Nhà Tiên Tri Cuối Cùng

CHƯƠNG 12: NGÀY 6 THÁNG 9, 07:36 PM PUNJAB, ẤN ĐỘ



Mặt trời đã khuất bóng, Gray phải công nhận quyết định lựa chọn phương tiện di chuyển của Rosauro thật đúng đắn. Ngồi ở hàng ghế sau, ông phải vịn tay lên nóc xe để giữ thăng bằng lúc chiếc suv liên tục xóc nảy trên con đường đầy bùn và xói mòn nghiêm trọng. Rời khỏi thành phố trọng điểm cách đó một giờ, họ lại tiếp tục hành trình trên những sườn đồi của vùng thôn dã.
Những trang trại bò sữa, cánh đồng mía, vườn xoài được ghép nối thành một bức tranh phong cảnh. Masterson bảo rằng Punjab là vựa thóc của Ấn Độ và theo như ông mô tả, đó là vùng sản xuất phần lớn lúa mì, kê và gạo.
“Và phải có nông dân làm việc trên cánh đồng,” Masterson vừa nói vừa chỉ cho họ thấy qua khung kính phía sau.
Kowalski và Elizabeth ngồi cùng hàng ghế với ông. Luca vẫn ở cuối xe, hì hục lau chùi mấy con dao găm.
“Rẽ trái đằng kia,” Masterson dẫn đường.
Rosauro bẻ lái, chiếc suv lướt qua một cái rãnh lầy lội, gần như là một con lạch, nước văng tung tóe. Hành trình ấy còn trải nghiệm những cơn mưa rào đổ xuống trong thoáng chốc. Punjab trong tiếng Ba Tư có nghĩa là “vùng đất của năm dòng sông,” một trong những lý do nó trở thành vùng nông nghiệp chính của Ấn Độ.
Gray nhận ra trời đã chuyển sang chạng vạng tối. Những đám mây bay thấp. Sẽ còn mưa suốt đêm nay.
“Về phía trước,” Masterson tiếp tục chỉ lối. “Qua quả đồi kế tiếp.”
Chiếc xe nặng nề leo lên dốc, khuấy tung lớp bùn bên dưới. Lên đến đỉnh, một thung lũng nhỏ hình cánh cung mở ra trước mắt, với những ngọn đồi vây quanh. Một ngôi làng hun hút, nhà bằng đá san sát, cạnh những túp lều đắp bùn lợp lá cọ. Ven làng, vài người đàn ông cầm sào dài nhen thêm những đống lửa đang bập bùng cháy. Họ đốt rác. Rác chất cao thành đống trên chiếc xe bò nằm cạnh đó. Con bò duy nhất bị khuấy động bởi tiếng bánh xe lăn xuống dốc.
“Một mảng xã hội khác của Ấn Độ,” Masterson dẫn giải. “Hơn ba phần tư dân số Ấn Độ vẫn sống ở nông thôn. Đây là tầng lớp thấp nhất trong chế độ đẳng cấp. Người Harijan, theo như Gandhi (tên đầy đủ là Mohandas Karamchand Gandhi, một anh hùng dân tộc Ấn Độ, đã chỉ đạo cuộc kháng chiến chống chế độ thực dân của đế quốc Anh và giành độc lập cho Ấn Độ (ND)) từng đổi tên, có nghĩa là “con của thánh thần”, nhưng họ vẫn bị nhạo báng là dalit hay achuta, dịch nôm na là tiện dân.”
Gray để ý thấy Luca đã cất dao găm và tập trung hơn vào câu chuyện. Những tiện dân. Có thể họ mang theo dòng máu mà các thị tộc của ông đang kế thừa.
Trong ánh lửa, những người đàn ông thu gom lưỡi hái và sào, ánh mắt cảnh giác trước sự có mặt của người lạ.
“Họ là ai vậy?” Gray thắc mắc muốn biết thêm thông tin.
“Để trả lời được,” Masterson giải thích, “anh phải hiểu về chế độ đẳng cấp của Ấn Độ. Truyền thuyết nào cũng nhắc đến những varna chính – hay còn gọi là các tầng lớp dân Oi- đều có nguồn gốc từ một linh vật.
“Tầng lớp Bà la môn, gồm có tu sĩ và tăng lữ, sinh ra từ miệng của linh vật này. Vua chúa và lính tráng bắt nguồn từ những cánh tay. Thương gia và lái buôn lại được khởi tạo từ bắp đùi. Bàn chân sinh ra những người lao động. Mỗi tầng lớp có một trật tự luật pháp riêng, hầu hết được quy định trong bản trường ca hai ngàn năm tuổi có tên là Luật Manu, nêu chi tiết những gì anh được làm và không được làm.”
