Dưới cái nóng hừng hực, Gray sải bước xuống vệ đường phía trước tòa nhà Smithsonian. Công viên National Mall trải dài về bên trái, hầu như hoang vắng vì thời tiết bức.
Đằng sau Gray, những dải băng cảnh sát vẫn còn bao quanh khu vực xảy ra vụ giết người hồi chiều. Nhóm pháp y đã hoàn tất công việc rà soát nhưng khu vực vẫn bị phong tỏa dưới sự canh gác của một cảnh sát thành phố D.C.
Gray đi bộ về hướng Đông dọc theo đường Jefferson Drive. ông cố gắng phớt lờ một vệ sĩ cao lớn đang theo sát. Ông không đòi hỏi sự bảo vệ an ninh nào. Ông chạm vào chiếc micrô ở cổ họng và nói thầm: “Tôi đã tìm thấy một dấu vết!”
Âm thanh trả lời sột soạt phát ra từ tai nghe không dây.
Gray ngẩng đầu lên chỉnh lại vị trí tai nghe cho rõ. “Lặp lại đi,” ông thì thầm.
“Anh có thể lần theo dấu vết không?” Painter Crowe hỏi.
“Được… nhưng tôi không biết sẽ kéo dài bao lâu. Tín hiệu thu nhận khá yếu.” Gray đề xuất kế hoạch hành động hiện thời, ông quan sát thiết bị đang cầm trong tay, một máy dò bức xạ di động hiệu Gamma-Scout. Đầu dò Geiger-Muller chứa đầy halogen đủ nhạy để bắt được tín hiệu bức xạ, đặc biệt khi được kích hoạt với đồng vị phóng xạ 90 – kim loại strontium (kim loại có màu vàng hoặc trắng bạc, ký hiệu hóa học là Sr (ND) đặc thù được tìm thấy trong cơ thể Polk. Gray hy vọng rằng chìa khóa cho dấu vết còn sót lại vẫn nằm đó, một bức xạ tương đương với dấu vết phát hiện được. Có vẻ hiệu quả.
“Cố gắng hết sức nhé Gray. Bất cứ thông tin nào về địa điểm có mặt của giáo sư những ngày qua đều mang tính quyết định. Tôi đã liên lạc với con gái ông ta nhưng vẫn chưa thành công.”
“Tôi sẽ theo đuổi vụ này hết sức có thể.” Gray tiếp tục đi bên vệ đường và kiểm soát máy dò. “Tôi sẽ báo cáo nếu phát hiện thấy gì.”
Gray tắt nguồn, tiếp tục dọc theo công viên National Mall. Hết nửa dãy phố, tín hiệu phát ra từ thiết bị đột ngột biến mất. Dừng chân, ông quay đầu lại chửi thề và va phải tên vệ sĩ bám theo.
“Chết tiệt, Pierce,” anh chàng cầu nhàu. “Giày vừa mới đánh xong.”
Gray liếc qua vai nhìn về phía gã thanh niên đầy cơ bắp phía sau ông. Joe Kowalski, từng là lính hải quân, mặc áo khoác thể thao và quần thụng, chúng khiến anh ta trông tôi tàn. Mái tóc lởm chởm cùng với sống mũi nhô lên như bị gãy, anh ta trông giống một con đười ươi bị cạo lông trong bộ đồ nhăn nhúm.
Kowalski cúi xuống lau lại giày bằng vạt áo khoác. “Tôi phải trả ba trăm đô cho đôi này đấy. Giày chukkas liền mũi nhập khẩu từ Anh. Đặc biệt phải đặt hàng theo cỡ của tôi.”
Gray nhướn lông mày nhìn vào đầu đọc Gamma-Scout.
Kowalski có lẽ đã nhận ra mình nói quá nhiều. Vẻ mặt anh ta chuyển sang ngượng ngùng. “Thôi được. Tôi thích giày đấy. Thì sao chứ? Tôi đã hẹn hò, thế nhưng… phải… cô ấy đã hủy cuộc hẹn.”
Một phụ nữ thông minh.
“Xin lỗi nhé,” Gray gào lớn.
“Không sao… ít nhất thì cũng không bị xước,” Kowalski đáp.
“Ý tôi là rất tiếc vì anh bị thất hẹn.”
“À. Vâng.” Anh ta nhún vai. “Mất mắt của cô ấy thôi.”
Gray không bận tâm tranh luận thêm, ông chuyển tập trung vào máy dò cầm tay và chỉnh sang chế độ chậm. Qua phải một bước, ông đã bắt được tín hiệu bức xạ trở lại. Nó đổi hướng từ vệ đường và kéo dài ngang qua công viên Mall đầy cỏ mọc.
“Đường này.”
Hành trình của vị giáo sư đưa họ ngang qua Vườn Điêu khắc của công viên Mall nằm phía bên kia Bảo tàng Hirshhorn. Gray đi theo những bước chân của Polk tiến vào một chỗ nghỉ trũng và râm mắt, rồi lại quay ra. Đi qua khu vườn, hành trình của Polk tiếp tục băng ngang công viên Mall, men theo những khu lều dành cho sự kiện truyền thông ngày Quốc tế Lao động vẫn còn chưa dỡ hết.
Gray nhìn lại khu vườn trũng xem xét đường đi của vị giáo sư. “ông ta luôn cố gắng tránh xa tầm nhìn.”
