Còn hai giờ nữa mới đáp xuống.
Gray không rời mắt khỏi cửa sổ chiếc máy bay Bombardier Global Express XRS. Ngày qua nhanh khi chiếc chuyên cơ phản lực lao vút trên bầu trời. Suốt hành trình, họ được ngắm ánh mặt trời ló dạng đón ngày mới, đứng bóng rồi lại bắt đầu ngả bóng phía sau lưng. Họ sẽ hạ cánh giữa những làn khói, sau chuyến bay siêu thanh. Chiếc máy bay phản lực đời mới là món quà của nhà tài phiệt, tỷ phú hàng không Ryder Blunt trao tặng cho Sigma vì những cống hiến đã qua. Hai phi công thuộc Lực lượng Không quân Hoa Kỳ phụ trách đưa họ đến Ấn Độ trong khoảng nửa giờ chiều, giờ địa phương.
Gray tập trung trở lại vào chiếc bàn gỗ tếch mà cả nhóm đang tụ tập xung quanh, ông dành sáu tiếng cho mọi người nghỉ ngơi nhưng hầu như ai cũng kiệt sức. Kowalski vẫn ngon giấc trên chiếc ghế bật ngả trông khá thẳng thớm, tiếng ngáy hòa vào tiếng động cơ máy bay. Gray không có lý do gì để đánh thức anh chàng. Tất cả đều cần thời gian ngủ bù.
Người duy nhất không tỏ ra mệt mỏi là thành viên vừa gia nhập nhóm, bà đang say sưa với tập hồ sơ trước mặt. Không có gì thắc mắc khi Painter chỉ định thành viên Sigma này đi cùng bởi bà là chuyên gia thần kinh học và hóa học thần kinh, chuyên ngành của Archibald Polk.
Tiến sĩ Shay Rosauro có chiều cao trên mức trung bình, nước da nâu đậm màu bánh quế, đôi mắt sẫm như hổ phách ánh lên những đốm vàng lẫn trí tuệ phi thường. Mái tóc đen ngang vai ôm lấy gương mặt được điểm xuyết bằng chiếc khăn rằn đen đội trên đầu. Bà từng phục vụ trong ngành không quân và theo như hồ sơ, bà có thể tự lái chiếc Bombardier. Bà còn mặc cả chiếc áo khoác đồng phục, quần kaki cùng thắt lưng màu đen và mang giày ống.
Trước đây Gray chưa từng gặp bà nhưng có vẻ như bà biết Kowalski. Bà tỏ ra ngạc nhiên khi gặp lại anh chàng cao lớn. Kowalski còn cười toe toét, ôm chặt lấy bà chào hỏi rồi mới bước lên máy bay. Lúc đi theo đoàn, bà quay lại nhìn Gray với biểu hiện cứ như là sự thật không phải thế đâu.
Mọi người đã nghỉ ngơi và Gray muốn cả nhóm cùng đồng tâm hiệp lực khi đáp xuống Ấn Độ, đặc biệt là trong thời điểm gặp mặt đương sự liên quan. “Elizabeth, cô có thể kể đôi chút về Tiến sĩ Hayden Masterson cho mọi người cùng nghe? Cha cô đang làm việc cùng vị giáo sư đến từ Mumbai với nhiệm vụ gì?”
Cô gật đầu, lấy hơi bằng cái nắm tay thật chặt rồi sửa cặp kính lại cho cân bằng. “Ông xuất thân từ Oxford, được đào tạo chuyên ngành tâm lý học và sinh lý học, thiên về những kĩ thuật thiền định và chức năng của não bộ. Ông ấy đã ở Ấn Độ suốt ba mươi năm qua, nghiên cứu về các thiền sinh và người có khả năng thần bí.”
“Nghiên cứu của ông song hành với mục tiêu của cha cô.”
Elizabeth gật đầu.
“Tôi biết công việc của Masterson,” giọng Rosauro có chút ngạc nhiên. “Ông ta rất tài giỏi nhưng lập dị, vài lý luận của ông ta gây tranh cãi. Ông ta là một trong những nhà nghiên cứu đầu tiên ủng hộ vấn đề tạo hình cho bộ não con người, chủ đề bàn cãi vào thời điểm đó nhưng hiện giờ đã được chấp thuận.”
“Bà có thể giải thích về tính tạo hình?” Gray hỏi cụ thể.
“À, cho đến vài năm gần đây, ngành thần kinh học gặp phải vướng mắc bởi một nguyên lý cũ rằng não bộ con người được kết cấu theo lối cứng nhắc, theo đó mỗi phần của não chỉ phục vụ cho một mục đích duy nhất. Mỗi vị trí là một chức năng. Hai thập kỷ trước, mục tiêu của thần kinh học là vạch ra được nhiệm vụ mà mỗi phần trong bộ não đảm nhiệm. Chức năng diễn đạt xuất phát từ đâu, phần nào trong não bộ kiểm soát thính giác, các tế bào thần kinh nào giúp bạn cảm nhận được tay trái, hay giữ được thăng bằng.”
Gray gật đầu tiếp thu.
“Nhưng giờ đây chúng tôi nhận ra não không có kết cấu cứng nhắc, và những mô hình não bộ có thể thay đổi hoặc biến đổi. Hay nói theo cách khác là tạo hình được. Dòng lưu thông giữa các chức năng như vậy giải thích được hiện tượng nhiều bệnh nhân đột quỵ có thể phục hồi chức năng cho tay chân bị liệt sau khi một phần não bộ đã hủy hoại. Não bộ đã tự động nối lại kết cấu xung quanh tổn thương.”
Elizabeth cũng gật đầu. “Tiến sĩ Masterson đang mở rộng nghiên cứu đến các thiền sinh. Thông qua những khả năng huyền bí về kiểm soát quá trình trao đổi chất và lưu lượng máu, ông đã tìm hiểu để chứng minh não bộ không chỉ có thể thay đổi được – mà còn có thề huấn luyện được. Tính tạo hình của não bộ chính là khả năng tạo khuôn đúc.”
Rosauro tựa lưng vào thành ghế. “Cùng với những khả năng khai thác tính tạo hình, cả một Thế Giới Mới hùng mạnh đang chờ đón các nhà thần kinh học. Tăng cường trí thông minh, giúp người mù nhìn thấy, người điếc nghe được.”
