri bấm số gọi bằng chiếc điện thoại nối mạng quốc tế.
Một con chíp nhỏ do tình báo Nga thiết kế sẽ ngắt tín hiệu truyền đến các tháp di động, không thể lần ra dấu vết, đồng thời đổi tần số liên lạc.
Ông rất sợ phải thực hiện cuộc gọi này, nhưng không thể chờ lâu hơn nữa. Căn cứ Warren cần được cảnh báo, bên đó hiện giờ còn đang rất sớm. Có khi chưa đến bốn giờ sáng. Nhưng điện thoại vẫn có hồi đáp tức thì, giọng nói nghe cộc lốc và sắc gọn.
“Có chuyện gì vậy?”
Yuri hình dung trong đầu người phụ nữ ở đầu dây bên kia, cấp trên trực tiếp của ông, Tiến sĩ Savina Martov. Cả hai cùng phát hiện ra những đứa trẻ, khởi sự đội ngũ Warren, nhưng những mối liên hệ của Martov với tổ chức KGB trước đây đã đẩy bà lên vị trí chỉ huy của Yuri. Có một câu châm ngôn ở Nga –”chẳng ai rời xa KGB”. Cho dù những lãnh đạo phương Tây có nghĩ gì đi chăng nữa, điều đó cũng không loại trừ được tổng thống Nga đương nhiệm, ông ta vẫn có bức tường chắn vây quanh, những cựu thành viên của tình báo Xô viết. Mọi hợp đồng chủ chốt vẫn còn nằm trong tay những gián điệp ngày ấy.
Và Tiến sĩ Savina Martov không phải là ngoại lệ.
“Savina, ta gặp một vấn đề nghiêm trọng,” ông nói bằng tiếng Nga.
Ông tưởng tượng khuôn mặt bà đang rắn lại. Cũng giống như Yuri, bà cũng trải qua điều trị bằng nội tiết tố, phẫu thuật, mỹ phẩm nhưng trông bà vẫn ở trong tình trạng tốt hơn Yuri. Tóc bà còn đen nhánh, nhan sắc khó bị tàn phai. Trông bà như một phụ nữ vừa qua tuổi bốn mươi. Yuri hoài nghi lý do. Bà đã không phải tranh đấu với cái u nhọt tội lỗi đã giày xéo ruột gan ông. Độ chắc chắn về viễn cảnh và mục tiêu chính trị luôn rạng ngời trên gương mặt bà. Sự dối trá chỉ bị lật tẩy khi có duy nhất ai đó nhìn vào đôi mắt bà. Không phương pháp trị liệu nào có thể che đậy mãi những toan tính lạnh lùng ẩn sâu trong đó.
“Ông vẫn chưa tìm ra thứ chúng ta bị đánh cắp sao?” Giọng bà gay gắt. “Tôi nghe nói Polk đã bị khử. Vậy thì tại sao?”
“Là Sasha. Cô bé mất tích rồi.”
Một khoảng lặng kéo dài.
“Savina, bà có nghe không?”
“Có. Tôi vừa nhận được báo cáo của một trong những nhân viên ở khu tập thể. Đó là lý do tại sao tôi dậy sớm. Họ phát hiện thấy ba cái giường trống.”
“Những đứa nào cơ? Đứa bé nào?”
“Konstantin, em gái cậu bé Kiska và Pyotr.”
Savina tiếp tục đọc bản báo cáo, một cuộc tìm kiếm được tiến hành trên khắp căn cứ Warren, nhưng giọng bà trở nên trống rỗng, như vọng lại dưới tầng giếng sâu khi Yuri lặp lại cái tên cuối cùng.
Pyotr. Peter.
Cậu bé là em trai song sinh của Sasha.
“Khi nào?” Ông buột miệng thốt lên. “Ba rebyonka biến mất lúc nào?”