“Cũng có thể ông ta nóng quá,” Kowalski phản bác, quệt mô hôi trên lông mày.
Gray tìm kiếm xung quanh, ở phía Tây, tháp tưởng niệm Washington hướng về mặt trời bỏng rát; đằng Đồng là mái vòm của nước Mỹ. Tòa nhà Quốc hội.
Gray tiếp tục hành trình tìm ra câu trả lời. Thông tin kĩ thuật hiển thị trên máy dò Gamma- Scout từ từ biến mất khi ông băng ngang công viên Mall. Cứ mỗi bước ông lại thấy chỉ số bức xạnhấp nháy.
Đi được một đoạn khá xa trong công viên, Gray vội vã băng qua đường Madison Drive. Ông lại lần được dấu vết khi đi vào một công viên khác. Tín hiệu trở nên mạnh hơn khi Gray đến gần một bụi cây sơn thù du gỗ đỏ và bằng lăng lai râm mắt. Một chiếc ghế dài nằm cạnh cây cẩm tú cầu cao ngang đầu gối.
Gray đứng lên ghế.
Ở vị trí khó mà nhìn thấy, chỉ số bức xạ tăng lên cao.
Polk đã đợi ở đây? Phải chăng đó là lý do dấu vết bức xạ còn sót lại trở nên mạnh hơn?
Gray xoay sang một nhánh hoa sơn thù du và nhìn thấy quang cảnh thoáng đãng của công viên Mall trải dài phía trước, cả tòa nhà Smithsonian cũng nằm gọn trong tầm nhìn. Vị giáo sư đã đợi ở đây vì nghĩ nơi này an toàn chăng? Gray nheo mắt trước ánh sáng mặt trời. Ông nhớ lại chẩn đoán của Malcolm, sự suy nhược, sự hao mòn. Polk đã kiệt sức. Sự liều lĩnh tuyệt vọng đã khiến ông bất lực.
Tại sao?
Gray chuẩn bị bước đi thì Kowalski hắng giọng. Anh ta quỳ một chân phủi bụi trên giày, tay kia mò phía dưới chiếc ghế. “Nhìn này,” anh vừa nói vừa đứng dậy. Anh xoay người, trong tay là một cặp ống nhòm.
Gray di chuyển máy dò đến gần mấy ống ngắm. Tín hiệu hiển thị đột ngột tăng cao hơn. “Có dấu hiệu phóng xạ.”
Kowalski nhăn nhó đẩy mạnh vành đệm của ống nhòm ra ngoài, “cầm lấy, cầm lấy.”
Gray đón lấy cái ống nhòm. Nỗi sợ hãi của người cộng sự không hề có căn cứ. Mức độ phóng xạ chỉ tệ hơn chút đỉnh so với bức xạ cơ bản thông thường.
Gray dùng ống nhòm xoay sang quan sát lâu đài. Tầm nhìn phía tòa nhà quá rõ, ông dõi theo một nhân vật đang đi dọc phía trước. Qua ống kính, ông nhận ra những đặc điểm của người khách bộ hành. Gray nhớ lại Polk đã vội vã thế nào khi họ đã ở gần sát nhau, ông đã bỏ qua hành động đó vì nghĩ rằng gã ăn mày đang liều lĩnh để nhận chút bố thí mà thôi. Bây giờ thì ông ngờ rằng Polk đã nhận ra ông. Có lẽ không chỉ bởi sự liều lĩnh khiến Polk thua cuộc. Phải chăng ông nhìn thấy Gray đi ngang công viên Mall nên ra khỏi chỗ ẩn nấp để chặn lại?
Gray bỏ ống nhòm vào chiếc túi dò đeo ngang hồng.
“Đi thôi.”
Ra khỏi bụi cây, Gray lần theo dấu vết về hướng Tây dọc đường Madison Drive, đến một cầu thang.
Dấu vết đưa chân họ đi lên.
Gray ngẩng đầu nhận ra mình đang tiến đến lối vào của công viên Mall dẫn tới một trong những bảo tàng nổi tiếng nhất tòa nhà Smithsonian: Bảo tàng Tự nhiên Quốc gia. Bảo tàng lưu giữ một khối lượng lớn các hiện vật trên khắp thế giới – thuộc ngành sinh thái học, địa chất học, khảo cổ học – từ những hóa thạch nhỏ xíu cho đến một bộ xương khủng long T- rex với kích thước thật.
Gray ngửa cổ nhìn. Mái vòm của viện bảo tàng lù lù hiện ra phía trên cổng hình tam giác được trụ đỡ bằng sáu chiếc cột khổng lồ thành Corinth (thành cổ ở phía Nam Hy Lạp (ND).. Nhìn lên trên, ông bỗng sững sờ vì mặt tiền của bảo tàng giống hệt như ngôi đền Hy Lạp khắc trên đồng xu của vị giáo sư.
Có sự kết nối nào ở đây?
Trước khi tìm dấu vết phía trong, ông hiểu tốt hơn hết phải báo cáo với trung tâm chỉ huy. Ông bước sang một bên, dựa vào lan can bằng đá rồi bật tín hiệu mã hóa. Lập tức tín hiệu truyền tới giám đốc Crowe.
“Anh tìm thấy gì phải không?” Painter hỏi.
Gray giữ giọng hết sức nhẹ nhàng. “Có vẻ như dấu vết của ngài giáo sư dẫn ta vào trong Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên của tòa nhà Smithsonian.”