Gray liên tưởng đến thiết bị được tìm thấy trong chiếc hộp sọ. Người điếc nghe được. Thiết bị trông như một dạng mô cấy ốc tai điện tử.
Gray hỏi Elizabeth, “Tiến sĩ Masterson có nói lần cuối ông gặp cha cô là khi nào không?”
“Ông ấy bảo sẽ kể cho tôi nghe chi tiết hơn, nhưng trước hết ông muốn nói chuyện với những người đã thuê cha tôi làm việc, ông ấy có vẻ hoảng sợ. Tôi không lấy được thông tin gì khác từ ông.”
“Thuê ư?”
Luca Hearn, thành viên cuối cùng trong nhóm lên tiếng, chất giọng Romani của ông khàn đặc vì mệt mỏi. “Đó là gia tộc của chúng tôi. Chúng tôi thuê giáo sư Polk.”
Gray quay sang người đàn ông vừa phát biểu. Trước khi hạ cánh, Gray đã có ý định thảo luận về vai trò của người Gypsy trong câu chuyện của giáo sư Polk. Còn nhiều vấn đề chưa có câu trả lời từ lúc họ trốn chạy khỏi nhà lánh nạn. Chẳng hạn như tại sao Polk lại chọn người liên hệ là Luca? Hay là chứng hoang tưởng? Phải chăng vị giáo sư tin rằng không thể phó thác nhiệm vụ cho một ai khác? Vụ ám sát ông được tiếp nối bằng cuộc rà soát khả nghi bởi những đặc vụ, có thể giáo sư Polk đã đúng.
“Làm sao ông lại có quan hệ với giáo sư?” Gray hỏi.
“Ông ấy đến chỗ chúng tôi cách đây hai năm. Ông muốn thu thập mẫu DNA từ một vài thành viên nhất định trong gia tộc của chúng tôi. Những người làm nghề dukkerin bằng bút mực.”
“Bút mực gì cơ?”
Kowalski uể oải trả lời từ trên giường. Anh chàng đã thôi ngáy nhưng vừa nói vừa mắt nhắm mắt mở. “Dukkerin. Bói toán, ông biết đấy, đọc đường chỉ tay, tiên đoán vận mệnh bằng quả cầu pha lê.”
Luca gật đầu tán thành. “Đó là một truyền thống trong thị tộc chúng tôi, kéo dài cả mấy thế kỷ qua, nhưng giáo sư Polk không muốn ai thực hiện hokkani boro – tiểu xảo.”
“Những kẻ lừa đảo,” Kowalski thêm vào. “Những tên lừa gạt.”
“Giáo sư Polk biết rằng những người này tôn tại trong thị tộc, ngay cả bản thân chúng tôi cũng nể trọng kĩ năng của họ. Những con người hiếm hoi. Những thầy bói thực sự, có năng khiếu. Họ là những người ông ấy tìm kiếm.”
Elizabeth ngồi thẳng dậy. “Cha tôi cũng làm như thế với các thiền sinh ở Ấn Độ. Lấy mẫu DNA, tìm kiếm vài điểm tương đồng.”
Gray nhớ lại cách cha cô tìm gặp những trường hợp hiếm hoi ấy, danh sách thiền sinh và người có khả năng thần bí, vượt trội về trực giác và năng khiếu. Hình thức tiên đoán và bói bài của người Gypsy hợp với khuôn mẫu đó. Nhưng khía cạnh di truyền thì mới mẻ.
Câu hỏi khác nảy sinh trong đầu Gray. “Tại sao lại chuyển hướng đột ngột từ nghiên cứu thiền sinh sang người Gypsy? Có mối liên hệ nào ở đây?”
Luca chăm chăm nhìn như thể sự thiếu hiểu biết đang hiện rõ nơi ông. “Vậy anh nghĩ các thị tộc Romani đến từ đâu?”
Đến lượt Gray cảm thấy bối rối. Ông thực sự không biết nhiều về các thị tộc du cư người Gypsy, cả nguồn gốc của họ.
Luca để ý thấy ông ngập ngừng. “Không nhiều người biết đến lịch sử của chúng tôi. Khi những thị tộc đầu tiên của chúng tôi đến châu Âu, người ta nghĩ là chúng tôi đến từ Ai Cập.” Ông quẹt lưng bàn tay lên khuôn mặt bóng nhẫy. “Vì làn da sậm màu, cặp mắt đen. Chúng tôi được gọi là aigyptoi hay là Gyptians, sau đó mới trở thành người Gypsy. Đến tận bây giờ, ngay cả những thị tộc của chúng tôi cũng chưa chắc chắn về nguồn gốc. Nhưng các nhà ngôn ngữ học gần đây đã khám phá ra rằng ngôn ngữ Romani có nguồn tốc từ tiếng Phạn.”
“Ngôn ngữ của Ấn Độ cổ xưa,” Gray đáp, khá ngạc nhiên, và ông cũng bắt đầu hiểu ra sự kết nối.
“Chúng tôi xuất thân từ Ấn Độ. Chúng tôi gọi đó là amaro baro them, quê hương của tổ tiên chúng tôi. Nói chính xác là miền Bác Ấn Độ, vùng Punjab.”
“Tại sao các ông lại di cư?” Elizabeth thác mắc. “Theo như tôi được biết về lịch sử, các ông có thời gian khủng hoảng ở châu Âu.”
“Khủng hoảng sao? Chúng tôi bị đàn áp, săn lùng, giết chóc.” Giọng ông sôi sục. “Hàng trăm ngàn người dân chúng tôi chết dưới tay bọn Đức quốc xã, bị buộc phải mang Tam Giác Đen bên mình. Bengesko niamso!” Đơn giản đó là một lời nguyền của bọn Đức quốc xã.
Elizabeth không dám đối diện với ngọn lửa căm hờn đang dấy lên trong ông.
Luca lúc lắc đầu, tự trấn an bản thân. “Ọuá khứ xa xưa của chúng tôi không được biết đến nhiều. Ngay cả các sử gia cũng không thể nói chắc chắn tại sao các gia tộc rời khỏi Ấn Độ. Qua những ghi chép cũ, chúng tôi biết được các thị tộc Romani trốn chạy khỏi Ấn Độ vào thời gian nào đó ở thế kỷ thứ mười, vượt qua Ba Tư, đến thành phố Byzantium của đế quốc La Mã phương Đông rồi những vùng xa xôi hơn. Chiến tranh lan tràn khắp Tây Bắc Ấn Độ vào thời gian đó. Ngay cả Ấn Độ cũng chấp nhận sự phân chia đẳng cấp ngặt nghèo. Những người ở đáy xã hội, giới không đẳng cấp, được coi là tiện dân. Họ gồm có trộm cắp, nhạc sĩ, các chiến binh ô danh, ngay cả người làm ảo thuật, khả năng của họ được xem là dị giáo bởi những tín ngưỡng bản địa.”
