Nicolas Solokov đang chờ lắp đặt máy quay. Ông đã sẵn sàng tinh thần, khăn giấy nhét quanh cổ áo sơ mi tráng quết hồ, giữ cho lớp trang điểm trên mặt không dính vào áo sơ mi cũng như chiếc áo khoác công sở màu xanh. Ông trở về sau chuyến điều tra nội bộ tại một trong những khu nhà của bệnh viện. Đoàn phóng viên tin tức quốc tế vẫn đang chuẩn bị cho phần phát sóng trực tiếp buổi sáng ngay dưới bậc thềm của trại mồ côi.
Phía sau Trại trẻ Kiev, ánh nắng tràn ngập qua những khung cửa. Một nhân viên y tá lặng lẽ qua lại từng giường bệnh. Những ca tệ nhất được cất giấu nơi đây: một bé gái hai tuổi với khối u tuyến giáp không thể phẫu thuật, một cậu bé mười tuổi đầu phình to vì bị tràn dịch não, một chú bé nhỏ hơn với ánh mắt thẫn thờ.
Vì thần kinh chậm phát triển nghiêm trọng, cậu bé cuối cùng tay chân bị trói hết lại.
Nữ y tá, một điều dưỡng người Ukraina với dáng vóc khá vuông vức, mặc áo blouse khiến ông chú ý.
“Để cậu bé không tự làm mình đau, thưa Thượng nghị sĩ,” cô giải thích, mắt cô đã quá mệt mỏi chứng kiến biết bao nỗi đau.
Đó lại là những trường hợp tệ nhất. Năm 1993, một đứa trẻ sinh ra ở Moldova với hai đầu, hai trái tim, hai dây cột sống nhưng chỉ có một đôi tay và một đôi chân. Một đứa trẻ khác sinh ra với bộ não nằm ngoài hộp sọ.
Hậu quả để lại của thảm họa chernobyl.
Mùa xuân năm 1986, lò phản ứng hạt nhân số bốn của Nhà máy Điện Nguyên tử chernobyl đã nổ tung vào nửa đêm. Trong khoảng thời gian mười ngày, lượng phóng xạ lan tỏa một vùng rộng lớn bao phủ trái đất, tương đương với bốn quả bom nguyên tử từng thả ở Hiroshima. Đến nay, theo như Viện Khoa học Y tế Nga, trên một trăm ngàn người chết vì phóng xạ rò rỉ và thêm bảy triệu người khác bị phơi nhiễm, hầu hết là trẻ em, để lại hậu những quả tiếp diễn như ung thư hay các dị tật di truyền.
Giờ đây làn sóng bi kịch lại đang bắt đầu, ở nơi mà những người từng bị nhiễm phóng xạ khi còn nhỏ cho ra đời những mầm sống mới. Tỷ lệ dị tật sơ sinh tăng 30 phần trăm đã được thống kê báo cáo.
Vì lý do ấy, những nhà lãnh đạo dễ bị thuyết phục và thiếu kiên định của Hạ viện Quốc hội Nga đã tới đây. Vùng Chelyabinsk nơi Nicolas có mặt cách đó cả ngàn dặm cũng bị ảnh hưởng tương tự. Phần lớn nhiên liệu cho nhà máy chernobyl cùng với cả plutonium cho chương trình vũ khí của Xô viết được khai thác tại dãy núi Ural thuộc vùng này. Nơi đó là một trong những điểm chứa phóng xạ lớn nhất hành tinh.
“Đã sẵn sàng rồi thưa Thượng nghị sĩ,” người sĩ quan phụ tá cất lời.
Ông quay sang đối diện cô.
Elena Ozerov, một phụ nữ với mái tóc đen nhánh gọn gàng ở độ tuổi hai mươi trẻ trung, nước da ám khói, bộ trang phục công sở màu đen che đi khuôn ngực nhỏ có vẻ như đang biến cô thành một thứ gì đó lưỡng tính. Trông cô nghiêm nghị, lầm lì, luôn ở bên cạnh ông. Báo chí xem cô như là Rasputin của Nicolas, nhưng điều đó không khiến ông ngã lòng.
Tất cả bởi vì kế hoạch chính trị của ông được coi là một cải cách táo bạo, đồng thời mang hơi hướng vinh quang của Đế chế Nga hoàng chuyên quyền xưa kia. Ngay cả tên ông cũng trùng với tên vị Nga hoàng cuối cùng của triều đại Romanov, Nicolas II, người bị bỏ tù và giết hại ở Yekaterinburg nơi Nicolas ra đời. Mặc dù suốt cuộc đời là một nhà lãnh đạo thất bại, vị Nga hoàng ấy sau khi chết vẫn được Giáo hội Chính thống Nga phong thánh. Các giám mục xây Nhà thờ Dòng chúa Cứu thế có mái vòm dát vàng trên mảnh đất mà gia đình ông bị sát hại. Công trình ấy đã đánh dấu sự hồi sinh của nhà Romanov.
Vài người cho rằng Thượng nghị sĩ bốn mươi mốt tuổi Nicolas Solokov là một Nga hoàng tái sinh, bởi mái tóc đen rủ và chòm râu quai nón gọn gàng của ông.
Ông ủng hộ những so sánh như vậy.
Khi nước Nga đang gượng mình đứng dậy bằng đôi chân đã lung lay – vì gánh nặng nợ nần và nghèo đói, tham nhũng hối lộ hoành hành – cần có một nhà lãnh đạo mới cho một thiên niên kỷ chuyển giao.
Nicolas dự định trở thành người lãnh đạo ấy.
Và nhiều hơn thế nữa.