“Bảo tàng…?”
“Bảo tàng…?”
“Tôi sẽ tiếp tục tìm kiếm phía trong. Có mối liên kết nào giữa ông ấy với nơi này không?”
“Theo tôi biết thì không. Nhưng tôi sẽ kiểm tra với các đồng sự trước đây.”
Gray nhớ lại đoạn trao đổi về quá khứ của giáo sư Polk. “Giám đốc, còn một điều nữa, ông chưa bao giờ giải thích một điều.”
“Gì vậy, Trung tá?”
“Ông nói rằng giáo sư sáng lập ra Lực lượng Sigma. Ý ông ở đây là gì?”
Sau một thoáng yên lặng, Painter tiếp tục. “Gray, anh biết gì về tổ chức có tên là Nhà Jason?”
Bị vướng vào một câu hỏi lạc lõng, Gray thậm chí không hiểu ra vấn đề. “Sao cơ thưa ngài?”
“Nhà Jason là một tập hợp những đầu não khoa học được hình thành thời kỳ chiến tranh lạnh. Họ bao gồm những lãnh đạo với chuyên ngành riêng, có rất nhiều nhà khoa học đạt giải Nobel trong đó. Họ tụ họp lại với nhau để tư vấn cho các lãnh đạo quân đội cấp cao về các dự án công nghệ.”
“Và giáo sư Polk là một thành viên?”
“Đúng vậy. Qua thời gian, Nhà Jason đã chứng tỏ mình có ảnh hưởng đắc lực đến quân đội. Họ họp lại vào mỗi mùa hè và đưa ra những ý tưởng mới. Trả lời cho câu hỏi của anh, trong một cuộc họp như thế, Archibald Polk đã đề xuất hình thành một đội ngũ những nhà nghiên cứu được quân sự hóa để phục vụ DARPA, nhằm trở thành nhân viên chuyên ngành cho cơ quan này.”
“Và rồi Sigma ra đời.”
“Chính xác. Nhưng tôi không chắc chuyện này có liên quan trực tiếp đến vụ giết người hay không. Những gì tôi nghe được cho đến lúc này là Polk không còn hoạt động cùng với Nhà Jason đã nhiều năm nay.”
Gray nhìn xoáy vào mặt tiền có kiến trúc Hy Lạp cao ngất. “Khả năng có ông bạn nào Nhà Jason làm việc ở bảo tàng này chăng? Có thể vì thế mà ông ấy đến?”
“Suy luận điều tra tốt đấy. Tôi trông chờ như vậy, nhưng cần có thời gian để bới cho tận gốc. Mấy năm vừa qua, tổ chức của họ càng lúc càng trở nên bí mật. Bị chia nhỏ thành nhiều dự án tối mật nên hiện nay Nhà Jason thậm chí còn không biết các thành viên Jason khác đang làm gì. Nhưng tôi sẽ tiếp tục bắt liên lạc.”
“Còn tôi sẽ lần theo dấu vết này.” Ông tắt máy và vẫy Kowalski. “Lại đây thôi. Ta đi vào trong.”
“Ngay lúc ta vừa thoát khỏi nắng nóng mặt trời chết tiệt à?”
Gray không tranh luận. Bước qua những bậc cửa, ông cảm nhận rõ không gian bên trong thật râm mắt cùng luồng hơi lạnh. Bảo tàng mở cửa tự do nhưng Gray phải xuất trình thẻ chứng minh màu đen bóng loáng của mình cho người bảo vệ đang cầm máy dò kim loại.
Ông được cho qua cửa.
Lao vào bên trong nhà tròn trung tâm, Gray bất ngờ trước không gian thẳng đứng. Nhà tròn có hình bắt giác với thiết kế ba tầng, mỗi tầng nối với nhau bằng nhiều cột và dẫn đến một mái vòm lát ngói kiểu Guastavino đồ sộ. Ánh sáng mặt trời chiếu qua những cửa sổ dọc mái vòm và cửa tròn trung tâm.
Gần hơn, ở trung tâm nhà tròn sừng sững một con voi đực châu Phi tám tấn, một trong những linh vật của bảo tàng. Nó đứng với tư thế vươn vòi, giữa những cái ngà cong vút là một bãi cỏ khô. Dấu vết cho thấy Polk đã đi vòng quanh con voi và hướng về cầu thang chung.
Khi lần theo, Gray để ý một băng rôn được treo cao trên tường phía bên trái. Nó quảng cáo cho cuộc triển lãm sẽ mở trong tháng tới. Trên đó khắc họa đầu nữ thần Medusa với mái tóc đầy rắn đang uốn mình, nổi bật giữa một tấm khiên tròn. Chân Gray bước chậm lại khi ông nhìn lên.
Ông mường tượng lại đồng xu kỳ lạ của Polk khi đọc tiêu đề cuộc triển lãm sắp mở, cảm nhận mình đang đi đúng hướng.
Bí ẨN BỊ ĐÁNH MẤT CỦA THẦN THOẠI HY LẠP
6:32 chiều
Trong căn phòng ảm đạm, hai người đàn ông nhìn chăm chăm vào khung kính một chiều nối với phòng giải trí dành cho trẻ em. Họ ngồi trên ghế bành bằng da, phía sau lưng là bốn tầng ghế xếp kiểu bậc thang sân vận động, tất cả đều còn trống.
Đây là phòng họp kín.