“Các chovihanis,” Gray thêm thắt.
Luca gật đầu. “Cuộc sống trở nên quá sức chịu đựng, hiểm nguy luôn rình rập. Vì vậy những người không đẳng cấp mới tập họp thành các thị tộc và rời khỏi Ấn Độ, đi về miền Tây những mong có mảnh đất mới chào đón họ.” Ông thở dài cay đắng. “Chúng tôi vẫn còn đang tìm kiếm.”
“Quay trở lại vấn đề giáo sư Polk,” Gray chuyển hướng cuộc đối thoại. “Các ông có hợp tác theo lời yêu cầu của giáo sư không? Cung cấp các mẫu DNA cho ông ấy?”
“Chúng tôi hợp tác. Trả nợ cho những ân oán. Đền đáp sự giúp đỡ của ông ấy.”
Gray chất vấn ông. “Giúp việc gì?”
Giọng ông sôi nổi trở lại. “Tìm ra thứ bị đánh cắp một cách tàn nhẫn khỏi người dân chúng tôi. Tâm hồn của dân tộc.
Chúng tôi
Máy bay đột nhiên chấn động dữ dội. Mọi cặp mắt đổ dồn về phía phía không trung, Kowalski cũng thế. Anh chàng quờ quạng rời khỏi chăn, hét lên kinh ngạc. Dây an toàn vẫn còn trên người Gray nhưng dạ dày ông có cảm giác trôi tuột lên tận họng. Họ mất độ cao nhanh chóng.
Phi công bật liên lạc nội bộ. “Xin lỗi quý khách. Không khí phía trước đóng băng.”
Cả chiếc máy bay lắc lư.
“Cài dây an toàn thật chặt,” viên phi công yêu cầu. “Chúng tôi sẽ hạ cánh trong vòng một tiếng nữa. Chỉ huy Pierce, chúng tôi nhận được cuộc gọi từ mặt đất của giám đốc Crowe. Tôi sẽ nối liên lạc cho ông.”
Gray ra hiệu cho mọi người trở về chỗ ngồi. Kowalski đã nâng chiếc ghế về trí ban đầu, sẵn sàng thắt chặt dây an toàn.
Xoay ghế khỏi tầm mắt của mọi người, Gray lấy điện thoại từ nơi cất giấu vũ khí và đặt lên tai.
“Chỉ huy Pierce xin nghe.”
“Gray, tôi nghĩ là tôi cần tóm tắt cho anh nghe những gì Lisa và Malcolm phát hiện từ thiết bị gắn trên chiếc hộp sọ.”
Gray không rời mắt khỏi cửa sổ máy bay lúc ông lắng nghe vị giám đốc giải thích về những điện cực siêu nhỏ và bác học tự kỷ. Ông thấy mặt trời ngả bóng ở hướng Tây còn chiếc phản lực vẫn gào thét về hướng Đông. Ông hình dung lại gương mặt nhỏ nhắn, sự yếu ớt lẫn vô tội của cô bé.
Ít ra cô bé đã được an toàn.
Nhưng một câu hỏi mới lại dằn vặt Gray.
Phải chăng có những đứa trẻ khác giống như cô bé đang ở ngoài kia?
12:22 P.M.
Phía Nam dãy Ural
Monk bế Pyotr trên tay chạy dọc bờ suối. Cậu bé níu chặt lấy ông. Mắt ông vẫn đờ đẫn, khuôn mặt đẫm mô hôi và cả nước mắt. Kiska chạy phía trước, bám sát Marta đang tì hẳn hai tay xuống đất để nhảy những bước dài. Konstantin luôn ở ngay cạnh Monk.
“Làm sao ta biết được những gì Pyotr nhìn thấy là thật?” Monk vừa hỏi Konstantin vừa thở hổn hển. “Những con hổ? Có thể chỉ là giấc mơ giữa ban ngày, cơn ác mộng nào đó.”
Cậu bé hơi xoay người lại, lật chiếc mũ len lên. Cậu vuốt ngược tóc, đề lộ một mảnh thép cong sáng loáng phía sau tai. “Không phải chỉ mình bác mới bị phẫu thuật cấy ghép.” Cậu bé đội lại mũ và hướng ánh nhìn sang Pyotr. “Những gì Pyotr nhìn thấy không phải mơ.”
Monk cảm thấy khó mà hiểu được. Konstantin đã giải thích cho Monk nghe làm sao ông đến được đây, rằng ông được cứu thoát từ một chiếc tàu đắm nhờ bức tranh của chị gái Pyotr. Chẳng có ý nghĩa gì đối với ông.
Có lẽ ông mới là người đang chìm trong cơn mơ.
Konstantin tiếp lời, “Có hai con hổ Siberian được nuôi ở khu Bầy thú. Arkady và Zakhar. Đôi khi binh lính cùng chúng đi săn trong rừng sâu. Lợn lòi và nai sừng tấm. Chúng rất thông minh. Không dễ bị dụ đâu.”
“Chúng cách đây bao xa?” Monk hỏi.
Konstantin nói chuyện với Pyotr bằng tiếng Nga.
Pyotr trả lời cũng bằng ngôn ngữ ấy. Giọng cậu bé trở nên vững vàng hơn, mạch lạc hơn lúc rơi vào trạng thái xuất thần.
Konstantin gật đầu kết thúc. “Pyotr không biết. Chỉ biết là chúng đang đến gần. Cậu ấy có thể cảm thấy sự đói khát từ chúng.”
Monk thúc giục cả nhóm xuôi dòng, đến một dòng sông lớn nơi con suối đổ vào. Ông nghe tiếng nước cuồn cuộn chảy trước khi thấy lối đi. Xoáy nước đã kiến tạo một lòng suối sâu. Nếu họ có thể băng qua…
Có tiếng gầm rú trong không trung. Âm thanh bổng vang xa cả một vùng thung lũng nhỏ hẹp. Cứ thế rền rĩ, nhức nhối như tiếng còi tầm. Âm thanh ấy khiến răng ông đau nhức, xương muốn rụng rời. Lũ trẻ nép mình xuống đất, tay ôm lấy đầu, lăn lộn trong cơn đau. Marta kêu rúc lên, nhảy lóc cóc xung quanh như muốn bảo vệ chúng.