Ông cho phép Elena lôi ra hết mớ khăn giấy quanh cổ áo. Cô nhìn từ trên xuống dưới, gật đầu vâng lệnh.
Nicolas bước về phía những ngọn đèn đường đang chờ ông bên ngoài.
Ông đẩy cửa, Elena thận trọng đi theo. Một chiếc bục nằm ngay đầu cầu thang, tên của trại mồ côi phía sau lưng ông được đóng khung trên đó.
Ông tiến đến dàn micrô dựng sẵn trên bục, giơ cao tay che chắn một loạt những câu hỏi đang dồn dập phía trước, ông nghe thấy một phóng viên hét lớn để hỏi ông về mối ràng buộc trước đây với KGB, mối quan hệ tài chính của gia đình ông trong những hoạt động khai thác tầm vĩ mô ở dãy núi Ural. Khi ông lên nắm quyền, tiếng nói của những kẻ tìm cách hạ bệ ông cũng tăng theo.
Phớt lờ những câu hỏi, ông bắt đầu chương trình nghị sự của riêng mình.
Cúi người về phía hàng micrô, giọng ông vang lên, át cả những lời phỏng vấn gấp gáp. “Đã đến lúc khép lại những lối đi này!” ông hét lớn, chỉ vào cánh cổng trại mồ côi ở phía sau. “Những đứa trẻ Ukraina, Belarus, của Đất mẹ Nga đã phải chịu đựng tội lỗi của chúng ta trong quá khứ. Điều đó sẽ không bao giờ lặp lại nữa!”
Những giận dữ trong Nicolas vỡ òa. Ông biết dáng vẻ của ông sẽ ra sao trước máy quay. Một gương mặt rắn rỏi của những cải tổ và oán hận. Ông tiếp tục lời kêu gọi đầy nhiệt huyết cho một viễn cảnh mới của nước Nga, lời kêu gọi hành động, lời kêu gọi hướng về tương lai nhưng không bỏ quên quá khứ.
“Trong vòng hai ngày kể từ hôm nay, lò phản ứng hạt nhân số bốn ở chernobyl sẽ bị niêm phong dưới một vòm thép mới. Chiếc quan tài mới sẽ đánh dấu kết thúc thảm kịch và sẽ mãi là một đài tưởng niệm dành cho tất cả những con người đã hi sinh sự sống của bản thân nhằm bảo vệ Tổ quốc cũng như bảo vệ thế giới này. Những người lính cứu hỏa đã vững chí giữa hiểm họa phóng xạ thiêu đốt tương lai họ. Những phi công đã mạo hiểm đối mặt với bầu không khí độc hại để chuyên chở bê tông và vật liệu. Những thợ mỏ đến từ khắp nơi của đất nước đã hỗ trợ xây nên nền móng đầu tiên để chôn vùi lò phản ứng. Những người đàn ông và phụ nữ đầy vẻ vang, sục sôi niềm tự hào dân tộc, là trái tim thực sự của nước Nga! Đừng bao giờ lãng quên họ, sự hy sinh xương máu của họ!”
Dòng người phía sau các phóng viên bắt đầu đông dần khi Nicolas phát biểu, ông được khích lệ bởi những lời động viên, những tiếng vỗ tay lúc tạm nghỉ.
Đây là lần đầu tiên trong số biết bao lần phát biểu, ông viện dẫn đến một nghi lễ tại chernobyl, nơi cỗ Quan tài mới sẽ phủ lên cái nhân của lò phản ứng đã chết ngấm. Lá chắn bằng bê tông cũ với tuổi thọ hai mươi năm, có vẻ như lắp đặt với quy mô ngắn hạn cũng đã nứt nẻ. Chiếc Quan tài mới nặng mười tám ngàn tấn và cao khoảng một nửa tháp Eiffel. Đó là công trình lớn nhất trên trái đất có thể di dời.
Những chính trị gia khác đã tận dụng những lợi thế và phát biểu tương tự cho sự kiện bầu cử. Nhưng Nicolas tỏ ra mạnh mẽ và hùng hồn nhất, một nhà vô địch trong cải cách vấn đề hạt nhân, với ý định dọn dẹp những lò hạt nhân trên khắp đất nước. Nhiều người tìm cách dập tắt phát ngôn của ông vì phí tổn quá mức. Những thành viên hạ viện chế nhạo và chỉ trích ông trước báo chí.
Nhưng Nicolas vẫn kiên quyết rằng mình đúng.
Và họ sẽ nhận ra một ngày không xa.
“Và hãy ghi nhớ những lời tôi nói!” ông tiếp tục. “Trong lúc chúng ta đặt dấu ấn kết thúc một chương cho lịch sử nước nhà, tôi e ngại rằng chúng ta mới chỉ dùng đến một nỗ lực nhỏ để ngăn ngừa thảm họa lớn. Quá khứ nền hạt nhân của ta chưa kết thúc với chính bản thân chúng ta… và cả thế giới. Khi thời điểm đến, tôi hy vọng chúng ta sẽ đồng lòng kiên cường như những con người anh hùng kia đã từ bỏ tương lai của bản thân họ, trong cái ngày bi thảm ấy. Vì vậy hãy đừng lãng phí món quà họ đã trao tặng chúng ta. Hãy cùng nhau đem đến một thời kỳ Phục hưng mới! Từ đốm lửa, một thế giới mới cũng có thể sinh ra.”
Ông cảm nhận ánh mắt ông ngời sáng khi phát biểu những lời sau cuối ấy. Đó là khẩu hiệu cải cách của ông.
Một thời kỳ Phục hưng mới.