Đằng sau tấm kính tráng gương, căn phòng liền kề thắp đèn sáng trưng. Những bức tường phủ sơn tráng, cộng với một chút màu xanh da trời giản dị, được xem là màu sắc khơi gợi trạng thái điềm tĩnh, trầm mặc theo những số liệu tâm lý thống kê. Trong đó có một chiếc ghế giường cùng tấm chăn bông vải hoa, một hộp đồ chơi hở nắp và một chiếc bàn cỡ trẻ em.
Người đàn ông lớn tuổi hơn ngồi ngay ngắn trên ghế. Bên cạnh là một chiếc va li đã cũ sờn chứa một khẩu súng bắn tỉa tháo lắp Dragunov.
Người còn lại năm mươi bảy tuổi, trẻ hơn cộng sự người Nga của ông những hai mươi tuổi, ông thõng người trong bộ com lê gò bó. Mắt ông dán chặt vào một bé gái khi cô bé đứng trước giá vẽ bằng nhựa và lục tung đám bút màu lẫn bút dạ trong khay. Cô bé mất nửa giờ đồng hồ tỉ mỉ vẽ một hình chữ nhật màu xanh lá trên nền giấy tráng gắn với giá vẽ. Cô bé di chuyển bút dạ vòng quanh tạo thành một hoa văn nhịp nhàng như thôi miên.
“Tiến sĩ Raev,” người đàn ông lên tiếng, “tôi không có ý nhắc lại, nhưng ông có hoàn toàn chắc chắn là giáo sư Polk không mang nó theo người?”
Tiến sĩ Yuri Raev thở dài. “Tôi đã dành cả cuộc đời cho dự án này.” Bằng cả tâm hồn, ông thầm nghĩ. “Tôi không cho phép nó bị phá hủy khi ta đã tiến đến quá gần.”
“Vậy thì nó đang ở đâu? Ta đã lục soát hết cái khách sạn rẻ tiền hắn ở tối qua. Chẳng có gì. Sẽ có nhiều vấn đề nảy sinh nếu chẳng may nó rơi vào tay những kẻ chẳng ra gì.”
Yuri liếc nhìn người đàn ông đang ngồi cạnh. John Mapplethorpe, giám đốc vùng của Cơ quan Tình báo Quốc phòng, với khuôn mặt dài, cằm chảy xệ và lớp da lõm xuống bên dưới hốc mắt, như thể ông ta được đắp bằng sáp và ở dưới nắng quá lâu. Chưa kể thuốc nhuộm ông ta dùng quá sậm màu, rõ ràng là đối nghịch với tuổi tác. Yuri không có quyền chê trách ông ta vì đã cố gắng cản trở sự đổi thay tuổi tác. Bên dưới làn da đã chùng xuống, cơ thể Yuri vẫn còn săn chắc, phản ứng linh hoạt và đầu óc vẫn nhạy bén, lanh lợi như trước đây. Kết hợp với việc tiêm kích thích tố nam và hóc môn tăng trưởng, những bài tập đầy khí lực khiến ông chiến đấu kiên cường như bất cứ ai, bất kể thời gian. Nhưng ông không tự cao tự đại vì điều đó.
Ông quan sát căn phòng.
Không, đây không phải là sự phù phiếm.
Mapplethorpe gõ gõ mấy ngón tay lên thành ghế. “Ta phải khôi phục những gì Polk đã đánh cắp.
“Ông ta không mang theo nó,” Yuri kiên quyết đảm bảo với Mapplethorpe. “Nó quá lớn không thể che đậy trên người, ngay cả dưới áo khoác. May mắn là đã chặn được ông ta. Trước khi ông ta tiết lộ cho ai biết.”
“Tôi hy vọng là ông đúng. Tất cả vì lợi ích của chúng ta.”Mapplethorpe hướng chú ý trở lại căn phòng. “Cô bé này có khả năng lần theo dấu vết ông ta ư? Từ đất nước Nga xa xôi.”
Yuri gật đầu. Niềm tự hào của một người cha ấn trong giọng nói của ông. “Có cô bé cùng cậu em trai song sinh, ta có thể phá vỡ rào cản vào phút cuối.”
“Tệ là cô bé không thể nhanh nhạy hơn.” Mapplethorpe cất giọng thô bạo. “Con gái của em rể tôi có một đứa con trai bị tự kỷ. Đã bao giờ tôi kể ông nghe điều này chưa? Nhưng nó không phải là một thiên tài ngốc nghếch. Nó chật vật lắm mới có thể cột dây giày.”
Yuri nổi cáu. “Thuật ngữ thích hợp hơn phải là nhà bác học bị tự kỷ.”
Người đàn ông kia nhún vai.
Ác cảm mà Yuri dành cho gã người Mỹ tăng lên. Giống như Mapplethorpe, rất ít người thực sự thấu hiểu căn bệnh tự kỷ, ngay cả trong giới y học. Yuri hiểu tường tận chứng rối loạn ấy. Đó thực ra là một chuỗi những rối loạn, đặc trưng bởi những khuyết điểm trong kĩ năng giao tiếp và tương tác xã hội, đi kèm với các phản ứng trực giác bất thường. Điều này khiến trẻ em phải đối mặt với tình trạng khả năng ngôn ngữ và giao tiếp bị trì hoãn cũng như bị tổn thương, có những thói quen và vận động thần kinh lặp lại, ám ảnh với đồ vật và thường có cách liên hệ khác thường với sự việc hoặc con người.