Trong lúc co người lại vì tiếng động, Monk nhìn lên khoảng trống giữa những nhánh cây vân sam. Có gì đó vừa thoảng qua, hướng về nửa sau của thung lũng. Kéo theo nó là chiếc dù màu đỏ, trông như ngọn pháo sáng có mang theo một vật thể kim loại hình tròn cỡ chừng quả bóng chày. Tiếng động nhức óc phát ra từ đây. Một kiểu pháo sáng trợ âm. Trèo lên một tảng đá, Monk phát hiện ra nhiều vệt đỏ khác ở phía xa. Những vệt pháo sáng.
Ông nhảy xuống.
Chúng được vô cớ bắn ra khắp các hướng.
Có tiếng va quẹt giận dữ phát ra, cách đó không xa.
Monk thoáng thấy mảng lông màu nâu vàng vụt qua. Tim ông như ngã quỵ vì sợ hãi.
Hổ.
Nhưng hóa ra là hai con nai tơ, chúng băng qua tầm mắt rồi lao vút đi bằng cú nhảy nhẹ bẫng. Monk định thần lại, bước đến bên lũ trẻ. Chúng bị luồng âm thanh phát ra đánh gục. Những kẻ săn lùng biết được sự mẫn cảm của lũ trẻ nên đã tìm cách khiến chúng bất động.
Monk nhẩc bổng Pyotr lên cánh tay bị cụt rồi đặt cậu bé qua vai. ông kéo Kiska đứng dậy, một tay đỡ lấy thắt lưng cô bé và dìu đi. Monk nặng nhọc tiến về Konstantin với ý định thúc giục cậu bé tiếp tục chiến đấu.
Họ không dám dừng lại.
Marta hỗ trợ ông. Chạm mũi vào ngực Konstantin, Marta kéo tay cậu bé vòng qua lưng mình. Dùng vai đỡ lấy cậu, Marta chầm chậm từng bước hướng về dòng sông phía dưới kia. Hai chân cậu trượt dài phía sau Marta.
Monk kèm sát hai đứa trẻ còn lại. Tai bị ù đi bởi luồng âm thanh, Monk vẫn cảm nhận được những tiếng rên quằn quại của Konstantin rung lên. Ông tập tễnh bước đi nhanh hơn, tiến về hướng dòng sông.
Nước xối xả chảy qua một rãnh ngầm thẳng đứng, rộng chừng bốn mét. Tiếng ầm ập khuấy động đủ át đi luồng âm thanh the thé đến chói tai.
Monk vẫy tay ra hiệu cho Marta, chỉ về phía hạ lưu. Marta đảo người sang hướng ấy. Họ tiếp tục đi, theo dòng nước đang cuồn cuộn chảy. Sau vài khúc ngoặt, những đoạn dốc thẳng đứng giúp lũ trẻ dàn thoát khỏi đau đớn.
Đầu tiên là Kiska cử động. Cô bé rời khỏi cánh tay Monk, tự bước đi. Hai tay cô bé vẫn áp sát vào tai. Konstantin cũng nhanh chóng tỉnh lại, không còn khiến cho Marta phải mệt lử vì dùng đến hai cánh tay để kéo cậu bé đi.
Monk vẫn quan sát đằng sau lúc họ trốn chạy khỏi tiếng còi báo động.
Đề phòng cặp hổ có thể xuất hiện bất cứ lúc nào, chồm lên sau lưng họ.
Bỗng nhiên ông bị phân tâm bởi Kiska ngừng lại. Bối rối, ông quỳ xuống thả Pyotr xuống đất.
Konstantin cũng đứng bên cô em gái, cả hai như hóa đá cạnh Marta. Trông có vẻ còn đáng sợ hơn cả những kẻ săn đuổi sau lưng họ.
Một con gấu khổng lồ màu nâu bỗng xuất hiện ở bờ sông, không xa hai đứa trẻ. Nó phải nặng đến hai trăm bảy mươi ký, bì bõm dưới sông và rõ ràng là đang căng thẳng vì tiếng gầm rú từ những ngọn pháo sáng. Cặp mắt đen trừng trừng nhìn vào cả nhóm. Nó nhổm người lên bằng chân sau, duỗi thân mình cao gần hai thước rưỡi, xù lông gầm gừ, nhe cả mấy chiếc răng vàng khè.
Một con gấu xám Nga.
Biểu tượng của Đất mẹ Nga.
Sau một tiếng gầm, nó bốn chân tiến thẳng về phía họ.
6:03 sáng
Thủ đô Washington, D.c.
Người đàn ông lớn tuổi hé mắt nhìn mảng ánh sáng chói lòa, cảm giác như bị kim châm vào mắt và bị nện vào hộp sọ. Ông rên rỉ, quay đầu sang một bên. Thức ăn nghẹn trong cuống họng bỏng rát chỉ chực trào ra, ông hổn hển nén xuống.
Ông chớp mắt né tránh luồng ánh sáng rồi nhận ra mình bị trói trên giường. Dù có một mảnh ga trùm qua người, ông biết mình đang ở trong tình trạng trần trụi. Căn phòng ảm đạm một màu tráng, lạnh lẽo, vô trùng. Không có cửa sổ. Cánh cửa duy nhất có một ô chắn nhỏ. Bị đóng lại.
Một nhân vật ngồi trên chiếc ghế cạnh giường, áo khoác treo trên thành ghế, tay áo cuộn lên, chân bắt tréo, tay đặt nghiêm nghị trên đùi.
Ông ta cúi người về phía trước. “Buổi sáng tốt lành, Yuri.”
Trent McBride mỉm cười nhìn ông, không có vẻ gì là thiện cảm.
Yuri liếc nhìn xuống ngực, nhớ lại phát đạn mang theo một mũi thuốc an thần, ông tìm kiếm xung quanh, lòng bàng hoàng, rối bời.
“Ông vừa được tiêm thuốc kích thích ngược,” McBride giải thích. “Để ông có thể tập trung chũ ý, vì ta còn nhiều thứ phải bàn bạc.”