Một thời kỳ Phục hưng của nước Nga.
Tất cả những gì cần làm là một chút nỗ lực cho một hướng đi đúng.
Elena khom lưng về phía ông, chạm lấy khuỷu tay, muốn nói điều gì đó. Ông bỗng nghiêng người bởi một phát nổ giòn từ khẩu súng trường bắn xuyên qua công viên bên kia đường. Ông nhìn thấy một tia lửa lóe lên từ họng súng, chỉ một phần tư giây trước khi thứ gì đó bay đến xé toạc mang tai ông.
Một tên bắn tỉa.
Một vụ ám sát.
Elena kéo ông thụp xuống sau chiếc bục, đám đông bắt đầu la hét, kêu gào. Hỗn loạn diễn ra trong thoáng chốc. Nicolas tận dụng khoảnh khắc đó hôn lên môi Elena. Bàn tay ông vuốt mái tóc dài của cô; ngón tay mân mê đường cong của mảnh thép ôm chặt lấy phần xương phía sau tai cô, kết quả của một cuộc phẫu thuật.
Hơi thở ông thầm thì qua nụ hôn.
“Mọi việc êm xuôi cả.”
10:25 tối
Thủ đô Washington, D.c.
Painter cũng đến gần lối ra nơi Gray đứng, chăm chú quan sát các phân cảnh, ông thấy hai lính gác bị súng khống chế.
Bóng người đàn ông trên bậc cửa cất giọng, hình như đã cảm nhận được sự có mặt của họ. “Chúng tôi không có ý làm hại ai,” chất giọng sắc gọn của người Đông Âu.
Painter nhìn chăm chăm vào kẻ lạ mặt trên màn hình. Rồi đến bé gái đứng cạnh kẻ lạ mặt, đang nắm bàn tay hắn. Cô bé nhìn thẳng vào máy quay bị che khuất.
Người đàn ông ấy lại kêu gọi. “chúng tôi là đồng minh của Archibald Polk!” Nghe có vẻ thiếu tự tin, cứ như thể ông ta băn khoăn liệu những người trong căn nhà ấy có hiểu được ý mình. “Chúng tôi không có nhiều thời gian!”
Elizabeth lảng vảng sau lưng Painter. Họ cùng nhìn vào màn hình. Nếu có được câu trả lời nào cho số phận của cha cô, cũng đáng để liều cho số phận của cha cô, cũng đáng để liều mình. Nhưng đừng là mạo hiểm quá sức. Painter bật công tắc liên lạc rồi nói.
“Nếu các ông là đồng minh, ông nên thả người của chúng tôi và bỏ vũ khí xuống.”
Người đàn ông bên mái hiên lắc đầu. “Chừng nào các anh chứng minh được chúng tôi có thể tin tưởng các anh. Chúng tôi đã mạo hiểm mang cô bé tới đây, chúng tôi đã tự lộ diện.”
Painter liếc nhìn Gray, ông nhún vai.
“Chúng tôi sẽ để ông vào,” Painter trả lời. “Nhưng chỉ có ông và đứa bé.”
“Tôi sẽ giữ người của các ông bên ngoài để đảm bảo an toàn cho chúng tôi.”
Kowalski đứng cạnh họ làu bàu. “Một đại gia đình hạnh phúc.”
Painter ra hiệu cho Gray dẫn Elizabeth đi vòng sang góc nhà.
Painter vẫn đứng một bên cửa. Kowalski đứng ở hông cửa bên kia, vẫn mang đôi vớ dài. Anh chàng to lớn giơ lên vũ khí duy nhất: chiếc giày.
Cuối cùng cũng phải làm điều đó.
Painter tháo chốt, vặn mở cánh cửa. Kẻ lạ mặt đưa lòng bàn tay trống trơn ra chứng minh, cô bé vẫn nắm tay ông ta. Cô bé áng chừng nhỏ hơn mười tuổi, mái tóc đen hợp với màu váy ca- rô xám đen. Người đàn ông có nước da màu ô liu, cái bóng hướng năm giờ đổ xuống nặng nề. Có thể là người Ai cập hoặc Ả Rập. Đôi mắt nâu đậm ngả thành màu đen dưới ánh sáng của mái hiên, biểu lộ thận trọng trước mối đe dọa. Ông ta mặc chiếc quần bò cùng với áo gió đỏ thẫm.
Kẻ lạ mặt quay đầu lại nhưng không rời mắt khỏi cánh cửa đã mở, ông ta lớn tiếng yêu cầu gì đó. Painter không hiểu được thứ ngôn ngữ ấy nhưng ông đoán đó là một mệnh lệnh cảnh giác thông qua ngữ điệu.
“Hắn là một người Gypsy,” Kowalski lẩm bẩm.
Painter liếc nhìn anh chàng cao to.
“Có một gia đình ở cuối đường nhà tôi” Kowalski chĩa ngón cái về phía kẻ lạ mặt. “Anh ta đang nói tiếng Romani.”
“Anh ấy nói đúng,” kẻ lạ mặt lê n tiếng. “Tên tôi là Luca Hearn.”
Painter mở rộng cửa, ra hiệu cho người đàn ông vào trong.
Ông ta thận trọng bước qua tiền sảnh, gật đầu chào Painter và Kowalski. “Sastimos.”
“Nais tuke,” Kowalski đáp. “Nên biết là tôi chỉ nhớ được tiếng Romani có chừng đó thôi.”
Painter dẫn Luca và đứa trẻ trở vào trong phòng khách, chân tay cô bé hơi run rẩy khi di chuyển. Gương mặt cô bé ánh lên vẻ bồn chồn.