Nhưng đôi khi rối loạn như thế lại phát sinh ra những điều kỳ diệu.
Có những trường hợp hiếm hoi, đứa trẻ tự kỷ thể hiện trí thông minh đáng kinh ngạc trong một lĩnh vực chuyên môn hẹp chẳng hạn như toán học, âm nhạc hoặc nghệ thuật. Trong khi 10 phần trăm trẻ tự kỷ thể hiện một số mức độ tài năng như thế thì điều khiến Yuri bận tâm lại là những nhân vật hiếm hoi nhất trong số đó, được biết đến như những nhà bác học phi thường, những đứa trẻ bộc lộ khả năng đáp ứng một cách đầy đủ nhất định nghĩa về thiên tài. Trên khắp thế giới, chỉ có dưới bốn mươi nhân tài như thế. Nhưng ngay cả trong số những nhân tài hiếm hoi ấy, vẫn có một số ít sáng chói hơn tất cả.
Những đứa trẻ xuất thân từ dòng dõi di truyền.
Một từ cổ của người dân du mục vang lên trong đầu ông.
Thầy bói Chovihanis.
Qua khung cửa, Yuri nhìn sang cô bé có mái tóc sậm màu.
Mapplethorpe lầm bầm bên cạnh ông. “Không được để cho ai nhận ra những gì ta đang làm. Hoặc là những phiên tòa xét xử Quốc xã tại Nuremberg sẽ trông tầm thường như những phiên tòa địa phương.”
Yuri lặng im, Mapplethorpe không nắm rõ đầy đủ hoạt động nghiên cứu của ông. Nhưng sau khi Bức tường Berlin sụp đổ, Yuri cần đến nguồn tư liệu mới để tiếp tục công việc. Mất cả một thập niên để khảo sát các động thái ở Mỹ. Mọi chuyện gần như hết hy vọng thì tình hình chính trị bỗng nhiên thay đổi. Chiến tranh chống khủng bố toàn cầu đã tôi luyện nên những khối đồng minh và những bổn phận mới. Kẻ thù trở thành đồng minh. Nhưng quan trọng hơn cả, những ranh giới phép tắc bị rũ bỏ. Đó là một kỷ nguyên mới, một nền giá trị đạo đức mới. Một khẩu hiệu xưa, nay cũng đã thành quy luật: mục đích biện minh cho phương tiện.
Bất kể phương tiện nào.
Cho đến khi nó còn giá trị để đạt được mục đích.
Chính phủ của Yuri biết điều này. Chỉ có người Mỹ mới chậm trễ khi đối mặt với thực tại khắc nghiệt đó.
“Cô bé đang làm gì vậy?” Mapplethorpe cất tiếng hỏi.
Yuri thoát khỏi dòng suy nghĩ, ông đứng dậy. Sasha vẫn bên cạnh giá vẽ với chiếc bút dạ đen trong tay. Cánh tay cô bé di chuyển lên xuống khắp mặt giấy. Cô bé tô trét, chọc ngoáy rất góc cạnh. Không theo khuôn mẫu nào. Hết góc này lại chuyển sang góc khác.
Mapplethorpe khịt khịt mũi sốt ruột trước mớ lộn xộn. “Tôi nghĩ ông bảo rằng cô bé có năng khiếu hội họa.”
“Đúng vậy.”
Sasha tiếp tục vẽ. Hình chữ nhật màu xanh ban đầu bỗng được phủ kín bởi những hình xoắn ốc và những cú vụt mạnh. Cô bé duỗi thẳng tay, cứng như một tấm ván, như thể đang cố tìm lại thăng bằng để đối chọi với một thế lực nào đó bên ngoài thế giới.
Cuối cùng cả hai tay đều buông thõng.
Cô bé rời xa giá vẽ, thu mình ngồi xuống, hai chân bắt chéo và khẽ đung đưa. Lông mày cô bé đẫm mô hôi. Cô bé với lấy một khối đồ chơi bằng gỗ vương vãi và bắt đầu nhịp nhàng xoay trên những ngón tay, giống như đang cố gắng giải vài câu đố mà chỉ mình cô hiểu.
Yuri dồn tập trung vào bức tranh của cô bé.
Mapplethorpe cũng tham gia. “Tất cả những thứ đó nói lên điều gì? Chỉ là một thứ hỗn độn.”
“Nyet…” Yuri vô tình nói tiếng Nga, nhưng ông bỗng lo lắng… rất lo.
Ông vội vàng bước qua cánh cửa dẫn đến căn phòng kế bên. Mapplethorpe theo sau. Sasha chỉ đung đưa và xoay tròn khối gỗ trong tay khi ông bước vào. Với kinh nghiệm từng trải, Yuri biết rằng cô bé sẽ tạm ngưng một lúc.
Ông cũng hiểu được một đôi điều về tài năng của Sasha.
Tiến đến giá vẽ, ông gỡ bức tranh xuống.
“Ông làm gì vậy?” Mapplethorpe gặng hỏi.
Họ thường trải nghiệm thế giới theo những cảm nhận rất khác biệt. Những con số có âm thanh. Từ ngữ có mùi vị.
Yuri thoáng nhìn sang Sasha.
Đôi mắt xanh da trời lấp lánh trí tuệ của cô bé vẫn dán chặt vào khối đồ chơi.