“Kak… ya…” giọng ông nghẹn lại, lưỡi sền sệt nặng nề.
McBride thở dài, tiến về phía chiếc bàn đầu giường, đưa cho ông một ly nước cùng với ống hút để sẵn.
Ông không từ chối. Thứ chất lỏng âm ấm, cay như rượu vodka thượng hạng. Những bóng đen âm ỉ vây lấy tâm trí ông chợt tan biến, chất gợn dính trên lưỡi ông cũng bị cuốn trôi.
“Trent, ông đang tính làm gì?” Yuri giật mạnh dây đai đè lên cánh tay ông.
“Lấp những chỗ trống.” McBride nhấn nút liên lạc ở đầu giường. “Như tôi đã nói, ông đã không sẵn sàng đưa ra những chi tiết nghiên cứu tại Chelyabinsk 88. Chúng tôi phải chỉnh sửa lại sơ suất đó.”
“Ý ông là gì?” Yuri cố gắng tỏ ra không hay biết, nhưng ông đã để cho giọng mình run lên đầy thất bại. Ông ước gì mình mạnh mẽ hơn.
“Hmm,” Trent tỏ ra lãnh đạm. Ông ta cúi xuống, lật tấm ga phủ trên người Yuri. “Tôi nghĩ là chúng ta có thể bỏ qua những mảng tối để mà nói chuyện như những đồng nghiệp thực sự.”
Yuri nhìn xuống cơ thể trần trụi của mình. Những ống giác bé xíu hút chặt vào lớp da xanh xao, mỗi cái nhỏ cỡ một đồng xu, trên cùng là nút thắt bằng hạt đậu nối với thiết bị điện tử có dây ăng-ten mỏng như sợi chỉ. Chúng cứ thế xếp dọc từ ngón chân lên đến háng, rồi lại từ ngón tay lên đến vai. Ngực ông dọc ngang những ô cờ chất đầy ống giác.
Trước khi ông kịp ngỏ lời thắc mắc, cánh cửa phòng bật mở, một nhân vật mảnh khảnh bước vào. Yuri phải mất một lúc mới nhớ ra tên anh ta, mặc dù mới đây ông vừa gặp. Tiến sĩ James Chen. Họ đã họp trong văn phòng của nhà nghiên cứu ấy tại Walter Reed.
Cửa đóng sập lại, căn phòng được cách âm.
Chen tiến đến gần họ. Anh ta mang theo chiếc máy tính xách tay. “Chúng tôi đã hiệu chỉnh.”
Khi anh ta ngồi vào ghế và đặt máy tính lên chiếc bàn ở đầu giường, Yuri nhìn thoáng qua màn hình trước khi nó bị xoay đi. Đó là hình ảnh cách điệu một nhân vật duỗi thẳng người, trên mình rải rác những ống tròn nhỏ lấp lánh.
“Điện châm,” McBride vừa nói vừa chỉ tay lên những dãy giác hút. “Vi điện cực được gắn với từng điểm châm cứu. Tôi không có ý định hiểu hết mấy thứ này. Đây là chuyên môn của Tiến sĩ Chen. Anh ta thành công đáng kể trong việc sử dụng kĩ thuật này để giảm đau, cho phép phẫu thuật sống mà không càn gây mê. Một công trình sáng giá và đó là lý do tại sao anh ta trở thành một thành viên Nhà Jason. Sau này tôi tuyển dụng anh ấy cho nghiên cứu của chúng ta bởi những cải tiến đối với điện cực. Vi điện cực giống như ông đã dùng cho những đối tượng thử nghiệm của riêng ông vậy.”
McBride dùng ngón tay vặn một sợi dây ăng-ten. Yuri cảm thấy đau nhói. “Chúng tôi hiểu thứ gì dùng để làm dịu cơn đau trong những hoàn cảnh thích hợp thì cũng được dùng để gia tăng tình trạng ấy.”
“Trent… đừng…” Yuri khẩn cầu.
McBride tỏ ra thờ ơ, quay sang Chen, lần lượt chỉ vào một trong số những ống giác cạnh đầu gối, rồi đến ống giác ngay gần háng.
Chen cầm lấy cây bút trỏ, vẽ một đường lên màn hình máy tính.
Chân Yuri đột nhiên bỏng rát cùng cơn đau quặn thắt. Một tiếng thét vang lên. Giống như ai đó rạch một vết dao từ đầu gối qua háng, sâu đến tận xương. Sau đó mọi sự nhanh chóng kết thúc.
Trong tiếng thở hổn hển, Yuri nhìn xuống. Ông nghĩ rằng sẽ chứng kiến máu đang chảy còn thịt thì bốc khói. Nhưng chỉ có lớp da tái xanh.
McBride lại lướt tay trên những dãy ống giác nhỏ bé. “Chúng tôi có thể làm điều tương tự trên bất cứ vị trí nào. Bất cứ khuôn mẫu nào. Chúng tôi có thể lột sống da ông mà không đụng đến một sợi lông. Một cuộc phẫu thuật ảo chứa đựng mọi nỗi đau.”
“Tại… tại sao?”
McBride lại chòng chọc nhìn xuống. Gương mặt ông ta lạnh lùng, ánh mắt hung tợn. “Tôi sẽ có những câu trả lời, đúng không? Hãy bắt đầu với những gì ông còn giấu kín về lũ trẻ.”
“Không đời nào”
McBride quay sang Chen.
“Không!” Yuri hét lên.
McBride cúi người về phía ông. “Vậy thì đừng đùa cợt. Chúng tôi có thể tái tạo những tài liệu của ông mà không gặp bất cứ khó khăn nào. Các phác đồ do nhóm ông cung cấp rất tỉ mỉ và chính xác. Nhưng rốt cuộc chưa cái nào có tính đổi mới. Chỉ đơn giản là một thiết bị kích thích từ tinh vi. Chúng tôi đã cố gắng phục hồi thành quả của ông, trên hai đứa trẻ mắc chứng tự kỷ bác học ở Canada. Những thí nghiệm… phải nói là, đáng thất vọng.”
Yuri co rúm người. Vậy là người Mỹ đã tiến xa hơn những gì Savina tưởng tượng. Họ đã nhận ra điều khác thường tại Chelyabinsk 88.
“Vậy,” McBride hỏi lại, “các ông đã giấu chúng tôi bí mật nào?”
