Nhà Tiên Tri Cuối Cùng

CHƯƠNG 9: NGÀY 6 THÁNG 9, 01:01 PM PHÍA NAM DÃY URAL



Người đàn ông vạm vỡ đẩy Pyotr xuống bờ sông dốc đứng lúc con gấu tấn công. Cậu bé ngã nhào, hai tay duỗi thẳng lăn mình trên mặt dốc. Cành cây đâm vào người cậu, gò má bị trầy xước. Pyotr lộn vòng, túm lấy mấy cây dương xỉ ướt nhẹp mọc giữa nền đất trơn trượt đầy lá thông. Cậu bé không biết bơi. Nước khiến cậu hoảng sợ.
Ai đó thét lên, xé ngang tiếng gầm của con gấu.
Là những người bạn cậu.
Konstantin và Kiska.
Đầu gối Pyotr va phải đá, sống lưng đau nhói. Cậu bé nằm sóng soài mé bờ sông. Nước tràn lên mũi.
Làn nước đục ngầu phản chiếu thân hình cậu bé đang co rúm lại. Có tiếng quẫy đạp dưới ánh mặt trời lấp lánh, như thể một cơn gió mạnh vừa khuấy động những nhành cây nhấp nhô trên mặt nước.
Pyotr vẫn cảm thấy kinh hoàng trong khoảnh khắc mơ hồ ấy, lơ lửng giữa bóng tối và làn nước chói lòa.
Không có hình ảnh nào về con gấu nâu xuất hiện trong đầu Pyotr cho đến khi nó sừng sững trước mắt. Trái tim run sợ của nó đã bị che lấp bởi những kẻ đang sục sôi kiếm tìm, cả nhịp đập đều đặn cũng bị phủ mờ bởi tiếng còi báo động đinh tai phía sau lưng.
Nhưng nỗi hoảng sợ vẫn không ngừng tăng.
Không phải bởi dòng nước.
Không phải bởi con gấu khổng lồ.
Ánh sáng lẫn bóng tối cứ cuồn cuộn trước mắt cậu bé. Váng dầu nổi trong nước.
Không phải con gấu.
Không phải là gấu.
Cậu bé thở hổn hển khiếp đảm. Gấu không phải mối nguy hiểm. Thứ gì đó khác…
1:02 chiều
Monk cầm chặt ba lô trên tay, vũ khí duy nhất lúc này để đối phó với con gấu đang bổ nhào vào người ông. Ông vừa đẩy Pyotr xuống mé sông, đưa hai đứa trẻ khác núp vào bụi cây bên kia. Marta nắm lấy một nhánh cây thấp rồi quăng mình về phía Pyotr.
Monk hét lên rồi xoay tròn chiếc ba lô trên không trung.
Con gấu lao thẳng đến ông. Monk ném mạnh ba lô, nhảy sang một bên. Đã quá trễ. Con gấu đâm bổ vào chân Monk như một con tàu chở hàng, vừa đúng lúc ông tung mình né tránh. Chiếc ba lô văng ra từ tấm vai phủ đầy lông của nó, chẳng hề hấn gì.
Monk bị ném bật vào một cây thông rụng lá, rơi xuống gốc cây. Sau màn hạ gục chớp nhoáng, ông thở hển, cố gắng co chân lại, hai tay vươn cao che lấy đầu và mặt.
Nhưng con gấu bất ngờ lướt qua ông, hướng về phía con đường có dấu chân hươu.
Monk lộn vòng trở lại đường mòn. Cách đó hơn ba mươi mét, hai bóng mờ đang ẩn nấp khiến con gấu chú ý. Hai con chó sói to lớn, chân dài lênh khênh đang gầm gừ. Một cú tát bằng móng vuốt khổng lồ đánh bay một con sói, kết liễu nó. Con sói còn lại nhảy chồm lên cổ con gấu nhưng chỉ nhận được cú đớp từ hàm răng vàng khè trong cơn thịnh nộ đang sục sôi. Con sói tru lên nhưng vẫn tiếp tục chiến đấu.
Monk nhận thấy có mảnh thép gắn trên đầu hai con sói. Những kẻ đi săn từ thành phố ngầm. Những tên do thám. Hẳn vẫn còn lảng vảng quanh đây.
Monk vội vã kéo Konstantin và Kiska lại gần. Marta cũng xuất hiện với Pyotr trên lưng. Monk ôm lấy cậu bé và ra lệnh.
“Chạy thôi!” Giọng ông yếu ớt.
Họ cùng nhau lên đường. Nếu có kẻ săn lùng nào khác trên con đường mòn phía sau, chúng sẽ phải vượt qua con gấu trước tiên. Một lá chắn không quá tệ.
Monk ngoảnh đầu lại nhìn, trận chiến vẫn tiếp tục giữa những tiếng gầm và hú. Con gấu phản ứng bằng đòn tấn công chí tử và chớp nhoáng, thể hiện rõ thái độ thù địch bên trong cơn giận dữ điên cuồng. Phải chăng trước đây con gấu từng tấn công lũ sói? Có khi nào binh lính thường vào rừng đi săn cùng với sói? Hoặc lý do cơ bản hơn, đó là phản ứng đương đầu vì sự sinh tồn. Cũng giống như khi một con sư tử mẹ nhanh chóng tiêu diệt con non dị dạng.
Dù thế nào đi nữa, việc này cũng đã khiến Monk và lũ trẻ chậm trễ.
Còn phải mất bao lâu?
2:28 chiều
Thành phố Agra, Ấn Độ
Gray tập hợp mọi người dưới sàn nhà đầy mảnh vụn. Không có mục tiêu rõ ràng, loạt đạn kế tiếp chỉ còn là những tiếng nổ dọa dẫm, buộc họ phải nép sát mặt đất.
Gray cúi rạp người, hướng ra cửa thoát hiểm. Lối cầu thang rộng mở ngay cạnh thang máy. Họ không dám dùng thang máy. Kẻ nào sắp xếp vụ phục kích này chắc hẳn đã cho người theo dõi ở sảnh khách sạn, lối ra vào chính và bên trong thang máy. Nhấn nút thang máy chỉ có tác dụng tiếp tay cho những tên chốt chặn phía dưới. Họ bị giăng bẫy. Hy vọng duy nhất là lối thang bộ sẽ dẫn đến các tầng khác của khách sạn, cả nhóm rồi sẽ tụ họp lại ở một phòng nào đó.