Savina thở dài khó nhọc. “Lần kiểm tra cuối cùng chúng vẫn còn ở đó, theo như bà quản lý nói. Vậy là vào lúc nào đó trong khoảng một giờ đồng hồ trước.”
Yuri liếc nhìn đồng hồ đeo tay.
Khoảng thời gian Sasha biến mất.
Đó là một trùng hợp ngẫu nhiên, hay Pyotr đã linh cảm thấy nguy hiểm cận kề người chị song sinh? Có phải điều đó khiến cho cậu bé hoảng sợ? Nhưng trước đây Pyotr chưa bao giờ thể hiện khả năng như thế. Chỉ số thấu cảm của cậu bé rất cao – đặc biệt khi liên hệ với các loài động vật – nhưng cậu bé chưa bao giờ bộc lộ những khả năng như chị gái. Và chúng vẫn gần gũi hơn bất kỳ cặp chị em nào khác, vì là một cặp song sinh. Thực ra, chúng chia sẻ ngôn ngữ chung rất đặc biệt, một kiểu giao tiếp song sinh khó hiểu.
Yuri áp chặt điện thoại vào tai, ngờ rằng có điều gì đó xấu hơn đang xảy ra, rằng những thế lực – có thể là một bàn tay vô danh nào đó – đang thao túng mọi sự.
Nhưng đó là ai?
Savina quát lên trong điện thoại, lôi ông trở về với thực tại. “Tìm cho ra cô bé,” bà ra lệnh. “Trước khi quá trễ. Ông biết là hai ngày tới có thể xảy ra chuyện gì rồi đó.”
Hiển nhiên Yuri biết quá rõ điều đó. Chuyện mà họ đã làm qua mấy thập niên hòng đạt được mục đích, cũng là lý do cho việc thực hiện quá nhiều hành động tội ác. Tất cả chỉ nhằm…
Một cánh cửa đóng sập bên hồng. Yuri xoay người lại. Viên trưởng phòng an ninh của vườn thú đã trở về. Khuôn mặt rám nắng có vẻ khắc khổ, hiện rõ ưu tư và lo lắng.
Yuri nói vào điện thoại. “Tôi sẽ tìm ra cô bé,” ông quả quyết, nhưng dường như ông đang hứa với chính mình, không phải với vị chỉ huy lạnh lùng, ông nhấn phím tắt rồi quay sang người đàn ông cao lớn, nói bằng tiếng Anh. “Có dấu vết gì của cháu gái tôi không?” dấu vết gì của cháu gái tôi không?”
“Tôi e là không, chúng tôi đã rà soát hết công viên. Tới giờ này vẫn chưa có dấu hiệu gì.”
Yuri cảm thấy ruột gan ông thắt lại.
Một thoáng do dự trong giọng nói của viên an ninh. “Nhưng tôi phải báo cho ông biết. Có thông tin nói rằng một cô bé hình dáng giống như cháu gái ông đã bị bắt lên xe tải gần lối ra phía Nam.”
Yuri đứng bật dậy, mắt ông mở to.
Một bàn tay giơ lên để lấy lại bình tĩnh, “cảnh sát thành phố D.c. đang theo dõi vụ này. Có thể đó là một nhầm lẫn. Chúng tôi không làm được gì khác.”
“Phải có gì khác hơn chứ.”
“Tôi xin lỗi. Trên đường về lại đây, tôi được thông báo là ai đó ở F.B.I đã cử đến một đội hộ tống. Họ sẽ đến đây ngay. Họ sẽ đưa ông về khách sạn.”
Yuri lờ mờ rằng có bàn tay Mapplethorpe nhúng vào vụ dàn xếp sau cùng, “cảm ơn anh. Vì đã trợ giúp.” Yuri bước tới cánh cửa, với lấy tay nắm. “Tôi… tôi cần chút không khí trong lành.”
“Tất nhiên rồi. Có một ghế dài ở bên ngoài.”