Yuri đã do dự quá lâu. Một vết cứa bỏng rát chạy ngang ngực ông. Cơ bắp ông co cứng lại, lưng ông cong lên vì đau đớn. Nỗi đau khiến ông không thét lên thành tiếng.
Trong cơn đau cắt da cắt thịt, Yuri run rẩy và hoảng loạn, ông cảm thấy lưỡi mình bết máu. Ông không còn dám chờ đợi thêm phút giây nào. Có thấm tháp gì nếu người Mỹ đã tìm ra? Đã quá trễ.
“DNA,” ông đáp trong hơi thở hổn hển. “Là DNA của chúng.”
McBride lại gần ông. “Ý ông là gì?”
Yuri nuốt nước bọt rồi lấy hơi. “Bí mật nằm ở gen di truyền của các đối tượng. Chúng tôi chỉ mới khám phá cách đây mười hai năm.”
Yuri giải thích từ đầu, trả lời những chất vấn không ngớt từ McBride. ông nhắc lại hành trình tìm ra một nhóm những tài năng bác học khác thường, những đứa trẻ người Gypsy vào năm 1959. Một dòng giống di truyền đã chảy trong lịch sử của người Gypsy. Những thầy bói. Các gia tộc giữ bí mật về dòng giống này và cố gắng bảo tồn thông qua lai giống đồng huyết, dẫn đến những biến dị di truyền, ông kể rằng người Nga đã đánh cắp tài sản di truyền này để nghiên cứu, để kết hợp với những công trình siêu tâm lý học.
“Nhưng chẳng có điều gì là huyền bí cả,” Yuri tiếp tục giải thích. “Lũ trẻ chỉ đơn thuần là những bác học… mặc dù là những bác học ở mức phi thường. Chúng tôi cố gắng nâng cao khả năng của chúng – đầu tiên là thông qua giáo dục, sau đến kĩ thuật sinh học. Nhưng qua nhiều năm, khi những thử nghiệm di truyền đã tinh lọc, chúng tôi mới có thể xác định điều gì khiến lũ trẻ khác thường.”
McBride lại cúi sát bên ông.
“Chứng tự kỷ bị kích hoạt bởi một loạt những nhân tố môi trường kết hợp với mười gien có thể biến đổi. Những đối tượng chúng tôi phát hiện ra là mạnh nhất – đối tượng nằm trong lớp học Omega – mang theo ba gen đặc trưng. Ba dấu hiệu di truyền. Khi chúng xuất hiện theo trình tự phù hợp, đi kèm với mức độ tự kỷ vừa phải, một tài năng bác học đáng ngưỡng mộ sẽ ra đời.”
“Thứ mà ông sẽ lần lượt gia cố thêm,” McBride xen vào. “Tạo ra một cơn bão hoàn hảo cho di truyền lẫn kĩ thuật sinh học.”
Yuri gật đầu.
“Sáng suốt. Thực sự sáng suốt. Đó cũng là lý do chúng tôi dùng Archibald làm mồi cho những đối tượng Omega của ông xuất hiện trước ánh sáng. Lý do quan trọng hơn nữa là tóm được đứa bé gái.”
Yuri giật mình. Lo lắng dồn dập trong lòng. “Ông không giữ Sasha sao?”
McBride cau mày, ngả người xuống ghế. “Không, nhưng mấy giờ qua, chúng tôi đã xác định được nơi có thể đang giam giữ con bé. Có vẻ như là cùng một nhóm đã theo chân Archibald. May mắn là chúng tôi đã tiến hành xóa hoàn toàn dấu vết.”
“Vậy… vậy ai đang giữ Sasha?”
“Ông muốn biết sao?” McBride trừng mắt nhìn Yuri. Rõ ràng là cơn tức giận dành cho ông. “Tôi sẽ chỉ cho xem.”
Ông ta ra hiệu cho Chen.
Không!
Ngực của Yuri lại bốc cháy, vết cắt như răng cưa xoáy vào ngực ông, từng khúc từng khúc, tạo thành một biểu tượng ngoằn ngoèo, một ký tự, một chữ cái Hy Lạp bị sưng tấy.
McBride gầm lên trong cơn đau quằn quại của Yuri. “Chẳng bao lâu nữa chúng sẽ không còn là trở ngại.”
2:04 chiều
Thành phố Agra, Ấn Độ
Trái ngược với niềm đam mê của người cha, Elizabeth chưa từng đến Ấn Độ. Cô nhìn ra ngoài cửa sổ từ lúc chiếc taxi lao vút khỏi sân bay. Cửa sổ đã hạ kính xuống nhưng không làm nguội bớt cái nóng khéo lên đến bốn mươi độ C.
Giao thông chậm như rùa, chen giữa một mớ bòng bòng xe kéo, cái thì gắn sau xe đạp, cái lại gắn với lạc đà. Ngay cạnh có một chiếc taxi khác, cửa sổ cũng mở toang, đủ để cô ngửi thấy mùi của điếu xì gà cỡ nhỏ mà gã tài xế đang ngậm chặt. Làn khói thuốc cứ như một con dao xẻ ngang qua cái thành phố đông đúc đầy mùi cà ri, rác rưởi và dầu mỡ trộn lẫn.
Tiếng còi om sòm cũng chưa đủ thấm vào đám đông hỗn độn, tệ hơn nữa còn có một lễ hội trên con đường trước mặt, lanh lảnh âm thanh của những tấm chũm chọe. Khắp mọi hướng, người đi bộ bọc qua vỉa hè, băng ngang những chiếc xe đang chậm chạp nhích dần, chen vào khoảng trống giữa xe đạp và xe máy.
Elizabeth cảm thấy hơi thở bắt đầu nặng nề, phổi như bị ứ lại – không phải vì độ ẩm và sức nóng mà vì sức ép của con người. Bình thường cô không hay sợ hãi nhưng tiếng ồn, tiếng động cơ không ngừng rung, tiếng đằng hắng và la hét của quá nhiều người đã bao vây cô, thắt lấy cô. Hai bàn tay cô nắm chặt trên đầu gối.
Cuối cùng, nhờ tiếng còi được vận dụng sáng suốt, người tài xế cũng lách qua một khoảng để len lỏi vào ngã tư kế tiếp. Rẽ vào khúc cua, con đường rộng rãi hơn mở ra trước mắt, hướng thẳng đến trung tâm thành phố.