Sàn nhà xoay chuyển khiến cho việc di chuyển đến cầu thang trở nên chật vật, nhưng Gray hiểu rằng điều đó đã cứu Tiến sĩ Masterson thoát chết. Viên đạn đầu tiên nhằm vào phía sau hộp sọ của vị giáo sư. Chính chuyển động của sàn nhà đã phá hỏng mục tiêu của tên bắn tỉa, biến phát súng chí tử thành ra một vết thương nhẹ.
Gray cần lấy được một chút lòng tin từ phía người đàn ông này. Sau cú sốc ban đầu, ông ta khó lòng thốt ra được lời nào. Gray ấn một chiếc khăn ăn lên tai vị giáo sư lúc này đã ướt đẫm máu. Không biết tự lúc nào ông ta với được chiếc mũ tráng và đội xéo lên đầu. Rosauro vẫn ở bên cạnh ông, mang theo cây gậy chuôi ngà.
Gray cùng Elizbeth tiến đến khu vực tiền sảnh cố định của nhà hàng, bám sát phía sau là Rosauro và Masterson. “Cầu thang,” Gray lên tiếng.
“Theo lối đó.”
Rosauro lao qua tiền sảnh chỉ bằng hai bước dài, cúi thấp người dưới cánh cửa như một vận động viên bóng chày. Bà nhẹ nhàng trượt khẩu bán tự động Sig Sauer ra khỏi bao súng dưới gót chân. Quỳ dưới sàn, bà nhỏm người giật mạnh tay nắm rồi dùng vai đẩy cửa, hé ra một khoảng nhỏ đủ để che khẩu súng và qua…
Cầu thang.
Lập tức Gray nghe thấy tiếng động. Tiếng giày ống nện vào nền gạch. Khá nhiều.
“Bảy đến mười tên,” Rosauro nhận định.
Đã quá trễ.
“Cản chúng lại,” Gray ra lệnh rồi lăn qua cửa thang máy.
Elizabeth định bấm nút gọi thang nhưng Gray đã kịp thời cản lại. Con số hiển thị trên cánh cửa cho biết lồng thang máy vẫn nằm ở tiền sảnh. Chắc chắn có người theo dõi.
Gray lẻn qua khu phục vụ của nhà hàng, tìm một con dao chặt thịt và ôm gọn xấp khăn trải bàn đã gấp. Ông quay lại thang máy, lách con dao vào giữa hai cánh cửa. Lưỡi dao nạy được một khoảng đủ rộng cho ngón tay và mũi giày của ông len vào. Bằng lực kéo, ông đẩy cánh cửa bật mở.
Cùng lúc đó, một tiếng nổ giòn từ khẩu súng lục vang lên – sau đó là tiếng hét vì đau đớn và kinh hoảng phía cầu thang. Một phát đạn cảnh cáo lại tiếp tục. Nhưng Rosauro ở vị trí cao hơn. Gray không rõ lợi thế này sẽ giữ được bao lâu. Nếu chúng kéo đến vị trí của bà, bà sẽ khuất tầm nhìn.
Phải di chuyển thật nhanh.
Ống thông thang máy tối đen như mực. Hai sợi dây cáp đầy dầu nhớt đung đưa. Một bên gắn thang bảo dưỡng bằng kim loại.
Họ không còn thời gian để leo lên đó.
Gray chuyền khăn trải bàn cho Masterson và Elizabeth. Ông chỉ họ buộc khăn giữa hai bàn tay. “Chỉ mất một đoạn ngắn thôi,” ông trấn an cả hai và chỉ vào dây cáp. “Giữ thật chặt và dùng giày để thắng lại. Cố gắng đừng gây ồn lúc mọi người chạm phải cái lồng bên dưới. Đợi chúng tôi ở đó.”
Ông nhận được cái gật đầu đầy lo lắng từ Elizabeth và ánh mắt chẳng mấy hài lòng của Masterson. Nhưng tiếng súng không cổ vũ cho những bất đồng. Elizabeth đẩy người về phía trước. Cô bám lấy sợi cáp bằng hai bàn tay bọc kĩ rồi nhảy lên. Khẽ rên vì sợ hãi, cô trượt xuống ống thông.
Không còn thấy bóng dáng cô trong nền tối, Masterson theo sau, cây gậy vẫn kẹp chặt dưới thắt lưng, trông như một thanh kiếm đã tra vào vỏ. Người ông khá dài, chỉ cần vươn tay về phía trước là chạm vào sợi cáp.
Ông từ từ tuột xuống.
“Đi thôi!” Rosauro thúc giục. Bà không xoay người lại mà bắn thêm hai phát. “Tôi sẽ theo sau ông.”
“Chốt chặn thang máy!”
“Đi đi, Pierce!”
Gray biết tốt hơn hết là không tranh cãi với phụ nữ… đặc biệt là người mang súng, ông buộc khăn vào tay, nhảy bám lên sợi cáp. Ông trượt xuống, không quên gọi vọng lại hối thúc Rosauro.
Chưa dứt lời, bóng đen ngược sáng của bà đã xuất hiện ở mép cửa. Bà đảo người bám vào thang bảo trì, giật mạnh chốt phía trong, cửa thang máy đóng lại. Bóng tối ôm trọn lấy Gray lúc ông thấy dây cáp rung lên khi Rosauro bám theo.
Mắt Gray mau chóng làm quen với màn tối. Ánh sáng yếu ớt lọt qua khe cửa ở mỗi tầng, ông đếm ngược từng tầng một, cho đến khi nhận ra bóng của lồng thang máy bên dưới. Có hai người đang tụm lại một góc.
Ánh lửa lập lòe.
Từ chiếc bật lửa của Elizabeth.
Gray thẳng người lại, nhẹ nhàng đáp xuống nóc thang máy.
Một lát sau, Rosauro cũng tuột xuống ngay cạnh ông.