Yuri xoay người lại, để ý thấy Mapplethorpe đang kinh ngạc, ông ta tiến gần đến bức vẽ. Ông ta chỉ trỏ, không nói nên lời vì quá sững sờ. Cuối cùng thì cũng lên tiếng. “Lạy chúa… trông như là một con voi nằm giữa.”
Yuri cũng nhìn chăm chú. Tim ông như đập mạnh vào cuống họng, cô bé không thể làm điều đó trừ phi bị tác động. Đó là những phác họa dẫn họ đến chỗ giáo sư Polk – bức vẽ về công viên Mall, tòa nhà Smithsonian – chỉ lối cho sự sắp đặt một tay súng bắn tỉa ẩn nấp từ một góc khuất của công viên Mall. Họ phải triển khai thật nhanh, phản ứng chỉ trong hai giờ đồng hồ.Vẫn còn hạn chế trong phạm vi khả năng của Sasha.
Mapplethorpe ngả người tới gần hơn. “căn phòng có con voi. Tôi nghĩ là tôi biết nơi này. Tôi đưa cháu tôi đến đây hai tuần trước. Đó là nhà tròn của Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên.”
Yuri chau mày. “Bảo tàng nằm trong công viên National Mall?”
Nơi mà con mồi của ông đã ẩn nấp quá lâu.
Mapplethorpe gật đầu xác nhận.
Yuri nhìn chằm chằm qua gương và chỉ thấy mỗi bóng dáng ông phản chiếu. Có khi nào Sasha cảm nhận được họ ở ngay sau đó? Và quan trọng hơn, cô bé có cảm nhận được mối lo âu day dứt của Mapplethorpe về những gì mà giáo sư Polk đánh cắp?
Chỉ có một cách duy nhất để tìm ra.
Yuri chỉ vào bức tranh và nói với Mapplethorpe. “Tôi đề nghị anh cử người tới đây. Ngay lập tức.”
6:48 chiều
Gray tiếp tục tiến sâu vào bảo tàng. Băng qua nhà tròn trung tâm trưng bày con voi nhồi bông, tín hiệu bức xạ từ Polk dẫn thẳng đến một cầu thang ống. Gray đi theo, ngang qua tầng kế tiếp rồi lại đi xuống sâu hơn. Tín hiệu ngừng ở cửa bảo vệ có ghi rõ:
DÀNH CHO NHÂN VIÊN BẢO TÀNG. KHÔNG PHẬN SỰMIỄN VÀO.
Gray kiểm tra cánh cửa. Nó được gắn khóa điện tử kiên cố. Cần có thẻ từ dành cho nhân viên để đi qua. Gray nhíu mày. Làm thế nào Polk có thể vào trong? Gray chạm vào micrô và nối cuộc gọi đến trung tâm chỉ huy.
Painter trả lời lập tức. “Trung tá?”
“Thưa ngài, tôi cần hỗ trợ.” Gray giải thích về nơi tín hiệu kết thúc. “Tôi cần đi qua lối này.”
“Giữ máy, Gray. Tôi sẽ nâng cấp thẻ chứng minh của anh để xâm nhập được vào các bảo tàng của Smithsonian.” Yên lặng bao trùm trong khoảnh khắc. Gray hình dung ra vị giám đốc đang bồn chồn gõ vào chiếc máy tính.
Cạnh ông, Kowalski thong thả dựa vào bức tường kế bên, huýt sáo qua kẽ răng.
“Thử đi,” Painter cất tiếng yêu cầu.
Gray ấn mạnh chiếc thẻ, ông nghe thấy tiếng lẫy khóa bật mở. “Được rồi. Tôi sẽ cho ông biết chúng ta tìm được gì.”
Ngưng cuộc gọi. Gray cúi người bước nhanh qua cửa và bắt đầu tìm kiếm những ngõ ngách cấm của bảo tàng. Không hoàn toàn khác biệt so với những phần còn lại của bảo tàng, chỉ có điều tiện dụng hơn: sàn nhà bằng cẩm thạch được mài láng bóng, rực rỡ bởi những bước chân ngược xuôi hàng thập niên, hệ thống ánh sáng huỳnh quang vàng và những cánh cửa gỗ có gắn kính mờ khắc tên các ngành khoa học.
CÔN TRÙNG HỌC, ĐỘNG VẬT HỌC KHÔNG XƯƠNG SỐNG, CỔ SINH HỌC, THỰC VẬT HỌC.
Dấu vết dẫn qua một mê cung – sau đó tín hiệu thu nhận được nhích lên cao hơn khi họ đến gần một cánh cửa không có biển báo. Gray lắc máy dò Gamma-Scout về hướng tay cầm. Những con số nhấp nháy tăng vọt. Lùi về phía sau, Gray nhận ra một tín hiệu yếu hơn tiếp tục chạy dọc tiền sảnh. Hành lang phía trước kết thúc bằng một khoảng không khá sâu, kéo dài đến những cánh cửa thép cuốn rộng lớn. Khu xếp dỡ của bảo tàng. Gray quan sát bên trên và bên dưới tiền sảnh, mường tượng ra hình thù ma quái của Polk. Vị giáo sư chắc chắn đã lẻn vào nhà thờ qua khu chứa hàng rồi ra ngoài bằng cửa chính của bảo tàng.
Lẽ nào ông ta làm thế để cắt đuôi ai đó?