“Còn những tiện dân này?” Gray vẫn dán mắt vào lớp người đang tụ tập.
“Tầng lớp thứ năm được xem là không bắt nguồn từ linh vật kia. Họ bị xã hội ruồng bỏ, bị coi là nhơ bẩn và ô uế không thể hòa nhập với những người bình thường. Thậm chí da động vật, máu, phân, cả xác chết gắn liền với hình ảnh của họ. Họ không được phép vào những ngôi nhà hay đền đài thuộc tầng lớp cao hơn, không được dùng chung bát đũa. Đến bóng của họ cũng không được phép chạm vào thân thể những người thuộc tầng lớp trên. Nếu anh phá vỡ bất cứ luật lệ nào, anh có thể bị đánh đập, cưỡng hiếp, giết hại.”
Elizabeth ngả người về phía trước. “Và không ai ngăn điều đó xảy ra sao?”
Masterson khụt khịt mũi. “Hiến pháp Ấn Độ cấm phân biệt đối xử như vậy, nhưng phép vua thua lệ làng, ở nông thôn vẫn tái diễn. Mười lăm phần trăm dân số vẫn bị phân chia thành tầng lớp không thể tiếp xúc. Không có lối thoát. Đứa trẻ sinh ra là một achuta thì sẽ muôn đời là achuta. Nạn nhân của những luật lệ tôn giáo ngàn năm tuổi, vĩnh viễn bị bỏ rơi dưới đáy xã hội. Họ là người phải làm việc trên những cánh đồng”
Gray mường tượng lại quang cảnh những đồn điền và vườn cây ăn trái rộng lớn nối tiếp nhau.
Masterson tiếp lời, “Những tiện dân chính là tầng lớp nô lệ cố hữu. Mặc dù ở các thành phố đã có sự cải thiện đáng kể dành cho tầng lớp này, vùng nông thôn vẫn cần đến nhân công – vì thế chế độ đẳng cấp khá hữu ích. Những ngôi làng kiểu này từng bị thiêu rụi hoặc phá hủy vì họ dám đòi hỏi thêm tiền công hay điều kiện làm việc tốt hơn. Thế nên bây giờ họ mới ngờ vực chúng ta.”
Ông hất cằm về phía đám đồng đang chào đón họ bằng đám nông cụ.
“Chúa ơi,” Elizabeth buột miệng thốt lên.
“Chúa không biết điều này,” Masterson chua xót đáp lại. “Tất cả đều do nền kinh tế. Cha cô là một người bênh vực mạnh mẽ cho họ. Để rồi gần đây ông càng lúc càng khó lòng hợp tác với các thiền sinh và những người huyền bí thuộc tầng lớp Bà la môn.”
“Vì ông có liên hệ với những tiện dân hay sao?” Cô thắc mắc.
“Cả lý do đó… lẫn sự thật là ông đang tìm kiếm nguồn gốc cho dấu hiệu di truyền giữa những tiện dân. Chỉ cần một tin đồn truyền đi, nhiều cánh cửa đóng lại trước mặt ông. Khó khăn hơn để làm sáng tỏ vấn đề. Thật ra sau khi ông mất tích, tôi tin là ông đã bị giết hại vì chính lý do ấy.”
Gray ra hiệu cho Rosauro ngừng lại bên rìa những đám lửa đang hừng hực cháy. “Còn ngôi làng này? Là nơi giáo sư Polk lần cuối được nhìn thấy đúng không?”
Masterson gật đầu. “Lần cuối tôi nghe Archibald nói qua điện thoại, có vẻ rất hào hứng, ông phát hiện ra một số thứ và háo hức muốn chia sẻ – sau đó tôi không còn nhận được liên lạc. Thỉnh thoảng ông lại làm thế – biến mất vài tháng một lúc ở những vùng nông thôn hẻo lánh, đi khắp làng này đến làng khác. Những nơi không tên tuổi và bị tầng lớp trên tránh xa. Sau một thời gian, tôi bắt đầu lo sợ điều tồi tệ nhất sẽ xảy ra.”
“Thế những người này?” Gray xen ngang. “Họ có điều gì đáng sợ không?”
“Trái lại.” Masterson mở cửa, chống gậy bước xuống.