Gray tìm thấy cửa sập dành cho hoạt động bảo trì. Ông rút vũ khí và mở hé nắp quan sát. Lồng thang máy bên dưới trống rỗng, cửa đóng kín. ông ra hiệu cho mọi người ở yên trên nóc.
Một tay bám vào cạnh cửa, Gray thả người rơi xuống, gập mình nhẹ nhàng, vũ khí trên tay sẵn sàng, ông chạm vào nút mở cửa. Những tiếng hét hoảng loạn từ phía tiền sảnh. Loạt súng nổ đã biến cái khách sạn thanh bình thành một tổ ong.
Không đến nỗi tệ.
Mớ hỗn độn có khi lại giúp ích cho họ.
Gray nhấn nút, cửa thang máy trượt mở. Ông nhanh chóng lao ra ngoài khoảng trống và né về bên trái, nơi có chậu cọ kiểng cao ngang hông.
Cả tiền sảnh lúc nhúc người. Ban quản lý khách sạn la ó bằng cả tiếng Hindi lẫn tiếng Anh.
Dịch chuyển vài bước, Gray lập tức nhận ra hai nhân vật trông rất điềm tĩnh, mặc áo khoác dù tiết trời oi bức. Hai tay nhét vào túi áo. Ông thấy có cả tai nghe liên lạc.
Chúng cũng bắt đầu để mắt đến ông.
Nhưng sự xuất hiện đột ngột chẳng hề mong đợi đã khiến chúng không cảnh giác. Mặc cho đám đông, Gray không còn lựa chọn nào khác là phản ứng thật nhanh. Một cuộc đọ súng kéo dài cũng chỉ đủ đe dọa thêm vài mạng sống.
Súng đã chĩa qua tầng lá cọ, ông bóp cò hạ gục tên đầu tiên bằng một phát đạn ngay đỉnh đầu. Xoay người trên đầu ngón chân, ông bắn thêm hai phát liên tiếp vì biết mục tiêu không còn ở vị trí cố định. Viên đạn đầu tiên trúng vai tên thứ hai khiến hắn bổ nhào. Viên thứ hai đi xa hơn, ghim chặt vào bờ tường trát thạch cao.
Tay súng bắn trả qua túi áo khoác nhưng Gray đã kịp nằm xuống sàn nhà, thạch cao nát vụn sau lưng ông. Tư thế nằm nghiêng, tay duỗi thẳng, ông tiếp tục nổ súng, chỉ cách sàn nhà khoảng chục xentimét. Mắt cá chân của đối thủ bị bắn nát, hắn đập mặt xuống sàn nhà lát đá cẩm thạch, xương cằm vỡ vụn. Không còn nhúc nhích.
Gray vừa quay qua thang máy thì hai cánh cửa đóng lại.
Những người chứng kiến màn đấu súng ở tiền sảnh chưa kịp hoàn hồn, tản ra các hướng, tiếng la hét, gào thét vang lên khắp nơi.
Gray đập vào nút gọi thang bên ngoài.
Vô ích.
Ông ngước nhìn lên bảng số. Ai đó đã nhấn nút gọi thang.
Nó đang đi lên.
Di chuyển về hướng có tay súng tầng thượng.
Ngồi thu mình trên nóc thang, Elizabeth nghe thấy tiếng ròng rọc bắt đầu quay. Tròng trành, lồng thang máy từ từ dịch chuyển. Ai đó đã nhấn nút gọi.
“Mierda…” tiếng Rosauro rủa thầm bên cạnh.
Elizabeth ngước nhìn lên căn hầm tối tăm dựng đứng. “Ta phải làm gì đây?” Cô hỏi, trên tay vẫn giữ nguyên bật lửa, ánh sáng lập lòe. Cô cảm thấy bất lực, thấy đôi bàn tay đang run rẩy thật đáng ghét.
“Cô ở lại đây,” Rosauro cúi người thổi tắt ngọn lửa. “Trong bóng tối. Không được nói. Không tạo ra âm thanh nào hết.”
Bà lách người qua khe cửa sập rồi rơi xuống thang máy.
“Đóng nắp lại,” bà khẽ nói vọng lên. “Nhưng đừng khóa. Chỉ là đề phòng.”
Đề phòng điều gì?
Elizabeth vẫn làm đúng lời bà dặn. Cô khép cửa sập gần khít lại, chỉ còn đủ hở để ngón út lọt qua. Hình ảnh cuối cùng về Rosauro là vũ khí trên tay bà đã sẵn sàng.
Cố nén tiếng chửi thề vì vuột mất thang máy, Gray chạy lên cầu thang. Ông xô vài người trên đường đi, băng qua một đám túm tụm lại dưới sàn, tay ôm lấy đầu. Ông leo ba bậc một lúc, cứ chạy đua như thế, chỉ tạm dừng để chắc chắn thang chưa ngừng lại. Nếu lên trước một tầng và nhấn nút gọi, ông có thể chặn thang máy trước khi nó kịp đến tầng thượng.
Bỏ lỡ cơ hội ở tầng thứ hai, Gray tiếp tục chạy nước rút.
Có tiếng la hét lạc giọng ở phía trên, khá lỗ mãng. Có vẻ như bọn đột kích đang quay lại. Gray xông thẳng vào tầng ba để kiểm tra lối thang máy, suýt chạm phải tường – đúng hơn là một nhân vật lù lù đứng đó.
Kowalski ở ngay cửa thang máy, một tay nhấn nút gọi.
“Gray!” Anh chàng xoa bụng ngạc nhiên. “Trời đất, chuyện quái gì vậy?”
Chuông đổ, thang máy bật mở.
Rosauro nhảy ra ngoài, súng chĩa trước mặt Kowalski.
“Ơ này!” Anh chàng bổ ngửa ra sau.
“Anh gọi thang máy à?” Gray hỏiđể xác nhận.
“Phải, tôi định lên nhà hàng xem thử cái gì gây ra chấn động vừa rồi.”
Gray không hiểu nổi cái gì đã trong đầu Kowalski: tính ù lì hay lười biếng.
“Mọi người ra ngoài!” Gray hét lên.
Rosauro đã trong tư thế sẵn sàng giúp Elizabeth và Masterson chui xuống nắp sập. Gray dẫn họ quay trở lại cầu thang. Kowalski hỗ trợ phía sau.