Luca để ý thấy Gray đứng một bên, cầm theo khẩu súng ngắn.
Painter vẫy tay ra lệnh cho Gray hạ vũ khí. Ông cảm nhận người đàn ông kia hoàn toàn không có vẻ đe dọa, chẳng qua chỉ là chút thận trọng khó lay chuyển được.
Elizabeth bước về phía trước. “Anh nhắc đến cha tôi.”
Luca cau mày tỏ ra không hiểu.
Painter giải thích, “cô ấy là con gái của Archibald Polk.”
Mắt ông ta mở to. ông cúi đầu trước mặt cô. “Tôi lấy làm tiếc vì những mất mắt của cô. Ông ấy rất tuyệt vời.”
“Ông biết gì về cha tôi?” cô hỏi. “Bé gái này là ai?”
Đứa trẻ rụt lại, không còn nắm tay người đàn ông và tiến về phía bàn. cô bé quỳ xuống, đung đưa người từ trước ra sau.
“Cô bé ư?” Luca đáp lời. “Tôi không biết nữa. Một điều huyền diệu. Tôi đã nhận được tin nhắn từ cha cô. Một tin nhắn thoại có vẻ điên rồ. Nó rất lộn xộn, gấp gáp. Ông ấy yêu cầu chúng tôi mua mười hai đầu thu Cobra Marine ở Radio shack rồi chỉnh sang một tần sóng xác định. Ông lảm nhảm đọc ra những con số, có vẻ như mất trí. Ông muốn chúng tôi khoanh vùng công viên National Mall. Để tìm ra một món hàng có thể bật được những đầu thu.”
“Món hàng sao?” Paintertò mò.
Luca hướng ánh nhìn về phía đứa trẻ. “Là cô bé.”
“Cô bé?” Elizabeth thấy choáng váng. “Tại sao cơ?”
Luca lắc đầu. “Chúng tôi nợ cha cô, chúng tôi đã làm theo những gì ông bảo. Thậm chí đến cả công viên Mall khi ông bị bắn, mặc dù không biết là cha cô cho đến tận sau đó. Nhưng chúng tôi cũng lần ra dấu vết của đứa trẻ.”
Painter quan sát cô bé. Phải có một con bọ, một máy thu phát cực nhỏ ở đâu đó trên người cô bé.
“Chúng tôi theo chân cô bé đến sở thú, ở nơi đó mới có thể bắt được cô bé mà không ai để ý.”
“Ông bắt cóc cô bé sao?” Painter xác nhận lại.
Ông ta nhún vai. “Lời nhắn cuối cùng là hãy đánh cắp món hàng và mang nó đến nơi nào đó hay ai đó tên là Sigma.”
Painter khá choáng váng.
“Rồi đột ngột cúp máy,” Luca tiếp lời, “không chỉ dẫn hay giải thích gì thêm. Bắt được cô bé, chúng tôi phải nhanh chóng dời đi. Chúng tôi sợ những người khác sẽ đến tìm cô bé. Ai đó có thể lần theo dấu vết cô bé như chúng tôi đã làm. Đặc biệt là báo động Hổ Phách đã lan tỏa khắp các vùng. Nhưng chúng tôi vẫn chưa biết gì về cái tên Sigma mà vị giáo sư nhắc đến. Trong khi lòng vòng chạy trốn, cố tìm ra ý nghĩa của nó thì cô bé bắt đầu vẽ rất hăng.”
Ông ta chỉ vào đứa trẻ lúc này đã đứng dậy và bước đến bức tường trống, cô bé nhặt một miếng than từ lò sưởi rồi quẹt lung tung lên tường, nét vẽ nhát gừng, chỗ này một đường, chỗ kia một vệt.
“Cô bé sẽ không ngừng lại,” Luca bổ sung thông tin. “Cô bé vẽ một công viên toàn cây cùng hình ảnh cây cầu Rock Creek.”Ông ta hướng ra cửa sổ gật gù. “Sau đó là ngôi nhà giữa một rừng cây. Chúng tôi phải loanh quanh khu công viên để tìm kiếm vì tin rằng đây là hình ảnh quan trọng. Lúc tìm được chỗ này, cô bé lại vẽ một bức khác mà tôi đã nhét qua khe cửa.”
Luca tập trung nhìn họ. “Bức vẽ có tất cả mọi người ở đây. Bạn bè và gia đình của giáo sư Polk. Nên tôi muốn hỏi mọi người liệu có biết đến cái tên Sigma này không?”
Painter rút ra một thẻ căn cước màu đen sáng bóng. Trên đó có in hình thẻ cùng với con dấu tổng thống. Trên bề mặt khắc ký tự Hy Lạp viết tay.
Luca ngắm nghía, vặn vẹo nó trên tay để đọc dòng chữ viết tay. Mắt ông bừng sáng khi nhận ra điều gì đó.
Trong lúc họ nói chuyện, Gray đến bên đứa trẻ. Ông ngồi xổm quan sát tác phẩm của cô bé. Ông xoa xoa cằm. Có một thứ khiến ông phải chú ý. Gray nhấc một ngón tay kẹp giữa hai đầu gối, giống như dấu hiệu cầu thủ bắt bóng truyền cho cầu thủ ném bóng. Hướng về phía cô bé.
Gương mặt cô bé sáng bừng lên. Đầu hơi nghiêng sang một bên. Đôi mắt cô vẫn mở nhưng không dõi theo những nét than chì nguệch ngoạc, ông nhận xét là cô bé không tỏ vẻ rối bời như những gì cô thể hiện bên ngoài.