Gray bám gót ông. Những cánh cửa còn lại cũng bật mở, mọi người ra khỏi xe. “Ở lại xe,” ông cảnh báo.
Masterson lang thang lại gần đống lửa, kéo theo Gray phía sau. Vị giáo sư nói bằng tiếng Hindi. Gray hiểu vài từ lẫn cụm từ nhờ kiến thức ông tự học liên quan đến tôn giáo và triết học Ấn Độ, nhưng vẫn chưa đủ để nắm hết toàn bộ ý nghĩa. Có vẻ như ông đang hỏi thăm ai đó, lướt qua từng khuôn mặt.
Đám người vẫn giữ nguyên hàng rào phòng thủ, vũ khí sẵn sàng.
Con bò rống lên than thở bên cạnh chiếc xe kéo, dường như nó cảm nhận được không khí căng thẳng.
Masterson đứng giữa hai giàn thiêu mờ mịt khói. Không khí nồng nặc mùi gan nướng và xe cháy khét. Gray cố nén không lấy tay che miệng. Masterson khoát tay về phía chiếc xe, tiếp tục hỏi thăm. Gray nghe thấy cái tên Archibald Polk ngay sau từ Hindi betee.
Con gái.
Cả đám người hướng sang Elizabeth. Vũ khí hạ thấp. Họ luôn mồm nói với nhau. Những cánh tay chỉ về phía cô. Họ tản ra chào đón. Có hai cậu bé bỗng kêu vang vui sướng, chạy xuống một con hẻm nhỏ len giữa hai ngôi nhà.
Masterson nói với Gray. “Achuta ở khu vực này rất quý trọng Archibald. Bởi vậy sự hiện diện của con gái người đàn ông đáng kính ấy được đáp lại bằng lòng mến khách. Chẳng có gì phải sợ hãi những con người này.”
“Trừ bệnh kiết lỵ,” Kowalski phát biểu lúc anh chàng đến gần họ.
Elizabeth huých khuỷu tay vào mạng sườn Kowalski.
Gray dẫn họ vào sâu trong ngôi làng, cảm giác còn nhiều thứ phải lo nghĩ hơn là chỉ có nỗi trắc ẩn đến nao lòng.
8:02 tối
Elizabeth bước qua khoảng trống giữa hai đống lửa. Phía sau cái nóng hừng hực, ngôi làng như vừa thức tỉnh. Ai đó bắt đầu khua những âm thanh rộn rã lên chiếc trống tự chế. Một phụ nữ xuất hiện, nửa khuôn mặt bà bị che phủ bởi tấm sari. Bà ra hiệu cho họ tiến về phía trung tâm của ngôi làng.
Bà vừa quay đi, Elizabeth thoáng thấy một mảng sẹo trũng dưới lớp mạng che mỏng. Masterson nhận ra sự chú ý của Elizabeth.
Cô ngả người về phía ông. “Có chuyện gì với bà ấy?”
Vị giáo sư khẽ trả lời, mắt không rời khỏi người phụ nữ. “Cha cô có nhắc đến bà. Con trai bà bị bắt gặp câu cá trong ao của một ngôi làng có đẳng cấp cao hơn. Bà đến để mắng cậu bé nhưng cả hai bị bắt. Dân làng này đánh đập đứa trẻ, tại axit vào mặt bà. Bà mất một con mắt, nửa khuôn mặt biến dạng.”
Người Elizabeth bỗng dưng lạnh toát. “Thật khủng khiếp.”
“Thế mà bà ấy vẫn cho là may mắn. Vì không bị cưỡng hiếp.”
Elizabeth theo sau người phụ nữ, không khỏi choáng váng, xót xa vì sự bạo tàn, nhưng cũng nể phục nghị lực sống lẫn ý chí kiên cường của bà.
Bà đưa họ đi qua những con hẻm dọc ngang quanh co, đến khu trung tâm. Một đống lửa nữa đang bập bùng cháy. Người dân tụ tập cạnh mấy chiếc bàn gỗ quanh một cái máy bơm giếng. Những người phụ nữ bận rộn phủi lá rụng trên bàn và sắp xếp thức ăn. Trẻ con chân trần chạy tung tăng, hầu như không có đứa nào mặc áo.
Vài người đàn ông cúi đầu chào khi Elizabeth đi ngang, có khi gập hẳn cả người cung kính. Hẳn là cha cô rất được nể trọng. Cô không biết nhiều về những gì cha cô từng làm nơi đây.