Rosauro sát cánh bên ông lúc họ rút xuống cầu thang. “Tôi nghe chúng nói tiếng Anh. Không phải giọng Anh. Giọng Mỹ.”
Gray gật đầu.
Ông vẫn còn nhớ người đứng ngoài Bảo tàng Lịch sử Mỹ. Phù hiệu mang tên Cơ quan Tình báo Quốc phòng. Mapplethorpe. Có kẻ nào đó biết họ ở đây.
Cả nhóm tiến về sảnh chờ lúc này đã vắng vẻ. Gray thúc giục mọi người, nhưng chưa kịp ra đến cửa thì một nhân vật khác xuất hiện. Hắn mang trên vai khẩu súng trường tấn công M4. Sau lưng còn một nòng M24 cỡ dài, khớp với tầm đạn của tên bắn tỉa.
Đó chính là tay súng ở trên tầng thượng kế cận.
Nòng súng chĩa vào mũi Materson.
Hắn không có ý định bắn trượt lần này.
Đầu của tay súng bỗng bật về phía sau, hẳn khuỵu xuống như một con rối đứt dây, mặt úp xuống đất đánh cạch một tiếng. Ngay sau ót, thò ra chuôi con dao găm bằng thép sáng bóng.
Luca đứng bên tháp nước đằng xa. Một con dao găm khác vẫn lăm lăm trên tay ông. Gray đá khẩu súng trường sang một bên, Kowalski tóm lấy. Luca nhanh chóng lại gần, rút mạnh con dao găm.
“Cảm ơn ông,” Gray lên tiếng.
“Tôi đang ở ngoài hút thuốc thì nghe tiếng súng nổ,” Luca giải thích, chỉ tay về phía khoảng sân. “Nhận ra kẻ bắn tỉa bên kia đường. Tôi đến đó. Tôi đang lên thì hắn đi xuống, nên tôi nấp rồi lén theo hắn trở lại đây.”
Gray vỗ vai tỏ ý biết ơn người đàn ông Gypsy. Ông ta đã cứu sống hết thảy năm mạng người. Gray chỉ ra cửa. “Mọi người đi thôi. Phải thoát khỏi thành phố này. Thật nhanh.”
Họ vội vã lao về phía đường cái.
“Nhanh cũng có cái khó của nó,” Kowalski than thở. Anh chàng đứng lại, một tay chống hông, giấu đi một nửa khẩu súng trường mũi hếch dưới vạt áo khoác.
Gray ngược xuôi quan sát, dọc theo con phố kế cận cung cấp đủ mọi dịch vụ. Hướng nào cũng đầy rẫy taxi, xe kéo, xe hàng, xe tải lẫn xe hơi.
Tất cả đều đứng im. Không nhúc nhích.
Khúc hòa âm của kèn và nhạc vang lên inh ỏi, đan xen giữa tiếng hát và tiếng đồng ca. Một lễ hội tưng bừng trên đường phố. Âm thanh náo nhiệt ấy không đủ che giấu hết mớ hỗn độn trong khách sạn.
Gray nghe tiếng còi báo động hụ vang từ xa. Cảnh sát thành phố. Đã phát hiện ra cuộc đọ súng, ông cũng nghe thấy những tiếng hét vọng lên từ tiền sảnh. Nhóm đột kích đã xuống tới nơi.
Rosauro quay sang nhìn ông. “Chúng ta làm gì?”
Tiếng động cơ mô tô cắt ngang lời bà. Gray xoay người lại. Phía bên trái, cách đó vài dãy phố, ba chiếc mô tô màu đen lượn lách giữa đám đông ách tắc. Rất nhanh, rất hung hăng. Chúng lao thẳng vào người qua đường, buộc họ phải nép về một bên. Ba chiếc xe tăng tốc hướng đến khách sạn. Mỗi tay lái mang theo một khẩu súng trường. Lại thêm mấy tên biệt kích.
Gray kéo mọi người đi vào con phố xen kẽ những cửa hàng dịch vụ, thoát khỏi tầm nhìn, ông quay sang Masterson, giật lấy chiếc mũ tráng. “Cả áo khoác nữa,” ông yêu cầu trong lúc mũ đã đội lên đầu.
“Anh định làm gì vậy?” Masterson vừa cởi áo khoác vừa thắc mắc.
“Tên bắn tỉa nhắm vào ông trước tiên, Tiến sĩ Masterson. Ông là mục tiêu chính.”
“Pierce…” Rosauro hiểu ra ý định của ông.
Gray khoác chiếc áo thùng thình lên người. “Tôi sẽ đánh lạc hướng mấy chiếc mô tô,” ông giải thích, một tay chỉ con đường nhộn nhịp, tay còn lại hướng về con phố hẹp. “Bà đưa mọi người theo lối đó. Ta sẽ tập trung ở pháo đài trên đường vào thành phố.”
Mất vài giây ngẫm lại kế hoạch Gray đưa ra, Rosauro nhanh nhẹn gật đầu.
“Tôi đi theo ông,” Kowalski đề nghị.
Anh chàng tiến lên một bước từ chỗ Elizabeth, nâng vũ khí lên. “ông sẽ cần hỗ trợ.”
Rosauro gật đầu tán thành. “Anh ta hỗ trợ anh tốt hơn tôi. Tôi chỉ đủ khả năng bảo vệ thường dân.”
Không còn thời gian tranh luận. Anh chàng có chút võ thuật cộng với khả năng bắn súng. “Đi thôi!” Gray thúc giục.
“Ngài Pierce!”
Gray quay lại. Masterson tung cây gậy về phía ông. Bài cải trang hoàn tất.
“Đừng làm mất nó thôi! Chuôi ngà voi từ thế kỷ mười tám đấy!”
Gray vội vã hòa vào lòng đường, kéo theo Kowalski phía sau. ông vừa chạy vừa giả vờ loạng choạng, vung gậy, hét lên bằng giọng Anh. “Ai đó cứu với! Có kẻ chết tiệt đang cố giết tôi!”
Ông chạy về hướng con đường tổ chức lễ hội, len lỏi giữa những chiếc xe hơi đã cũ, những chiếc xe bò đứng im lìm. Sau lưng họ, ba chiếc mô tô chạy chầm chậm nhát gừng rồi ngừng ngay cổng khách sạn – nhưng chẳng bao lâu lại rú lên đầy hung hãn.