Elizabeth thở phào nhẹ nhõm.
“Thoát rồi,” giọng Kowalski văng vẳng bên tai, nói thay cho cảm nhận của cô. “Đáng ra ta nên thuê một cái xe tải. Tôi đưa mọi người đến đó còn nhanh hơn.”
Anh chàng to lớn ngồi tán dóc ngay bên cạnh, nhưng dường như nhận ra sự mệt mỏi của cô nên thu mình về phía sau, dù chẳng giúp được vị khách còn lại rộng chỗ hơn bao nhiêu.
Shay Rosauro tựa khuỷu tay vào Kowalski cho bớt chật chội. Khuôn mặt bà bóng nhẫy những vệt mồ hôi. Trong lúc kẹt xe, bà đã chỉnh sửa chiếc khăn buộc túm trên tóc, gấp nó lại thành khăn choàng đầu khá tiện dụng được cột đằng sau gáy.
Gray ngồi ở hàng ghế đầu tiên, nghiêng người qua tài xế và chỉ đường. Người tài xế gật đầu. Gray ổn định lại chỗ ngồi của ông.
Thành viên cuối cùng trong nhóm ngồi ở hàng ghế cuối. Luca Hearn có vẻ mặt khá bí hiểm, đôi mắt đen láy dường như quan sát mọi thứ. Ông buộc sẵn hai con dao găm vào bao da ở cổ tay trước khi rời máy bay, chuẩn bị cho chuyến trở về quê hương không mấy mong đợi, vùng đất của tổ tiên ông.
Gray xoay người về phía sau. “Mười phút nữa ta sẽ đến khách sạn,” ông nhắc nhở.
Chiếc taxi tăng tốc đến cuối con đường tiếp giáp sông Yamuna. Dòng sông lấp lánh như ánh thép xanh giữa một biển nắng, những hàng cọ trải dài. Phía bên trái là một pháo đài khổng lồ xây bằng sa thạch đỏ, tường chắn cao và kiên cố. Họ ngược hướng pháo đài đi về phía con sông, lượn theo chiều cong của dòng chảy.
Giao thông chậm lại nhưng chỉ mất vài phút, phía bên trái xuất hiện một công viên thoáng đãng với những bãi cỏ, vườn cây, mặt hồ lấp lánh, những khoảng rừng thưa. Vành đai xanh ôm lấy bờ sông, nhưng kỳ quan thực sự có vẻ như đang trôi lững lờ phía xa, một áng mây cẩm thạch tráng nổi lên giữa bàu trời xanh lung linh.
Lăng mộ là một kỳ quan tuyệt vời của kiến trúc và kĩ thuật. Nhưng vào thời khác ấy, công trình nổi lên như một giấc mơ, rạng ngời trôi giữa biển trời. Xây dựng từ hơn ba thế kỷ trước bởi vị hoàng đế Mughal có tên Shah Jahan, ngôi đền là minh chứng một tình yêu bất diệt bởi nó được dành trọn làm nơi yên nghỉ cho người vợ yêu dấu của ông.
Nhưng vẫn chưa phải điểm đến của họ.
Chiếc taxi đi men theo lề, leo lên một tòa nhà năm tầng màu tráng, mỗi tầng đều có cửa sổ lớn hình vòng cung, đã đến khách sạn Deedar-e-Taj. Họ đến đây để gặp Tiến sĩ Hayden Masterson.
“Nhà hàng ở tầng trên cùng,” Elizabeth thông báo lúc cả nhóm xuống xe. Cô kiểm tra đồng hồ đeo tay. Đã trễ mất nửa tiếng.
Gray trả tiền taxi xong, họ rời khỏi một đài phun nước, bước vào sảnh khách sạn, không khí mắt lạnh sảng khoái bao trùm.
“Kowalski,” Gray vừa gọi vừa chỉ sang quày tiếp tân, “anh và Luca phải bảo đảm an ninh cho các phòng của cả nhóm. Ta sẽ lên trên.” Ông gật đầu ra hiệu cho Elizabeth và Rosauro.
Kowalski thở dài ngao ngắn, lầm bầm gì đó về vòi tắm. Anh chàng đảo lại chỗ Elizabeth lúc Gray đã quay đầu tiến về thang máy. “Cô ổn không?” Anh chàng thì thầm.
“Tôi à?”
“Giờ mà trở lại taxi. Tôi nghĩ chắc là… tôi trông như loại…” Anh chàng nhún vai.
“Chỉ cần cái nóng thôi… chắc cũng lên dây thần kinh,” cô đáp lại.
“Tôi có cái này.” Anh chàng nghiêng người về phía cô, có vẻ bí ẩn, lật vành áo khoác đủ để lộ hai điếu xì gà trong túi áo chìm. “Xì gà Cuba. Mua ở cửa hàng miễn thuế trong sân bay.”
Cô mỉm cười. Cô muốn nhảy cẫng lên hôn anh chàng ngay lúc này.
Chưa kịp nói năng gì, tiếng thang máy đã đổ chuông phía sau. Gray thúc giục cô.
Kowalski đứng ngay lại và vỗ vào áo khoác. Anh chàng nháy mắt với cô lúc quay đi. Đúng là đã nháy mắt. Có ai còn nháy mắt ra hiệu bao giờ? Thế nhưng nụ cười vẫn nán lại trên môi khi cô đã sánh bước bên Gray và Rosauro.
Gray chờ cô vào hẳn bên trong rồi nhấn nút tầng trên cùng. “Có điều gì khác ta nên biết về Tiến sĩ Masterson không?” Ông cất tiếng hỏi.
“Đừng nhắc đến đội Manchester United,” cô khẽ khàng trả lời.
“Đội bóng à?”
“Tin tôi đi, hoặc là ông chẳng nhận được thông tin gì về cha tôi hoặc nghiên cứu của ông ấy đâu. Cũng đừng thúc bách ông ta. Cứ để ông ta tự bày tỏ vấn đề.”
Cửa thang máy bật mở, một quang cảnh khác. Một nhà hàng lớn chiếm hết tầng mái, giờ này vẫn còn vắng vẻ. Bàn được trang trí khăn trải bằng lanh và đồ sứ cao cấp. Mùi cà ri xen lẫn với tỏi thoang thoảng trong không khí như có ý trêu ngươi.