Yuri ra khỏi phòng an ninh, ông thấy chiếc ghế dài, tiến lại gần, nhưng vừa ra khỏi tầm nhìn cửa sổ văn phòng, ông tiếp tục đi tới, sải chân đến lối ra công viên.
Yuri không thể nào tự dấn thân vào vòng kiểm soát của Mapplethorpe. Ngay cả lúc này. Kẻ ngu ngốc ấy chỉ biết được một phần rất nhỏ những gì đang diễn ra, đủ để các tổ chức tình báo Hoa Kỳ không mất hứng thú. Họ chẳng mảy may nghi ngờ thế giới sẽ đổi thay ra sao chỉ trong vài ngày tới.
Ông phải tìm ra Sasha trước khi Mapplethorpe làm điều đó.
Và chỉ còn cách duy nhất.
Ra khỏi công viên qua một bốt cảnh sát, ông nhấn số gọi, điện thoại được mã hóa lần nữa. Có tiếng trả lời lập tức như lần trước, nhưng lần này là trả lời tự động.
“Bạn đang gọi đến tổng đài trung tâm Tập đoàn Argo. Vui lòng để lại lời nhắn…”
Tập đoàn Argo là vỏ bọc cho Nhà JASON. Biệt hiệu Argo được chọn bởi đó là tên gọi con tàu của Jason trong thần thoại Hy Lạp.
Yuri lắc đầu, vì chính sự xuẩn ngốc lúc ông đứng đó chờ đợi tiếng bíp vang lên trong điện thoại. Ông đã sát hại một thành viên thuộc tổ chức chỉ cách đây vài tiếng đồng hồ. Giờ ông lại cần bè đảng bí mật của các nhà khoa học Mỹ giúp sức. Và ông biết phải làm cách nào. Trở lại với chiến tranh lạnh, hai phe đã tiến hành một cuộc đấu tranh ngầm cho thế mạnh công nghệ, mỗi bên được hỗ trợ bởi những tổ chức quân sự và lực lượng tình báo tương ứng. Phương tiện chiến tranh không chỉ bao gồm trí óc mà còn hàng loạt những hình thức liên đới bất chính: phá hoại ngầm, áp bức, tống tiền.
Tương tự như vậy. Chỉ có điều họ là những con người làm công tác khoa học. Mỗi bên hoạt động độc lập trong quân đội. Qua nhiều thập kỉ, họ nhận ra hai sự thật: hiếm khi giữa hai bên có chỗ đứng chung, và quan trọng hơn cả, đó là: tôn tại một lằn ranh vững chắc mà không bên nào được phép vượt qua.
Khi bối cảnh như thế phát sinh, một phương thức giao tiếp được thiết lập: nút báo động khẩn. Yuri đọc qua điện thoại số di động đã được mã hóa của ông, kèm theo đó là một mật mã gắn với thời kì chiến tranh lạnh.
Pandora.
8:38 P.M.
Khói cuộn vào hội trường của phòng trưng bày lá cờ Star-Spangled.
Gary tập trung nhóm của ông tại tiền sảnh khuất xa trung tâm chính của bảo tàng. Họ trùm những bộ quần áo bảo hộ của thợ sơn lên trang phục đang mặc và che mặt với mặt nạ phònghơi độc.
Gray cũng đã vẩy đầy sơn lên quần áo của cả ba.
Ông dựa vào tường và ngoái nhìn căn phòng trưng bày lácờ. Khói như thiêu đốt đôi mắt ông, nhưng ông cũng thấy ngọn lửa đang nhảy múa và bắt đầu lan rộng trên lớp sơn mỏng mà ông đã đổ trên sàn gỗ của bảo tàng.
Một lúc sau, vòi phun nước tham gia cứu hỏa. Nước phunnhư thác từ những vòi cứu hỏa trên trần. Chuông báo động vang lên ầm ĩ.