Đuổi theo họ.
Kowalski đắc chí. “Chúng đã dính mồi.”
6:33 sáng, giờ EST
Thủ đô Washington, D.c.
Tiếng gõ cửa làm Painter giật mình. Ông đang lơ mơ chợp mắt trên bàn.
Chống hai khuỷu tay lên bàn cho tỉnh ngủ, một tập hồ sơ và kết quả thí nghiệm của Lisa và Malcolm lại hiện ra trước mắt. Trước đó, ông đã khuyên Kat nằm nghỉ ngơi ở một chiếc giường trống trong phòng y tế. Riêng ông thức cả đêm, mặc dù biết bản thân cũng không nên bỏ qua lời khuyên hữu ích ấy.
Ông nhấn nút mở khóa ngay dưới hộc bàn, cánh cửa tự động mở. O6ng nghĩ đó là Lisa hay Malcolm. Ông nhổm người dậy với vẻ ngạc nhiên, khẽ nhấc chân lên.
Một người đàn ông dong dỏng cao, vai rộng, mặc bộ com lê màu xanh. Mái tóc hung đỏ chải gọn về phía sau gần như đã chuyển màu xám ngà.
“Sean?”
Sean McKnight là giám đốc DARP và là cấp trên trực tiếp của Painter. Ông cũng chính là người đã tuyển dụng Painter vào Sigma hơn mười năm về trước, lúc đó Sean còn ngồi ở vị trí của Painter. McKnight là giám đốc đầu tiên ở Sigma, ông nhìn xa trông rộng, từng biến ý tưởng của Polk thành hiện thực. Nhưng quan trọng hơn cả, Sean là một người bạn, một cộng sự tốt.
Ông vẫy tay ra hiệu cho Painter ngồi yên.
“Không phải đứng dậy đón ta đâu, con trai,” ông hóm hỉnh. “Ta không định lấy lại cái ghế đó.”
Painter mỉm cười. Ngày đầu tiên nhậm chức giám đốc, Sean đã gửi cho Painter hẳn một thùng thuốc kháng axit dạ dày. Ông nghĩ đó chỉ là một món quà đùa vui, nhưng vài năm sau đó, Painter đã sử dụng hết cả nửa thùng.
“Sean, tôi có linh cảm công việc của anh không mấy tiến triển.”
“Ngày hôm nay thì không.” Sean ngồi xuống ghế đối diện. “Tôi đã kiểm tra lai lịch người đàn ông Pierce nhìn thấy ngoài bảo tàng. Mapplethorpe. John Mapplethorpe.”
“Vậy đó không phải là căn cước giả như anh ấy nghĩ?”
“Trái lại. Mapplethorpe là một trưởng phòng thuộc Cơ quan Tình báo Quốc phòng. Ông ta có nhiệm vụ giám sát Liên bang Nga và các quốc gia độc lập của Nga.”
Painter nhớ lại đánh giá ban đầu của Malcolm về cái nơi Polk tiếp xúc với nguồn phóng xạ chết người. Chernobyl. Vai trò của Mapplethorp trong vụ này là gì?
“Ông ta có đồng minh lớn trong các cơ quan tình báo,” Sean tiếp lời. “Nổi tiếng vì tàn nhẫn và đường lối thao túng. Ông ta cũng nổi tiếng là kẻ có khả năng làm mọi chuyện để đạt được mục đích. Một con bài chủ lực của Washington.”
“Làm thế nào ông ta lại dính líu đến vụ này?”
“Tôi đã đọc báo cáo cập nhật. Anh biết tất cả về Dự án stargate đã được công khai. Nó kết thúc ra sao giữa những năm 1990.”
“Nhưng nó chưa chấm dứt,” Painter xen ngang. “Những năm cuối, nó mẩt tích ngay trong Cơ quan Tình báo Quốc phòng.”
“Chính xác. Nó biến thành dự án của Mapplethorpe. ông ta bắt đầu tiếp cận từ năm 1996 nhờ có hai nhà khoa học người Nga – họ đang tiến hành phiên bản stargate của Liên bang Xô viết. Họ phụ thuộc nhiều vào các quỹ tài trợ nên đã tìm đến chúng ta. Ta đồng ý giúp đỡ – cũng vì lợi ích đôi bên trong cái trật tự thế giới mới không giới hạn kẻ thù này. Vậy là một nhóm nhỏ các thành viên Nhà Jason được giao nhiệm vụ hợp tác với người Nga. Lúc này toàn bộ dự án bắt đầu đi sâu vào con đường chia rẽ. Tiêu tan. Chỉ một thiểu số biết đến sự tồn tại của nó.”
“Cho đến lúc Archibald chạm vào ngưỡng cửa ấy,” Painter ngậm ngùi.
“Chúng tôi tin là ông ấy đã tìm cách tiếp cận họ. Để lôi bằng chứng ra ánh sáng.”
“Về những tội ác được thực hiện dưới danh nghĩa khoa học.”
“Dưới danh nghĩa an ninh quốc gia,” Sean chỉnh lại lời Painter. “Phải nhớ cho kĩ. Đó là công cụ bôi trơn cho những cái bánh xe ở Washington tiếp tục chạy. Đừng đánh giá thấp Mapplethorpe. Hắn biết cách chơi trò này. Hắn tin mình là một nhà ái quốc thực thụ. Hắn cũng đã đi một quãng đường dài để gầy dựng hình ảnh ấy trong giới tình báo. Ngay tại đây và cả ở nước ngoài.”
Painter lắc đầu.
Sean tiếp tục, “Mapplethorpe đã tập hợp mọi cơ quan tình báo trong nước đề đi tìm cái hộp sọ anh đang nắm giữ. Không khó tưởng tượng nếu CIA 1, FBI 2, NSA 3, NRO 4, ONI 5… xuất hiện. Tôi dám cược là hắn thuê cả mạng lưới gián điệp đã nghỉ hưu tại AARP 6.”