Painter cũng chú ý đến bức vẽ. Tóc cô bé bết mồ hôi, để lộ phần sau gáy. Một ánh thép rọi sáng. Không thể nhầm lẫn, hình dạng y hệt như thiết bị gắn trên chiếc đầu lâu kỳ lạ.
Chỉ có điều nó được gắn trên một đối tượng sống.
Archibalk đã làm gì với những đối tượng ấy?
Trong khi đầu óc Painter quay cuồng với những khả năng có thể xảy ra, Elizabeth đứng đằng sau căn phòng quan sát. Cô chỉ về phía bức tường. “Lại đây xem này,” giọng cô run rẩy như ẩn chứa sợ hãi.
Painter lui lại gần cô. Cô đưa tay vào tác phẩm vừa mới hoàn thành. Từ khoảng cách xa, nét vẽ nguệch ngoạc đơn giản bỗng nhiên định hình. Ông nhìn ngắm sự biến đổi dần lộ rõ, bốn phút lặng im dài lê thê.
Elizabeth lắp bắp trong kinh ngạc “Đó… đó là…”
“… đền Taj Mahal,” Painter kết thúc.
Bất ngờ nối tiếp bất ngờ, một âm thanh từ đằng xa vang vọng lại.
-whump, whump-
Một chiếc trực thăng bay thấp, đang đến gần hơn.
Gray đứng thẳng dậy tiến về phía đứa trẻ. “Có ai đó phát hiện ra chúng ta!”
6:02 sáng
Thành phố Kiev, Ukraine
Nicolas lăn mình khỏi người Elena, đặt lưng nằm xuống.
Chiếc quạt trần trong căn phòng khách sạn hong khô cơ thể đẫm mồ hôi của ông. Phần lưng hông đau nhức, hai vai bị trầy xước vẫn còn bỏng rát. Elena xoay người chạm chân xuống đất, mái tóc rối tung nhẹ nhàng đung đưa, buông dọc sống lưng. Đường cong nhấp nhô từ cặp hồng thon khêu gợi ông lần nữa. Cô sải bước về phía phòng tắm, ông cựa mình vì sự khuấy động ấy nhưng chợt nhận ra còn cuộc phỏng vấn khác trong nửa giờ tới.
Vụ ám sát bất thành đã lan tỏa rộng khắp, ông sẽ có mặt trong từng bản tin quốc tế. Ông cũng đã nắm thông tin kẻ bắn tỉa bị cảnh sát hạ gục, chết trên đường đến bệnh viện.
Bằng cái chết, sẽ không còn ai nghi ngờ rằng mọi thứ thật ra được sắp đặt từ trước. Ngay cả tên sát thủ – một công nhân mỏ ở Polevskoy, có người anh trai bị chết trong một tai nạn nghề nghiệp năm ngoái – cũng chẳng bao giờ biết được hắn bị thao túng một cách khéo léo trong kế hoạch ám sát ra sao.
Mọi thứ được công khai nhờ độ chính xác kĩ thuật. Elena đã tính toán thời gian thật hoàn hảo cho cú chạm của mình. Một kĩ năng riêng biệt. Khi được cung cấp thông tin, cô có thể tính toán xác suất lên đến mức n. Những phân tích thống kê của cô dành cho các giải trình thương mại sánh kịp với các nhà kinh tế giỏi nhất trên thế giới. Từng học qua đặc điểm kĩ thuật của hầu hết các loại súng ngắn và súng hạng nhẹ, cô chỉ cần xem qua cách vũ khí được cầm và nhắm để xác định chính xác đường đạn.
Tin tưởng điều này, ông đã đặt tính mạng mình vào tay cô sáng nay.
Và vẫn sống sót.
Khoảnh khắc ở đằng sau chiếc bục, ông không hề cảm nhận thấy sự trói buộc nào đang tồn tại, tính mạng của ông chỉ còn phụ thuộc vào lòng bao dung con người, cả cuộc đời sống trong kiểm soát, một khoảnh khắc được nới lỏng kìm kẹp ấy cũng nhen lên trong ông cảm xúc rộn ràng. Để rồi sau đó, ông không thể cưỡng lại ý muốn quay trở về khách sạn thật nhanh.
Mình trần còn đẫm nước, Elena bước ra khỏi phòng tắm, dựa vào lối ra. Ham muốn trong đôi mắt cô dần lắng xuống – kéo theo tia khao khát dục vọng cuối cùng từ trong chuỗi thần kinh kích thích gia tăng. Con sư tử cái bốc lửa bỗng biến thành một chú mèo con mơ màng. Nicolas vẫn ngắm nghía cục than hồng sót lại trong đám lửa ấy – một sự hòa trộn của nhu cầu xác thịt và lòng hận thù – nhưng ngay cả điều đó cũng sẽ tan biến thành sự phục tùng hững hờ, khờ dại.
Kích thích nhờ mảnh cấy ghép ấy là cần thiết – không chỉ để cho cuộc giao hoan thêm nồng nhiệt mà còn khởi động một phản ứng sinh lý thích hợp, tăng khả năng duy trì nòi giống. Nicolas đã đọc qua những nghiên cứu. Và mẹ của ông muốn có những đứa cháu, chấp nhận cả hôn nhân giữa Nicolas và Elena. Một sự kết hợp hoàn hảo: trí tuệ của ông và khả năng tính toán lạnh lùng của cô.
Sáng nay, Nicolas đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ khiến bà vui lòng.
Thân mình ông còn hằn những vết thâm xây xát để chứng minh điều đó.
Thế nhưng, có thể bà sẽ không cho phép Elena trói ông vào cột giường và dùng chổi lông mà quất vào đùi ông. Giai đoạn trưởng thành, mẹ ông luôn nhắc nhở:
Mục đích luôn biện minh cho phương tiện.