Gray dừng lại một chút để chắc chắn rằng các lông trưng bày bằng thủy tinh vẫn đóng kín giữ cho các lá cờ khô ráo. Ông biết các lồng trưng bày là một khoang điều hòa nhằm tạo một môi trường bảo quả tối đa các hiện vật cho thế hệ mai sau chiêm ngưỡng. Bây giờ, chiếc hộp đang bảo vệ lá cờ khỏi khói và nước.
Hài lòng với kho báu đã được an toàn, Gray chuyển sự chú ý của mình đến hội trường chính. Tiếng la hét và tiếng kêu đầyhoảng sợ vang vọng trong làn khói của những công nhân. Bộ phận thi công đã truyền tai nhau về vụ đe dọa đặt bom.
Và bây giờ lại thêm báo cháy và khói. Gray ló đầu nhìnquanh lối đi ra và lối đi vào hội trường. Các công nhân đã tập trung để thoát ra bằng lối ra duy nhất này, đàn ông và phụ nữđang chèn ép và xô đẩy nhau, kéo theo các dụng cụ và ba lô. Nỗi sợ hãi ngày càng tăng đẩy đám đông dồn về phía cửa ra vào, nơi những người lính có vũ trang đang tiến hành tìm kiếm một cách có hệ thống mỗi người công nhân đi ra, với sự trợ giúp của một cặp chó chăn cừu Đức.
“Đi thôi,” Gray nói.
Ba người gia nhập vào đám đông đang nhốn nháo trong lànkhói và nỗi sợ hãi. Họ tách nhau ra để hạn chế khả năng bị nhận dạng qua lớp áo cải trang và bị nhấn chìm trong đám đông hoảng loạn, giống như bị càn quét bởi một cơn bão biển. Đẩy, xô đẩy, bị đâm, và chen lấn, mắt Gray vẫn để mắt dõi theo hai đồng sự.
Các công nhân sơ tán ngày càng nhiều về phía cửa ra vào. Bất chấp sức ép, những người lính vũ trang vẫn giữ tình hình bên ngoài khá. Vẫn tiếp tục tìm kiếm, nhưng qua loa và nhanh chóng hơn. Những con chó sủa vang và bị dây buộc kéo giật lại, bị kích thích bởi tiếng ồn và sự hỗn độn. Gray kẹp chặt hơn cái túi trênvai anh, ôm lấy phần nặng vào ngực của mình. Nếu cần thiết, ông có thể lao qua rào chắn vũ trang, như một hậu vệ lao về phía khung thành.
Nhìn sang bên, Gray chợt thấy Elizabeth bị dồn đẩy qua một cái cửa và ngã vào vòng tay của một người lính canh. Cô bị lục soát một cách lỗ mãng và thúc giục di chuyển về phía trước. Côđi qua một con chó, nó sủa và bị dây buộc kéo lại, nhưng nó đã không nhận ra mùi của cô. Con chó chỉ bị kích động và mất bình tĩnh trước đám đông. Mùi sơn tươi và mùi khói cũng đã giúp che giấu mùi hương của Elizabeth.
Cô loạng choạng ra khỏi hàng rào cảnh sát và lẩn mình vàobóng hoàng hôn của công viên Mall.
Khuất ở phía bên kia, Kowalski đi lẫn trong dòng người chờ kiểm soát. Hai tay xách hai thùng sơn vừa để ngụy trang, vừadùng làm phương tiện để vẹt mọi người ra khỏi đường đi của mình. Anh chàng bị khám xét. Ngay cả những thùng sơn cũng đã mở ra.
Gary nín thở. Không tốt rồi. Sự hoảng loạn đã không làm gián đoạn việc tìm kiếm nhiều như anh muốn.
Đi qua vòng kiểm tra, Kowalski hối hả đi vào công viên Mall.
Gray bị đẩy ra khỏi cửa và một bàn tay túm ông lại.
“Giơ tay lên!”, một người ra lệnh và những người khác ủng hộ bằng cách chĩa vũ khí vào ngực anh.