Sean cố nở nụ cười mệt nhọc sau câu nói đùa. “Tôi không thể che giấu mãi vụ này. Archibald bị bắn ngay trước trụ sở của anh. Ông ấy có liên hệ với Nhà Jason, với Sigma, khó lòng mà được bỏ qua. Sau khi chính phủ lên kế hoạch giám sát đối với hoạt động của ta năm ngoái, nhiều dấu vết mật đã kéo tới đây.”
“Vậy anh có ý gì?” Painter dò xét.
“Tôi nghĩ đã đến lúc chiếc hộp sọ phải xuất hiện trở lại. Những con sói đang khép chặt vòng vây. Tôi có thể chuyển giao chiếc sọ cho cơ quan tình báo khác, Sigma sẽ không liên can gì.” Ông bắt gặp cái nhìn không chớp mắt từ Painter. “Nhưng như thế chỉ cho phép anh có nửa ngày còn lại bên đứa trẻ. Nếu Gray cùng đồng đội không có câu trả lời nào trước lúc đó, ta buộc phải trao trả cô bé.”
“Tôi sẽ không làm vậy, Sean.”
“Có lẽ anh không còn lựa chọn nào khác.”
Painter đứng bật dậy. “Vậy anh gặp đứa trẻ trước đã. Nhìn cho kĩ những gì đứa trẻ phải gánh chịu. Rồi nói cho tôi biết có thể nào trao cô bé cho Mapplethorpe.”
Painter nhận ra thái độ lẩn tránh của người ông luôn xem là thầy. Tuyên án vắng mặt bao giờ cũng dễ dàng hơn. Nhưng rồi Sean vẫn gật đầu đứng dậy. Ông không bao giờ lùi bước trước khó khăn. Đó là lý do khiến Painter hết mực kính trọng ông.
“Vậy thì ta đi gặp cô bé,” Sean kết thúc.
Họ cùng bước ra ngoài, đi bộ xuống hai tầng lầu đến chỗđứa trẻ.
Đến nơi, Painter nhận ra Kat và Lisa đang đứng ở cuối sảnh gần cửa phòng cô bé. Kat có vẻ bối rối. Painter biết rõ Kat đau buồn ra sao sau khi nhìn thấy bức tranh vẽ người chồng, nhưng cuối cùng bà đã bình tĩnh lại. Bà mở ví, cho cô bé xem bức ảnh cô con gái Penelope lúc còn nhỏ, hy vọng tạo được liên hệ nào đó với đứa trẻ. Lẩn trong những bức ảnh có cả chân dung của Monk.
Nhưng tôi chắc là cô bé chưa từng thấy nó, Kat nói vậy. Khá chắc chắn.
Cách giải thích duy nhất thuộc về bản năng, rằng cô bé bằng cách nào đó đã lấy được hình ảnh về Monk từ trong đầu Kat, người luôn ở trong trái tim bà.
Dù sao Kat cũng đã bình tĩnh hơn và đồng ý rằng nghỉ ngơi bây giờ là điều tốt nhất. Mỏi mệt khiến bà kiệt sức.
Nhận ra sự có mặt của hai người, Kat không thể đợi thêm, bà tiến đến với vẻ hết sức lo lắng.
“Giám đốc,” bà vội vã, “chúng tôi định gọi ông. Cô bé lại sốt cao đột ngột. Ta phải làm gì đó. Lisa nghĩ… nghĩ là cô bé sắp chết.”
2:35 chiều
Thành phố Agra, Ấn Độ
Gray sải bước xuống đường. Càng gần ngã tư lớn phía trước, giao thông càng rối ren. Khách bộ hành san sát, nối đuôi len qua những chiếc xe ì ạch. Lễ hội đã làm cho con phố chính ùn tắc. Mọi phương tiện hướng sang những con đường lân cận.
Tiếng kèn inh ỏi, tiếng chuông xe đạp rung lên, tiếng mọi người la hét chửi bới.
Sau lưng họ, động cơ mô tô đã hết gầm rú, chỉ còn lại tiếng lên ga yếu ớt. Ngay cả đám người săn đuổi cũng bị kẹt trong vũng lầy nhân sinh ấy. Gray vẫn cố gắng cúi thấp.
Kowalski bám sát ông, nấp dưới cánh mũi một chiếc xe ngựa kéo. “Vài đứa chuẩn bị đi bộ theo ta.”
Gray ngoái lại nhìn. Ba chiếc mô tô màu đen từ từ dừng lại. Những tay lái lụa bỏ xe, len vào đám đông phía sau. Hai tên đi sát lề, tên còn lại xuống giữa lòng đường.
Ba mối đe dọa thật ra đã được nhân đôi.
“Không thích những kẻ dư thừa này chút nào,” Gray lẩm bẩm. Ông vạch nhanh kế hoạch xử lý, nhắc nhở Kowalski những điều cần làm cùng với địa điểm gặp mặt. “Tôi sẽ đi đường trên. Anh theo đường dưới.”
Anh chàng to cao cúi thấp người trước đầu xe tải, đăm chiêu nhìn vào mấy bãi phân ngựa, lừa lẫn lạc đà dưới chân. “Sao tôi lại phải đi con đường dưới?”
“Vì tôi đang mặc đồ tráng.”
Lắc đầu, Kowalski cúi thấp hơn nữa, một tay chạm vào mặt đường. Anh chàng quay đầu về hướng khách sạn.
Giữ chặt chiếc mũ Panama trên đầu, Gray nhảy lên cốp một chiếc taxi, chạy trên nóc xe lao đến lễ hội. Mặc cho tiếng giày nện sầm sập, ông tiếp tục băng qua nóc và mui xe trước mặt, đáp xuống mặt đất, rồi lại trèo lên nóc mấy chiếc xe hơi, taxi lẫn xe chở hàng. Tiếng la ó, những nắm đấm đe dọa sau lưng ông. Di chuyển trên cao vẫn là cách mau chóng, đặc biệt là trong điều kiện giao thông chen lấn như thế này.
Gray quay lại nhìn. Đúng như mong chờ, mấy tên rượt đuổi đã phát hiện ra ông. Cả ba cũng quyết định đi trên cao để không mất dấu. Chúng đuổi theo từ ba hướng tách biệt, chí ít chúng chưa dám thử sức với súng ống trong tình trạng mất thăng bằng liên tục.