Mẹ ông là người có nhiều trải nghiệm.
Chuông điện thoại réo vang trên chiếc bàn đầu giường. Elena sải bước, nhấc điện thoại trả lời rồi chuyển ống nghe cho ông.
“Thiếu tướng Savina Martov,” giọng Elena đã lạnh lùng và xã giao trở lại. “Gọi cho thượng nghị sĩ.”
Ông cầm máy thở dài. Như thường lệ, sự lựa chọn thời điểm của bà luôn hoàn hảo. Chắc chắn bà đã nghe tin về nỗ lực ám sát bất thành. Bà muốn có một cuộc thẩm tra đầy đủ và phải đang thắc mắc rằng tại sao ông không báo cáo. Kế hoạch những ngày tiếp theo sẽ gắn chặt với một nút thắt không thể gỡ gạc – cho cả hai mục tiêu – dẫn đến việc chính thức niêm phong chernobyl. Không gì có thể chệch hướng.
Nicolas nhăn nhó nhấc cặp mông còn bầm tím.
Người gọi ngắt lời ông ngay từ đầu. “Ta có trục trặc, Nicolas.”
Ông thở dài. “Gì vậy mẹ?”
10:50 tối
Thủ đô Washington, D.c.
Gray bế cô bé trên tay vội vã băng qua sân trước. Trời đêm tháng chín lạnh lẽo trái hẳn với cái nóng hầm hập của đứa trẻ. Dưới lớp áo sơ mi, ông cảm thấy làn da cô bé bỏng rát. Cơn sốt đến bất ngờ khi cô bé tập trung hoàn thành bức vẽ. Gần như ngã gục lúc Gray rút mảnh than khỏi những ngón tay bé nhỏ. Cô bé còn tỉnh táo nhưng đôi mắt trống rỗng vô định, chân tay cứng đơ lạ lùng giống một con búp bê có kích thước người thật. Nét mặt như sáp nặn càng khiến búp bê thêm hoàn hảo.
Gray sờ vào mặt cô bé, nhận ra vẻ thanh tú của cặp lông mi bé xíu.
Ai có thể đối xử với đứa trẻ như vậy?
Họ phải bảo vệ an toàn cho cô bé.
Ra khỏi sân, Gray nhìn lên bầu trời tìm kiếm. Một chiếc trực thăng màu đen – thiết kế kiểu quân đội – đang bay rà rà mặt đất. Một chiếc khác lơ lửng trên cao ở cuối khu phố. Chiếc cuối cùng bay lòng vòng quanh công viên sau lưng họ.
Vòng vây hình tam giác.
Chiếc ô tô mui kín của họ vẫn yên vị trên lối đi. Luca cùng những người hộ tống có ba chiếc Ford suv giống hệt nhau đậu ở góc đường. Tộc trưởng người Gypsy tập hợp những anh em của ông lại. Ông lớn tiếng ra lệnh bằng tiếng Romani rồi chỉ tay khắp các hướng, yêu cầu họ tách ra. Ba người đàn ông chạy về hướng công viên nơi họ sẽ tản đi lần nữa. Hai người khác băng ngang đường rồi biến mất phía sau hai ngôi nhà. Có tiếng chó sủa vọng lại.
Ở phía trước, Kowalski cùng Elizabeth tiến đến chiếc Licoln Town Car nằm ở lối ra, cô nhấc điện thoại lên nghe.
Painter hướng về chiếc xe hơi nhỏ đậu bên lề đường, chiếc Toyota Yaris của một trong hai anh chàng vệ sĩ. Gray theo sau ông. Người cận vệ đã sẵn sàng trước vô lăng sau khi lính của Luca thả anh ra.
Painter mở cửa sau rồi quay sang Gray đón lấy đứa trẻ. Gray trao cô bé cho ông.
“Cô bé đang sốt cao,” Gray thông báo.
Ông gật đầu. “Khi nào an toàn, ta sẽ cho chăm sóc y tế. Tôi đã gọi cho Kat và Lisa báo cáo tình tình.”
Tiến sĩ Lisa Cummings, một bác sĩ y khoa dày dạn kinh nghiệm, có bằng tiến sĩ sinh lý học. Bà cũng là bạn gái của giám đốc. Đại úy Kat Bryant là một chuyên gia của Sigma trong lĩnh vực dịch vụ và hợp tác tình báo. Bà sẽ giám sát phẫu thuật tại hiện trường.
“Nhưng trước tiên,” mắt Painter hướng lên bầu trời trong lúc chui vào sau xe cùng đứa trẻ, “ta phải vượt qua vòng vây này.”
Bên kia đường, một chiếc Ford suv không bật đèn pha lao vút trên đường; chiếc còn lại lượn một vòng dứt khoát rồi xé gió đi về hướng ngược lại, ngang qua chiếc Toyota còn đang đỗ của Painter.
“Hi vọng mọi việc êm thấm,” Gray đáp lời.
Trước khi rời đi, Painter và Luca mang theo một trong số những đầu thu Cobra dùng để lần theo dấu vết cô bé ở công viên National Mall. Đúng như mong đợi của viên giám đốc, các thiết bị này thật ra là máy thu phát – có khả năng nhận và truyền tín hiệu. Painter đã hướng dẫn Luca cách bật sóng vô tuyến khi nhận được tín hiệu đặc thù để truyền phát. Luca cũng lệnh cho người của ông làm theo. Giờ này họ đã phân tán khắp các hướng, phát đi tín hiệu mã hóa của cô bé, tạo ra hàng loạt dấu vết, thậm chí còn mạnh hơn đầu thu phát siêu nhỏ gắn trên người cô. Dưới lớp bọc hỏa mù ấy, Painter hy vọng sẽ cùng đứa trẻ trốn thoát đến công sự ngầm của trung tâm chỉ huy Sigma. Tại đó, ông có thể cô lập tín hiệu, bảo vệ cho cô bé.