Những bàn tay nhanh chóng khám xét ông, từ đầu đến chân. May mắn thay, ông đã cất giấu bao đựng súng và súng vào thùng rác của bảo tàng.
Nhưng vẫn còn…
“Mở túi ra!”
Gray biết không có cách nào chống lại được. Ông bỏ túixuống và mở khóa, lôi ra một thứ duy nhất cất trong đó: một cái máy đánh bóng bằng điện nhỏ, sau đó giũ giũ cái túi để chắc chắn rằng nó trống rỗng. Và Gray được vẫy tay cho qua.
Khi đi ngang qua con chó đang sủa, Gray để ý một người đàn ông đang đứng bên lề, mặc một bộ comple. Không có áochống đạn. Với một tai nghe Bluetooth gắn trên tai, ông quát tháo ra lệnh, rõ ràng là người phụ trách.
Gray cũng nhớ đã nhìn thấy ông ta tại khu xếp dỡ của bảo tàng lịch sử tự nhiên.
Đi ngang qua ông ta, Gray nhìn thấy bảng tên gắn trên túi áo khoác.
D.I.A. Cơ quan Tình báo Quốc phòng.
Có cái tên in đậm: MAPPLETHORPE.
Để tránh bị bắt gặp, Gray tiếp tục bước qua công viên Mall, ông thận trọng hòa vào dòng người vừa rời xa bảo tàng và đám đồng hỗn độn, chỉ có một bộ ba công nhân đang tụ tập lại. Ông điều chỉnh chiếc micrô vô tuyến gắn bên dưới hàm, cố gắng bắt liên lạc với sở chỉ huy Sigma.
Cuối cùng, một giọng nói quen thuộc cũng cất lên.
“Gray! Anh đang ở đâu?”
Đó là Painter Crowe.
“Không có thời gian giải thích,” Gray đáp. “Tôi cần một chiếc xe không truy dấu được tại góc đường số 14 và đại lộ Constitution.”
“Sẽ có ngay.”
Trên đường đến điểm hẹn, Gray với tay về phía Kowalski.
Anh chàng cao lớn chuyển cho ông một thùng sơn. “Mang theo cái thứ này làm tôi sởn cả gáy.”
Gray đỡ lấy cái thùng, lòng nhẹ nhõm. Chiếc đầu lâu kỳ lạ chìm dưới đáy thùng sơn. Gray đoán biết rằng sẽ không ai kiểm tra tận đáy thùng sơn đặc, nhất là trên tay một công nhân mặc đồ bảo hộ nhầy nhụa mấy vệt sơn cùng loại. Cho đến lúc cái đầu lâu được chùi rửa, có khi họ sẽ tìm ra vài câu trả lời.
“Chúng ta thoát rồi,” giọng Elizabeth khẽ ngân lên chút khuây khỏa.
Gray không đáp lại.
Ông biết kết thúc vẫn còn xa vời.
 
Đã nửa vòng trái đất, người đàn ông tỉnh dậy trong căn phòng tối, không một cánh cửa sổ. Chút ánh sáng nhỏ nhoi rọi lại từ mớ thiết bị máy móc đặt cạnh, ông nhận ra có nhịp đập và tiếng chớp nháy trên màn hình điện tâm đồ. Mũi ông hít phải một luồng hơi của thuốc khử trùng và iốt. Choáng váng, ông ngồi bật dậy. Vài vệt sáng lướt qua giống như hình con cá lao vút đi giữa biển đêm.
Hình ảnh khuấy động một thứ gì đó bị chôn vùi. Một ký ức…. ánh sáng trong làn nước tối đen…
Ông gắng sức ngồi dậy nhưng hai khuỷu tay bị buộc vào thành giường. Giường bệnh viện, ông thậm chí không thể nào nhấc tay ra khỏi tấm trải. Đuối sức, ông nằm xuống.