Gray cúi thấp người, dùng gậy của Masterson để giữ thăng bằng, nhảy cóc về hướng lễ hội náo nhiệt, ông cần phải nhử cho bộ ba kia rời xa mấy chiếc mô tô.
Chia tách và chế ngự chúng.
Trượt khỏi nóc một chiếc xe tải, Gray quan sát biển người đông nghịt phía sau. Hiện giờ đúng là tình hình y hệt câu “biển cả mang đến những con cá mập háu đói”. Gray không nhìn rõ Kowalski nhưng tận mắt chứng kiến tay nghề của anh chàng. Ở đằng xa, chiếc mô tô đầu tiên ép sát một chiếc xe tải. Vừa trờ tới đầu xe, tên lái mô tô đột ngột bị lôi ngược trở lại, giật bắn người. Gray nghe thấy tiếng pop- pop-pop vọng lại từ xa, giống như tiếng pháo mừng lễ hội.
Cả chủ lẫn xe chìm vào biển người khuấy động.
Kowalski vẫn ẩn nấp đâu đó. Trong lúc những kẻ rượt đuổi còn mải mê để mắt đến Gray, anh chàng to lớn dễ dàng trụ lại phía sau, thọc khẩu M4 mới đánh cắp vào người tên lái mô tô khi hắn đi ngang qua. Người dựng đứng, cổ họng bị siết chặt.
Nhưng lũ cá mập vẫn chưa kết thúc săn mồi giữa đại dương.
Gray giao phó trách nhiệm đổ máu cho anh chàng to lớn, tiếp tục hòa mình vào mớ hỗn độn của lễ hội. Ca hát, nhảy múa, chúc tụng, cười vang xen lẫn la hét. Nhạc nổi lên từ những điệu kèn và vang vọng âm thanh loảng xoảng từ những mảnh chũm chọe. Đó là lễ hội Janmashtami, kỷ niệm ngày sinh của thần Krishna.
Đứng ở vị trí thuận lợi, ông thấy một nhóm người đang nhảy điệu Ras Lila, vũ điệu Manipuri truyền thống biểu trưng cho những năm đầu đời tinh nghịch của thần Krishna khi ngài vui đùa cùng những thiếu nữ vắt sữa bò. Xen giữa đám đông tất bật là lớp lớp thanh niên đang tạo thành một tháp người, chạm đến chiếc bình đất nung treo cao trên phố. Những chiếc được gọi là dahi-handi, bên trong chứa đầy sữa đồng và bơ. Trò chơi tái hiện lại thành tích rất ngây ngô của thần Krishna khi ngài và đám bạn thời niên thiếu ăn trộm bơ của nhà hàng xóm.
Gray lắng nghe điệu hát bè truyền thống.
“Govinda! Govinda!”
Một cái tên khác của thần Krishna.
Gray tiếp tục chạy đua qua những nóc xe chạy dọc lễ hội. Con đường phía trước bị chặn, giao thông chuyển hướng, lối đi của Gray kết thúc ngay bên hè phố. Ông nhảy xuống từ mui chiếc taxi cuối cùng và len vào đám đông.
Chen giữa những người tham gia cuộc vui, ông cởi bỏ mũ áo, trà trộn dưới hình dạng đã hết cải trang. Một tay giữ gậy, tay kia ép sát khẩu súng lục vào đùi, ông cùng đoàn người tiến về phía trước. Những cửa hàng, những xe đẩy thức ăn bên lề lễ hội tràn ngập khách hàng quen xếp dọc con phố, mục tiêu của ông là đây.
Theo như kế hoạch, ông sẽ gặp lại Kowalski ở góc quảng trường phía Tây Bắc. Họ chưa dám đi tiếp đến chỗ hẹn ở pháo đài chừng nào chưa ngắt bỏ được mấy cái đuôi. Trước mặt Gray là một tòa nhà có lối thoát hiểm. Cầu thang bằng kim loại chạy dọc bên ngoài, những ban công kín người đang thưởng thức lễ hội bên dưới. Gray trèo lên tầng hai để quan sát đám đông rõ hơn đồng thời tìm Kowalski.
Lên đến nơi, Gray thấy một tên đang đứng ở nơi chiếc xe tải ông đã nhảy qua. Hai tên đồng bọn còn lại đã hòa vào đám đông nhưng dễ dàng nhận ra bởi mũ bảo hiểm đen còn đội! Một tên cúi xuống nhặt chiếc mũ tráng đã bị giẫm bẩn. Hắn quăng đi trong nỗi ghê tởm lẫn bực dọc.
Gray hy vọng chúng sẽ nghĩ chẳng còn gì vớt vát để mà rút lui. Nhưng mọi chuyện nào có dễ dàng.
Kowalski đột nhiên xông vào đám đông. Áo khoác của anh chàng bị nhàu nát. Tay trống không, cằm dính đầy máu. Nhưng điều tệ nhất là chiều cao của anh chàng. Vai và đầu nhô cao hơn cả những người trung bình tham gia lễ hội. Anh chàng đưa một tay che tầm mắt, chăm chú dõi theo đám đông.
Lúc này đây, Kowalski không phải là cá mập giữa biển khơi.
Một trong những tên đội mũ bảo hiểm đã nhận ra Kowalski và hướng đi của anh chàng. Chúng bao vây từ các hướng.
Tình hình không ổn.
Gray xoay người lại, đường đã đông hơn, cầu thang chật cứng người. Chưa bao giờ ông lại rơi vào giữa một biển người đúng lúc như thế.
Chỉ còn cách trèo lên lan can rồi nhảy ra khỏi đó thẳng đứng.
Rất may, trên đầu ông có sợi cáp khá chắc bám đầy dầu, được bắc từ ban công phía trên ngang qua quảng trường. Gray vươn tay ngoắc chuôi cầm của cây gậy vào đó. Ông lấy đà rồi vung chân trượt theo sợi cáp, sức nặng tăng lên bởi chính giữa treo một chiếc bình đất nung dahi-handi khá lớn. Ông nắm chặt gậy, tay còn lại buông xuôi.
Gót vừa chạm tới đầu một tên đội mũ, Gray ra đòn bằng hai chân. Cú va chạm đè ngã hắn xuống đất, chiếc mũ bảo hiểm vỡ tan như vỏ một quả óc chó.