Gray rảo bước theo một hướng khác, tiến đến chiếc xe Town Car đang đợi sẵn. Kowalski trong lúc thiếu kiên nhẫn đã khởi động xe. Họ hướng về sân bay Quốc tế Reagan. Gray hình dung lại bức phác họa bằng than ngôi đền Taj Mahal. Lăng mộ nổi tiếng nằm ở Ấn Độ, đất nước mà giáo sư Polk lần cuối được nhìn thấy. Trước khi gặp cô bé, Gray đã quyết định sẽ mở rộng điều tra sang Ấn Độ, lần theo dấu vết của giáo sư Polk ở đó. Bức vẽ bí ẩn chỉ làm tăng thêm quyết tâm của ông.
Ở Ấn Độ, còn một người có thể mở lối hy vọng cho những nghiên cứu của Archibald Polk cũng như nơi ở của ông trước khi biến mất.
Elizabeth ngồi cạnh ô cửa mở, bồn chồn quan sát bầu trời. Gray ngồi sát lại trong lúc cô khóa điện thoại.
“Tôi đã liên lạc được với giáo sư Masterson,” cô lên tiếng. “Đồng nghiệp của cha tôi ở đại học Mumbai. Nhưng ông ấy không ở Mumbai. Mà ở Agra.”
“Agra sao?” Gray hỏi lại.
“Thành phố ở Ấn Độ nơi có đền Taj Mahal. Khi tôi gọi thì ông ấy đang ở đó. Ngay tại ngôi đền.”
Gray đảo mắt nhìn quanh phía trên chiếc Toyota khi nó lao vút khỏi lề đường và lướt đi. Chuyện gì đang xảy ra?
Trực thăng vẫn đảo ở trên đầu. Những con chim sắt bắt đầu giạt về hướng ngược lại, mồi nhử đã đánh lạc hướng chúng.
Gray động viên cô lần cuối. “Elizabeth, cô sẽ an toàn hơn khi ở lại đây.”
“Không, tôi đi với ông. Ông sẽ nhận ra Tiến sĩ Masterson không phải là người dễ dàng. Nhưng ông ấy biết tôi, ông ấy mong đợi tôi. Để có được hợp tác của vị giáo sư ấy, tôi cần có mặt.”
Ánh mắt của cả hai chạm vào nhau, ông đọc được một loạt những cảm xúc trên gương mặt cô: quyết tâm, sợ hãi và đau buồn đến tận xương tủy.
“Ông ấy là cha tôi,” cô nhấn mạnh. “Tôi phải đi.”
“Còn nữa,” Kowalski nói với qua từ vị trí lái. “Tôi sẽ để mắt đến cô ấy.”
Nụ cười thoáng qua khiến những góc cạnh cảm xúc trong cô tan biến, “chẳng phải như thế mới tốt hay sao?” cô nhìn Gray rành rọt từng chữ một.
“Không phải là điều xa vời.”
Ông vẫy tay ra hiệu cho cô ở lại xe. Ông không tranh cãi gay gắt việc cô đi cùng, ông cũng nghi ngại sẽ cần đến chuyên môn của cô trước khi sự việc kết thúc. Rõ ràng là cha cô đã đến văn phòng tạm của cô ở Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên, ông đã xin được vị trí ấy cho cô ở bảo tàng Hy Lạp. Biết đâu tất cả mọi sự lại gắn liền với Delphi – nhưng làm thế nào?
Lát nữa Luca sẽ đi cùng với họ. Ông nghe được phần cuối cuộc chuyện trò. “Tôi cũng sẽ đi.”
Gray gật đầu. Painter đã sắp đặt chuyện đó, hợp tác với Luca trong vụ giải thoát đứa bé. Với Gray việc đó khá ổn thỏa, ông vẫn còn cả đống câu hỏi dành cho người đàn ông này, hầu hết là mối quan hệ của ông ta với giáo sư Polk. Vị trưởng tộc người Gypsy cũng tỏ ra hoàn toàn quyết tâm vì một mục đích nào đó. Gray nhận thấy điều ấy ẩn sâu trong đôi mắt đen láy của ông ta.
Thu xếp xong vấn đề, Gray chuyển lên ngồi ở đầu xe. Luca và Elizabeth dồn về hàng ghế phía sau.
“Bám chặt vào!” Kowalski vừa nhắc nhở vừa quay ngược chiếc xe, nhấn ga lao vút ra đường cái, rời khỏi bến đỗ.
Phía trên đầu, tiếng cánh quạt trực thăng loẹt xoẹt xa dần vào màn đêm.
Gray lại bị cuốn vào trong những suy nghĩ về đứa trẻ.
Cô bé ấy là ai? Cô bé đến từ đâu?
Monk theo sát ba đứa trẻ. Họ được một nhân vật khác dẫn đường, vị khách gặp ở cửa hầm vật khác dẫn đường, vị khách gặp ở cửa hầm bên dưới.
Nhưng đó không phải là một đứa trẻ.
Monk cảm thấy đôi mắt đen láy ấy đang dõi theo sau lưng ông.