Mình vừa trải qua một vụ tai nạn hay sao?
Vừa lấy lại hơi thở, ông chợt có cảm giác nhồn nhột như ai đó đang theo dõi. Xoay đầu lại, ông mơ hồ định hình ra khung cửa chính. Một bóng đen đảo qua đảo lại ở lối vào. Tiếng giày chà trên nền gạch. Sau đó là tiếng thì thầm to nhỏ. Bằng một ngôn ngữ khác lạ. Tiếng Nga, ông nhận ra âm thanh ấy.
“Ai đó?” Ông cất giọng khàn khàn, cổ họng ông như thiêu đốt, như vừa uống phải axit.
Không động tĩnh. Bóng tối vẫn chết lặng.
Ông nín thở chờ đợi.
Có ánh đèn loang loáng phía cửa ra vào, chói lòa, khiến ông đau mắt. Ông cố gượng bàn tay để che mắt lại theo bản năng, quên mất là chúng đã bị buộc vào thành giường.
Ông chớp mắt né tránh. Ánh sáng phát ra từ một cây đèn gọn như chiếc bút máy. Đủ để hiện rõ ba hình dáng nhỏ bé đang lẻn vào phòng ông. Chúng là những đứa trẻ. Một cậu bé – cỡ độ mười hai hay mười ba – đang cầm đèn đứng che một bé gái kém chừng một hai tuổi. Theo sau là chú bé nhỏ nhắn không quá tám tuổi. Chúng tiến đến bên giường ông, rón rén như lại gần hang sư tử.
Cậu bé cao nhất, có vẻ là đứa dẫn đầu, quay ngoắt về phía đứa nhỏ. Cậu bé thì thầm bằng tiếng Nga, rất khó hiểu nhưng rõ ràng là đang yêu cầu điều gì. Cậu bé gọi đứa trẻ nhỏ hơn bằng một cái tên. Nghe như là Peter. Đứa trẻ gật đầu, chỉ vào giường rồi lẩm nhẩm bằng tiếng Nga, lời nói tỏ ra rất chắc chắn.
Cựa quậy trên giường một lúc ông mới thốt ra thành lời, “Các cháu là ai? Các cháu cần gì?”
Cậu lớn nhìn ông trừng trừng ra điều phải im lặng rồi hướng về cánh cửa còn để ngỏ. Ba đứa trẻ tản ra và vây quanh giường, cậu lớn cùng cô bé gái bắt đầu gỡ đai buộc trên chân tay ông. Cậu nhỏ hơn lùi lại, mắt mở to. Giống như các bạn mình, đứa trẻ mặc chiếc quần thụng, áo len cổ rùa màu xám đậm, áo gi-lê bên ngoài kết hợp với chiếc mũ đan viền xoắn, cậu bé nhìn ông chằm chặp như thể đọc được điều gì từ trên trắn ông, khiến ông lo lắng.
Hai cánh tay đã được tự do, ông ngồi dậy. Căn phòng lại trở nên chao đảo nhưng không tệ như trước. Ông đặt tay lên đầu cố gắng lấy lại cân bằng. Dưới lòng bàn tay, ông thấy da đầu mình nhẵn thín và một đường chỉ khâu đau nhói sau tai trái, củng cố cho phỏng đoán của ông. Phải chăng tóc ông bị cạo để chuẩn bị cho phẫu thuật? Nhưng khi lòng bàn tay lướt qua đỉnh đầu trơn láng, lại có cảm giác gì đó rất thân thuộc, tự nhiên.
Trước khi cân nhắc điều mâu thuẫn ấy, ông nhìn vào bàn tay kia. Đúng hơn là cố gắng nhìn. Cánh tay ấy chỉ kéo dài đến cổ tay. Tim ông đập thình thịch vì hoang mang. Tai nạn khủng khiếp nào đó đã xảy ra với ông. Bàn tay còn lại lần mò chạm vào đường chỉ khâu mỏng manh phía sau tai như đang cố gắng đọc một hàng chữ nổi. Rõ ràng là mới phẫu thuật. Nhưng cổ tay ông lại chai cứng và đã lành từ lâu. Ông hầu như vẫn có thể cảm nhận được những ngón tay bị mất. Cảm thấy chúng cuộn lại thành một nắm đấm ma quái vô tác dụng.