Gray chạm phải đỉnh tháp do những thanh niên đang với lấy chiếc bình tạo ra. Ông xô người đang ở trên cùng khỏi chiếc cọc, giành lấy vị trí đỉnh tháp. Trong lúc người thanh niên quờ quạng suýt ngã, chiếc gậy tròng trành tuột xuống – khẩu súng lục của Gray cũng rơi theo.
Những gương mặt ngước lên nhìn ông.
Trong đó có hai tay súng còn sót lại.
Mất vũ khí, Gray lấy thăng bằng trên vai người đàn ông bên dưới, ông vươn tay tóm lấy phần đáy chiếc bình, tháo nó ra khỏi móc cài, khẽ cầu thần Krishna rồi tung về phía tay súng đứng gần nhất.
Lời khẩn cầu của ông được đáp trả.
Chiếc bình nặng nề rơi đúng vào khuôn mặt nhấp nhô của hắn, vỡ toang, những mảnh đất nung và bơ trộn lẫn. Hắn ngã gục.
Tên thứ ba đã giơ súng trên tay. Vừa lúc đám đông bắt đầu la hét, hắn nhằm hai phát đạn vào Gray – nhưng Gray không còn ở đó. Tháp người đã đổ sụp từ bên dưới. Đạn xuyên qua khoảng không trên đầu Gray lúc ông ngã xuống.
Cả thân hình ông đáp giữa rừng tay.
Gray vật lộn cố tìm ra một chỗ đứng. Tay súng vẫn rình rập đâu đó quanh chiếc cọc, sẵn sàng ngắm bắn. Chẳng may cho hắn, một vệt tráng mờ ảo bỗng đập vào mắt. Cú đánh nảy lửa từ chiếc cán gậy bằng ngà của Masterson khiến đầu hắn bật ngửa. Kowalski đã đoạt lấy chiếc gậy, động tác dứt khoát như một vận động viên bóng chày xoay người phát bóng.
Tay súng ngã sóng soài dưới mặt đường, máu trào ra.
Kowalski chộp lấy khẩu súng của hắn rồi ngoảnh tìm chiếc gậy văng trong đám lộn xộn toàn tay với chân. Gray đã túm được nó, còn Kowalski kéo ông đứng lên.
“Chết vì bơ,” anh chàng to cao mỉa mai. “Không tệ nhỉ, Pierce. Cho ông kinh nghiệm mà phòng ngừa cholesterol.”
Cả quảng trường náo loạn. Mọi người tản ra. Cảnh sát mặc sắc phục cố gắng áp đảo dòng người chen lấn. Gray và Kowalski thảnh thơi hòa vào đám đồng ùn ùn đổ về những con phố lân cận.
Sau vài phút hỗn loạn, pháo đài sa thạch đỏ tọa lạc bên bờ sông YamQa đã lừng lững hiện ra. Cả hai băng qua bức tường cổ – vây quanh pháo đài của Akbar Đại đế – điểm thu hút khách du lịch chính trong thành phố chỉ sau đền Taj Mahal.
Taxi, xe tải và cả xe limo đậu dọc đại lộ phía trước.
“Pierce!” Có tiếng ai đó gọi ông.
Shay Rosauro đứng cạnh một chiếc limo – chiếc cá voi tráng dài và sang trọng – vẫy tay về phía ông. Ông lại gần. Luca cũng ở đó, Masterson và Elizabeth đã yên vị trong xe.
“Không kín đáo cho lắm,” Gray hướng mắt về phía chiếc xe.
“Thế mới đủ chỗ tất cả chúng ta,” Rosauro giải thích bằng một nụ cười ranh mãnh. “Còn nữa, ai dám cản ta dạo chơi chút ít nhỉ?”
“Phụ nữ biết rõ họ đang nói gì đấy” Kowalski xen ngang rồi sải bước về phía đầu xe. “Chắc họ để tôi lái.”
“Không!” Gray và Rosauno đồng thanh.
Hơi tự ái, Kowalski cau mày bước lui, khom người chui vào phía sau xe. Rosauro theo gót.
Trước khi lên xe, Gray quan sát lối đi bộ và cả những con đường. Không có dấu hiệu bị theo dõi. Hy vọng họ đã dứt điểm lũ bám đuôi, ông ngó quanh rồi đăm chiêu ngắm nhìn dòng sông uốn khúc.
Từ đằng xa, ngôi đền cẩm thạch tráng lung linh trong nắng,êm đềm và vĩnh cửu, yên giấc bên làn nước tỏa ánh mặt trời.
Gray xoay lưng về phía ngôi đền.
Người đã khuất mới có được giấc ngủ thanh bình đến vậy.
Ông vừa bước vào xe, Masterson đã bày tỏ thái độ phẫn nộ. “Anh làm gì cái gậy của tôi thế này?”
Gray ngồi thụp xuống ghế. Cán cầm bằng ngà thế kỷ thứ mười tám bê bết máu. Những họa tiết công phu hình con sếu bị mài nhẵn bởi chuyến du hành trên dây cáp.
“Cái gậy là mối lo ngại nhỏ nhất của ông thôi sao thưa Giáo sư,”
Gray nói.
Masterson không nén được ánh nhìn chẳng mấy thiện cảm khi xe lùi khỏi vệ đường.
Gray chỉ vào một bên tai bị băng bó của giáo sư. “Ai đó đang cố giết ông đấy. Câu hỏi đặt ra cho ông, Tiến sĩ Masterson, là tại sao.”
Chú thích
1 CIA (viết tắt của Central Intelligence Agency): Cục Tình báo Trung ương (ND).
2 FBI (viết tắt của Federal Bureau of Investigation): Cục Điều tra Liên bang (ND).
3 NSA (viết tắt của National Security Agency): Cơ quan An ninh Quốc gia (ND).
4 NRO (viết tắt của National Reconnaissance Office): Cơ quan Trinh sát Quốc gia (ND).
5 ONI (viết tát của Office of Naval Intelligence): Cơ quan Tình báo Hải quân (ND).
6 AARP (viết tắt của American Association of Retired Persons): IQP hội.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.