Cả nhóm leo lên một lồng cầu thang xoắn ốc được khoan xuyên qua lớp đá vôi thô. Những bức tường đá nhỏ nước khiến cho bậc thang trơn trượt. Đường cầu thang hẹp, tiện dụng, rõ ràng là một cầu thang tiện ích. Họ phải leo một đoạn khá xa. Monk gần như bế lấy Pyotr.
Lúc còi báo động réo vang inh ỏi, lũ trẻ dẫn Monk xuống một lối đi men theo mép hang rồi dừng lại ở một cửa hầm nhỏ. Lối vào dẫn đến cầu thang họ đang leo lên. ở bên dưới, Monk đã được giới thiệu với thành viên cuối cùng và lạ nhất trong nhóm.
Tên là Marta.
“Đây rồi!” Konstantin từ trên gọi vọng xuống, trên tay cầm theo chiếc đèn pin duy nhất của cả nhóm, cậu bé đã lên đến đỉnh cầu thang. Monk kéo hai đứa trẻ kia lại gần ông. Cậu bé lớn thân hình cao lêu nghêu cúi thấp xuống, thu mình bên cạnh một chồng dụng cụ được đóng gói. Con đường hầm ngắn lại kết thúc bằng một cửa hầm khác.
Konstantin đặt một gói dụng cụ vào tay Monk. Monk tiến đến miệng hầm rồi áp lòng bàn tay lên cánh cửa. Một cảm giác âm ấm.
Ông quay lại xem xét thành viên sau cùng đang tiến vào đường hầm sau khi leo hết các bậc thang. Nó nặng chừng bốn mươi ký và cao chưa đến một thước, một cánh tay chạm đất. Cả thân hình phủ đầy lông tơ sẫm màu, ngoại trừ khuôn mặt, bàn tay và cả bàn chân. Phần lông quanh khuôn mặt nó đã chuyển thành màu xám bạc.
Konstantin cho biết con tinh tinh cái ấy đã hơn sáu mươi tuổi.
Cuộc đoàn tụ giữa lũ trẻ và chú vượn người ở cửa hầm bên dưới thật đầm ấm. Mặc cho tiếng hú om sòm của còi báo động cùng sự nhạy cảm đau lòng của lũ trẻ, con tinh tinh vẫn che chở, siết chặt vòng tay trấn an chúng như một người mẹ, biểu hiện của tình mẫu tử.
Monk phải thừa nhận sự có mặt của nó đã giúp lũ trẻ bình tĩnh lại.
Ngay cả lúc này đây, bà mẹ tinh tinh cũng đang quẩn quanh, vỗ về, làm chỗ dựa một cách thầm lặng.
Cậu bé Pyotr nhận được quan tâm nhiều nhất. Cả hai có cách giao tiếp rất lạ. Ngôn ngữ ký hiệu, gần như là ngôn ngữ cơ thể: những cái chạm nhẹ, những cử chỉ, những ánh nhìn sâu vào trong mắt nhau, cậu bé mệt lừ vì phải leo cầu thang nhưng dường như đã lấy lại sức lực nhờ bà mẹ tinh tinh.
Konstantin đi qua miệng hầm. cậu bé giơ lên một huy hiệu bằng nhựa rồi chỉ cho Monk cách gắn nó vào bộ áo liền quẩn của ông.
“Cái gì vậy?” Monk cất tiếng hỏi.
Konstantin cúi đầu trước cánh cửa đóng kín. “Huy hiệu kiểm tra… định lượng phóng xạ.”
Monk nhìn chòng chọc về phía cánh cửa. Phóng xạ? Có cái gì nằm sau cánh cửa đó? Ông nhớ lại sức nóng mà ông cảm nhận được khi đặt bàn tay lên miệng hầm. Ông đã hình dung trong đầu một khung cảnh tan hoang, một bãi đất đổ nát bị thiêu đốt.
Khi mọi người đã sẵn sàng, Konstantin bước hẳn vào miệng hầm, kéo mạnh cần bảo vệ. Cánh cửa kêu két một tiếng rồi bật mở.
Một luồng ánh sáng chói lòa bao trùm, cảm tưởng như đang nhìn vào một lò nung rực lửa. Monk lấy cánh tay che mắt. Mất hai lần lấy hơi ông mới nhận ra một sự thật đơn giản, ông chỉ đang đối diện với mặt trời vừa mọc. Ông cùng lũ trẻ loạng choạng bước ra ngoài.
Khung cảnh không bị phá hủy hay thiêu đốt như ông từng lo sợ.
Sự thật đi theo hướng ngược lại.
Cửa hầm nhìn ra một gờ dốc mọc đầy cây cáng lò và dương tía khá nặng nề. Vô số cây bị khô cằn vì chuyển mùa. Ở bên kia, một con sông gợn sóng qua những bờ đá phủ đầy rêu xanh. Những rặng núi thấp trải dài về phía xa, được tô tiểm bởi mấy chiếc hồ trên núi lung linh ánh bac.
Họ đã leo từ trong địa ngục lên đến thiên đường.
Nhưng địa ngục vẫn còn lưu luyến họ.
Một tiếng hú lạ lùng bỗng vang lên từ đường hầm sau lưng. Monk nhớ lại tiếng hú bên trong khu phức hợp kín cổng cao tường bên cạnh bệnh viện.
Vườn thú.
Tiếng hú cứ nối tiếp nhau.
Không cần Konstantin hối thúc, ông vẫn tiếp tục trốn chạy.
Monk nhận ra những gì ông đang nghe thấy – không phải từ trong ký ức mà sâu trong bản năng tiềm thức của một con mồi muốn lánh xa thú dữ.
Tiếng hú dội lại.
Vang vọng hơn, gần hơn.
Họ đang bị truy lùng.