Cậu bé lớn lùi khỏi giường. “Đi thôi,” cậu nói bằng tiếng Anh.
Ông cảm thấy có mùi hiểm nguy đâu đây khi những đứa trẻ bí mật giải thoát cho ông, chúng hành động một cách lén lút. Ông xoay chân chạm xuống nền gạch lạnh lẽo, trên mình khoác chiếc áo choàng mỏng của bệnh viện. Căng phòng nghiêng ngả chuyển động.
Oa…
Tiếng rên khẽ như buồn nôn phát ra.
“Nhanh lên,” cậu bé lớn thúc giục.
“Đợi đã,” dứt lời, ông nuốt không khí vào để dạ dày lắng xuống. “Nói bác biết chuyện gì đang xảy ra?”
“Không đủ thời gian.” cậu bé lớn bước đi, chân tay dài lêu nghêu, cậu bé cố gắng thể hiện quyền kiểm soát nhưng chất giọng bị vỡ đã che giấu cả sức sống và nỗi khiếp sợ trong con người cậu. cậu đặt tay lên ngực, tự giới thiệu mình. “Menia zavut Konstantin. Bác phải đi. Trước khi quá muộn.”
“Nhưng bác… bác không…”
“Bác đang bối rối. Giờ thì zavut của bác là Monk Kokkalis.”
Ông lắc đầu, thốt ra âm thanh có đôi chút nhạo báng. Monk Kokkalis. Cái tên chẳng hề có ý nghĩa đối với ông. Khi cố gắng lên tiếng phản ứng để cậu bé chỉnh sửa nhầm lẫn, ông chợt nhận ra không có lý lẽ nào trong đầu, chỉ là một khoảng trống, ngay cả với tên ông. Tim ông thắt chặt thành một mối tơ vò. Nỗi kinh hoàng đã khiến mọi sự trước mắt ông khép lại. Làm sao có thể như thế được? Ông lại sờ vào đường chỉ khâu. Ông đã bị đánh vào đầu chăng? Một chấn động? Ông lục tìm bất cứ ký ức nào còn tôn tại trước lúc thức dậy ở nơi đây, trong căn phòng này, nhưng vẫn vô ích, chỉ là một hoang mạc khô cằn.
Chuyện gì đã xảy ra?
Ông nhìn xoáy vào màn hình điện tâm đồ nối những cọng dây bọc chì vẫn còn băng trên ngực. Ngay góc phía trên là một máy đo áp suất máu và cột truyền dịch. Nếu ông có thể gọi tên mọi thứ xung quanh, tại sao lại không thể nhớ nổi tên mình?Ông cố gắng kiếm tìm một sự kiện đã qua, một thứ gì đó níu giữ ông lại. Nhưng vẫn không có ký ức nào hiện về kể từ lúc ông thức dậy trong căn phòng tối.
Cậu bé nhỏ tuổi dường như cảm nhận được nỗi đau đớn đang lớn dần trong ông. Cậu bé bước tới, đôi mắt xanh lam hiện rõ dưới ánh đèn pin. Monk – nếu đây thật sự là tên ông – có cảm giác cậu bé còn biết nhiều điều về ông hơn chính bản thân ông. Để minh chứng điều này, cậu bé cất lên một từ duy nhất khiến ông lay động, khiến ông hiểu rằng cậu bé đang đọc thấu trái tim ông.
Cậu bé giơ bàn tay nhỏ bé về phía ông, những ngón tay xòe ra, khẩn khoản. “Cứu chúng cháu!”

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.