Kowalski thử tay nắm cửa. “Không khóa,” anh ta vừa nói vừa đẩy để chứng minh.
Không gian tối tăm phía trước ngập mùi bụi bặm, cỏ khô và gỗ tuyết tùng.
Gray bước vào trong, phát hiện một công tắc điện. Ông bật nó. Giá và kệ chất đầy cả một nửa không gian trải dài phía sau. Những chiếc thùng bằng gỗ đóng thưa được dán nhãn vận chuyển tàu thủy xếp chồng lên nhau dọc về một bên. Vài thùng đã bị mở tung. Những bao rơm đã cũ và mấy bao đậu phộng được đóng gói bằng công nghệ nhựa mềm hiện đại hơn vương vãi trên sàn nhà.
Một kho chứa hàng.
Bên trái cánh cửa là chiếc bàn duy nhất được trang bị máy tính và máy in. Phía bên kia có mấy chiếc bàn trải dài đựng đầy đồ gốm và những khối đá trang trí xếp thành từng cụm. Ai đó đang kiểm kê hàng hóa. Vài vật thể lớn hơn nằm trên những tấm đệm sàn bằng gỗ phía sâu trong căn phòng: bức tượng cẩm thạch một phụ nữ gãy cả hai tay, một bức điêu khắc có hình đầu bò bằng đồng đã bị ăn mòn, bệ nền của một cây cột trụ bằng đá.
Gray lần theo dấu vết bên trong, tự hỏi điều gì đã dẫn vị giáo sư ghé vào đây. Hay chỉ là ông đang trốn tránh một viên bảo vệ đi ngang qua. Nhưng đường đi của vị giáo sư có vẻ trực diện. Nó dẫn thẳng đến một trong những hiện vật nằm trên tấm đệm sàn, một mái vòm chạm khắc từ đá. Hiện vật cao ngang hồng với một cái lỗ trên đỉnh. Nó trông giống như một mô hình núi lửa bằng đá hoa cương nếu như không có chữ khắc phía trên. Gray ngả người về phía khắc mục.
Tiếng Hy Lạp cổ.
Gray nhíu mày dùng máy dò Gamma-Scout kiểm tra.
Dấu vết của Polk quanh quẩn ở tấm đệm sàn. Gray lần theo bước chân ông. Tại sao Polk lại bị cuốn hút bởi hiện vật này?
Có tiếng đổ vỡ vang lên phía bên trái trước khi ông kịp ngắm kĩ hơn hiện vật. Ông quay sang nhìn Kowalski đang lùi xa một chiếc bàn. Phần chuôi của một cái lư nằm gọn trong tay anh ta. Phần còn lại chiếc bình vỡ tan dưới chân. “Nó… nó bể rồi.”
Anh ta đúng là có năng khiếu bẩm sinh.
Gray lắc đầu. Đáng lẽ ông phải để Kowalski đứng ngoài hành lang. Anh ta giống như một kẻ vô dụng – có điều kẻ vô dụng còn có thể kiểm soát bản thân tốt hơn.
“Nó bị lung lay, chết tiệt thật!” Anh ta tức giận tự trách cứbản thân. “Lại đây nhìn cái này đi.” Cái chuôi gãy chỉ về hướng chiếc bàn.
Gray bước lại gần anh chàng vệ sĩ. Trên bàn có mấy ngăn xếp chứa những đồng xu Hy Lạp cổ. Một đồng xu đã biến mất, chỉ còn lại ô trống ở hàng thứ hai. Đó có thể là đồng xu của Polk? Phải chăng đây chính là nơi ông ta đã lấy nó?
“Tôi va phải cái chân đỡ. Đã cố chụp lấy nó.” Kowalski cẩn thận đặt cái chuôi vỡ lên bàn. “Nó tuột khỏi tay tôi.”
“Đừng lo. Họ sẽ trích một ít lương của anh ra thôi mà.”
“Chết tiệt. Anh nghĩ là nó đáng giá bao nhiêu?” “Một vài trăm.”
Một tiếng huýt gió nhẹ nhõm phát ra. “Chà cũng không đến nỗi tệ lắm.”
“Một vài trăm ngàn,” Gray chỉnh lại.
“Ôi trời, mẹ kiếp…”
Phản ứng của Kowalski bị đứt đoạn bởi tiếng nắm cửa kêu lách cách. Gray chuẩn bị xoay người lại thì bàn tay đeo găng dày cộm của Kowalski đã chụp lấy phần trên cánh tay ông mà giật mạnh về phía sau. Anh ta lấy thân che chắn cho Gray trong lúc nhẹ nhàng rút ra một khẩu súng lục cỡ nòng 0,45 từ chiếc bao da trên vai.
Dáng hình mảnh khảnh của một phụ nữ trẻ tiến vào. Cô lóng ngóng cầm ví, không biết đến sự có mặt của hai người đàn ông trong phòng. Thậm chí cô còn mò mẫm bật công tắc đèn rồi mới đồng thời nhận ra hai điều: đèn đã mở và một người đàn ông sừng sững tựa quả núi đang chĩa súng ngang ngực cô.
Cô thét lên và va vào rầm cửa, hoảng sợ đến nỗi không tìm được lối ra.
“Xin lỗi,” Kowalski vừa nói vừa chĩa súng về phía trần nhà.