Nhưng điều đặc biệt là cả nhà hàng đang chầm chậm xoay tròn. Toàn cảnh thành phố sẽ ở trong tầm mắt, cả ngôi đền Taj Mahal.
Một người đàn ông cao lớn ngồi bên chiếc bàn cạnh cửa sổ. Ông giơ tay lên, rồi lại đặt xuống, chạm vào mặt đồng hồ đeo ở tay bên kia.
Elizbeth mỉm cười tiến về phía ông, bước lên bục xoay của nhà hàng. Một chút bối rối lúc đầu, nhưng cô cũng nhanh chóng dẫn cả ba vượt qua những chiếc bàn trống đan xen nhau. Vài người phục vụ mặc áo vét vàng cúi đầu chào đón họ.
Đã nhiều năm rồi kể từ lần cuối cô gặp Tiến sĩ Masterson.Ông vẫn mặc bộ com lê tráng đặc trưng, lịch lãm kiểu thuộc địa, cùng với chiếc mũ Panama rộng vành nằm ở bàn bên cạnh. Một cây gậy cũng chống ở đó, cán bằng ngà uốn cong hình lưỡi câu và được khắc thành hình con sếu tráng. Tóc ông để dài đến vai, màu bạc hòa lẫn với màu áo, điều mà cô chắc chắn sẽ không hẳn làm ông bận tâm. Gương mặt ông góc cạnh, da căng rám nắng, màu đồng sậm đã hòa vào da thịt ông đến độ khó có thể phai mờ.
Elizabeth giới thiệu xã giao. Tiến sĩ Shay Rosauro bày tỏ vinh dự được gặp ông, thái độ ấy chẳng bao lâu đã khiến bộ dạng cau có của ông gần như biến thành một niềm hân hoan tiếp đón. Phụ nữ là điểm yếu của Hayden, đặc biệt là với phụ nữ có cặp chân dài uyển chuyển như Tiến sĩ Rosauro. Cha của Elizabeth đã từng một lần gợi ý về lý do tại sao vị giáo sư chọn công tác ở Đại học Mumbai, thay vì Oxford hay Cambridge. Có vẻ như dính dáng đến vấn đề nhạy cảm liên quan đến một nữ sinh viên năm cuối.
Hayden mời mọi người ngồi, chủ ý để Tiến sĩ Rosauro ngồi cạnh ông. Vừa lúc họ yên vị, nhà hàng bắt đầu xoay đến một khung cảnh tuyệt vời.
Hayden hướng sự chú ý của mọi người vào ngôi đền Taj Mahal. “Lăng mộ dành cho Mumtaz Mahal, vợ của hoàng đế Shah Jahan!” Giọng ông hào hứng. “Bà vợ yêu quý của vị hoàng đế đã được ông dành tặng bốn lời hứa.” Ông giơ bốn ngón tay lên minh họa. “Xây một lăng mộ lớn cho bà, tất nhiên rồi. Thứ hai là ông ta sẽ cưới thêm lần nữa. Tức là một người vợ khác! Thứ ba, ông ta sẽ mãi mãi là người cha tốt của con cái. Và cuối cùng, Jahn sẽ thăm lăng mộ mỗi năm vào ngày giỗ của bà. Đó là những gì ông ta đã thực hiện cho đến ngày chính ông cũng được chôn cất tại đền Taj cùng với người vợ thân yêu. “Tình yêu đích thực,” Rosauro thốt lên trong lúc ngắm vẻ đẹp của ngôi đền.
“Chẳng có câu chuyện tình yêu nào mà không có chút huyết lệ phải không?” Hayden vỗ nhẹ lên tay Rosauro. Rồi giữ nguyên bàn tay ấy trên tay bà. “Có viện dẫn cho rằng Jahan đã cho chặt đứt bàn tay của tất cả các nghệ nhân sau khi hoàn tất lăng mộ, nhằm đảm bảo họ sẽ không bao giờ có thể xây dựng một công trình nào tuyệt vời hơn Taj Mahal.”
Ngồi phía đối diện, Gray bồn chồn, rõ ràng là rất muốn nhắc đến lý do họ vượt cả nửa vòng trái đất đến đây. Elizabeth chạm khẽ ngón chân vào Gray để cảnh cáo.
Mắt ông bắt gặp ánh nhìn của cô.
Đừng thúc bách ông ấy, là những gì cô nhắn gửi.
Cô vừa quay mặt đi, máu bỗng phun ra từ tai trái của Hayden – đồng thời một tiếng keng lanh lảnh vang lên như pha lê vỡ.
Gray và Rosauro bật đứng dậy trong khi Elizabeth vẫn ngồi như hóa đá. Rosauro kéo mạnh Hayden xuống sàn nhà, mặc Gray xử trí Elizabeth. Cô kịp nhìn thấy một cái lỗ hoàn hảo nằm gọn trên tấm kính sau lưng Hayden, những vết nứt tỏa ra.
Lúc cô ngã xuống, vài lỗ đạn lại xuất hiện giữa những vết nứt – Gray che chắn cho cô dưới sàn.
“Cúi sát đất!”
Cô co người nằm sát mặt đất, một loạt súng liên tiếp xuyên ngang khu vực nhà hàng, tên bẳn tỉa ở đâu đó trên mái nhà kế cận. Đồ vật bằng thủy tinh vỡ vụn. Một nhân viên phục vụ xoay người như thể vừa nhận cú đá cực mạnh. Máu tuôn trên sàn nhà lát đá.
Gray thúc giục Elizabeth bò ra chỗ khác. Nhưng cô quá sợ hãi. Tên bắn tỉa không thể bắn trúng cô nếu giữ nguyên vị trí. Gray lập tức thay đổi nhận thức sai lầm ấy.
“Hắn đang chốt chặt chúng ta xuống sàn!” Ông hét vang cho cả Elizabeth và Hayden đều nghe thấy, trong lúc không một ai có nghị lực di chuyển. “Hắn đang cố giữ ta ở đây!”
Elizabeth đã hiểu ra điều ông muốn nói. Cô nhúc nhích tay lẫn đầu gối. Họ phải di chuyển. Ngay lập tức.
Những tay súng khác đang trên đường đến.
(Biển Caspi: hồ nước lớn nhất thế giới tính về cả diện tích và thể tích, không thông với đại dương nhưng có vị mặn của muối nên được gọi là biển. Biển Caspi nằm giữa Nga ở bờ phía Bác và Iran ở bờ phía Nam (ND).