Gray nhanh chóng đi vòng ra trước anh chàng vệ sĩ ngớngẩn “Không sao đâu thưa cô. Chúng tôi là đội an ninh của bảo tàng. Chúng tôi đang điều tra một vụ đột nhập.”
Kowalski chĩa khẩu súng lục vào chiếc bình vỡ tan trên sàn nhà. “Phải, ai đó đã làm vỡ nó.” Anh chàng vừa liếc về phía Gray mong chờ sự xác nhận và hợp tác vừa tra súng vào bao.
Cô gái ôm chặt ví trước ngực. Tay kia chỉnh lại cặp mắt kính nhỏ nhắn cho cao hơn. Với mái tóc màu hạt dẻ cắt ngắn quá vai và thân hình mảnh khảnh, cô không khác gì một cộng sự học năm thứ hai đại học, nhưng nếu nhìn kĩ những nếp nhăn quanh đôi mắt đang lộ rõ sự nghi ngờ thì có lẽ cô già hơn đến mười tuổi.
“Tôi có thể xem thẻ chứng minh chứ?” Cô quả quyết hỏi và vẫn đứng gần cửa ra vào.
Gray chìa ra thẻ căn cước màu đen của mình. Nó có hình thẻ cùng với con dấu tổng thống màu vàng được khắc nổi. “Tôi có cả số điện thoại, cô có thể gọi để xác nhận chúng tôi là ai.”
Cô nheo mắt nhìn ngay tại lối vào, có vẻ đã nhẹ nhõm đôi chút nhưng căng thẳng vẫn còn đè nặng. Cô quan sát xung quanh căn phòng. “Có gì bị đánh cắp sao?”
“Có lẽ cô là người biết rõ hơn ai hết,” Gray đáp, mong chờ cô giúp ích được phần nào. “Tôi phát hiện thấy rõ ràng có một đồng xu biến mất trên cái bàn này.”
“Gì cơ?” Cô vội vã đi tới, không chút do dự. Chỉ một cái thoáng nhìn đủ khiến sắc mặt cô trở nên đau khổ. “Ôi, không… chúng tôi mượn bộ sưu tập này từ bảo tàng Delphi.”
Lại là Delphi.
Cô nhìn qua mái vòm khắc trên đá, cái hiện vật có vẻ như đã lôi cuốn sự chú ý của Polk. Cũng có thể là do Kowalski đang dựa vào nó. “Làm ơn đừng đụng vào đó.”
Kowalski đứng bật dậy. Anh ta săm soi lòng bàn tay như thể nó mới là kẻ cần bị đổ lỗi. Anh ta đỏ mặt bẽn lẽn. “Xin lỗi.”
“Cho phép tôi hỏi đây là vật gì vậy?” Gray nghiêng người về phía tảng đá, thắc mắc một cách ngẫu nhiên.
Hai tay cô siết chặt đầy lo âu. “Hiện vật quý giá trong bộ sưu tập. Dành cho triển lãm sắp tới. Cảm ơn Chúa, nó không bị kẻ cắp phá hoại.” Cô đi vòng quanh kiểm tra cho chắc chắn. “Nó đã hơn một ngàn sáu trăm năm tuổi rồi đấy.”
“Nhưng nó là gì vậy?” Gray gặng hỏi.
“Nó được gọi là điểm trung tâm. Dịch nôm na là cái rốn. Thời Hy Lạp cổ đại, cái rốn được coi là trung tâm để vũ trụ xoay chuyển. Có nhiều truyền thuyết và chuyện kể liên quan đến cái rốn, những quyền lực vĩ đại gắn liền với nó.”
“Làm thế nào mà cô có được nó?”
Cô cúi xuống mặt bàn. “Nó cùng bộ sưu tập với những thứ còn lại. Mượn từ bảo tàng ở Delphi.”
“Delphi? Nơi mà Nhà Tiên tri sống trong ngôi đền riêng?”
Cô liếc nhìn Gray tỏ vẻ ngạc nhiên. “Đúng vậy. Cái rốn là biểu tượng danh dự trong chính điện tại đền thờ. Đó là căn phòng linh thiêng nhất.”
“Và đây là hòn đá ấy?”
“À không. Tiếc ở chỗ nó chỉ là một mô hình. Mọi người nghĩ đây là cái rốn nguyên bản theo như mô tả về lịch sử cổ đại của các triết gia Plutarch và Socrates. Nhưng hội thánh nữ của các nhà tiên tri Delphi thành lập cách đây ba thiên niên kỷ, còn hòn đá này được xác định chỉ có tuổi khoảng phân nửa ngần ấy thời gian.”
“Chuyện gì xảy ra với bản gốc?”
“Bị đánh mất theo dòng lịch sử. Không ai biết được.”
Cô đứng thẳng dậy và sải bước đến bên một chiếc áo khoác treo trên cái móc gần cánh cửa. Mặc áo xong, cô lấy tấm thẻ nhân viên bảo tàng trong áo sơ mi rồi gắn lên áo choàng.
Tình cờ Gray để ý tấm thẻ. Nó in hình và tên cô ở bên dưới.
POLK, E.
“Polk…” ông đọc to.
Một cảm giác ngờ vực nhói lên trong Gray. Ông bỗng nhiên hiểu ra tại sao vị giáo sư lại đến đây. “Chẳng hay cô có biết một người tên là Archibald Polk?”
Cô dồn ánh mắt về phía ông, chăm chú hơn bao giờ hết. “Cha tôi? Sao cơ?”