Masterson đung đưa cây gậy về phía họ. “Archibald đóng góp rất nhiều lợi ích cho những ngôi làng địa phương. Ông tiếp xúc và giải tán lực lượng đàn áp ở các khu vực này, thậm chí đấu tranh để họ có được mức lương khá hơn, điều kiện chăm sóc y tế và giáo dục tốt hơn. Nhưng hơn hết là ông ấy tôn trọng họ.”
“Tôi không biết điều này,” cô khẽ cất lời.
“Ông ấy chiếm được niềm tin của họ. Chắc chắn là ông đã tập trung cho nghiên cứu di truyền trên những ngọn đồi này.”
“Tại sao lại là nơi đây?” Gray đứng một bên thác mắc.
“Vì khi Archibald lập ra bản đồ tôi đã cho anh xem, ông còn lập thêm một biểu đồ chi tiết về vùng Punjab. Có bằng chứng di truyền liên quan đến những ngọn đồi này, nhưng tôi nghĩ là còn điều gì khác nữa.”
Elizabeth chau mày. “Cụ thể là gì?”
“Tôi không chắc, ông dành nhiều quan tâm cho khu vực này khoảng hai năm trước, ông ngừng toàn bộ thử nghiệm trên khắp Ấn Độ và bắt đầu tập trung vào đây.” Vị giáo sư thoáng nhìn sang Luca. “Và cả người Gypsy.”
Elizabeth nhớ lại thời điểm cách đây hai năm. Cô vừa hoàn thành chương trình tiến sĩ tại đại học Georgetown. Cô ít khi liên lạc với cha suốt thời gian đó. Cô mất cả kiên nhẫn. Những cuộc điện thoại hiếm hoi giữa hai cha con thường ngắn ngủi và tẻ nhạt. Nếu cô biết được những gì ông làm ngoài lĩnh vực nghiên cứu, có thể mọi thứ đã khác.
Họ được chào đón bằng những nụ cười, được mời ngồi xuống bàn ăn ngay khi đến nơi. Thức ăn xếp sẵn trên bàn – bánh mì nướng, cơm, rau luộc, những đĩa mận nho nhỏ và chà là căng mọng, những bình sữa – bàn ăn đơn giản nhưng đầy lòng thành. Một người phụ nữ đang quỳ gối khuấy nồi đậu lăng hầm đặt trên chiếc bếp lò hình móng ngựa. Con gái bà xách một xô phân bò để nhen thêm vào lò lửa.
Kowalski cùng Elizabeth bước tới. “Không giống món Burger King cho lắm.”
“Chắc vì họ tôn thờ loài bò.”
“Này, tôi cũng ngưỡng mộ chúng lắm ấy. Nhất là món bò nướng tái ăn kèm với khoai tây đút lò.”
Cô nhoẻn miệng cười. Sao mà anh chàng quỷ quái này lại luôn khiến cô cảm thấy thú vị đến vậy? Cô không nhận ra anh chàng còn đứng rất sát bên cạnh rồi bước đi.
Ngoài kia, vài nhạc công bắt đầu gảy đàn xita, hòa lẫn tiếng kèn acmonica và trống tabla.
Một người đàn ông lêu khêu bước tới. Anh ta cỡ độ ngoài ba mươi, tóc cắt ngắn, nước da màu ôliu. Anh bận trang phục truyền thống dhoti kurta, một chiếc khăn choàng hình chữ nhật rất tinh tươm quấn từ hông xuống đến mắt cá chân, cùng với chiếc áo khoác dài tay có nút cài phủ ngang thắt lưng. Trên đầu đội mũ thêu dệt kim gọi là kufi. Anh cúi gập người và nói bằng giọng Anh đặc sệt.
“Tôi là Abhi Bharyee, rất vinh dự được mọi người gọi là Abe. Người Ấn Độ chúng tôi có câu châm ngôn: “At ithi devo bhava”. Có nghĩa là “khách của ta cũng giống như những vị thần”” Đặc biệt lại là con gái giáo sư Archibald Polk, người bạn đáng mến của chúng tôi.” Anh ta vẫy mọi người ngồi vào bàn. “Vui lòng dùng bữa với chúng tôi.”
Chẳng mấy chốc mà nụ cười hân hoan của người đàn ông ấy sắt lại khi nghe tin về vị giáo sư.
“Giờ tôi mới hay tin,” anh ta khẽ cất lời, vẻ mặt đau buồn. “Một mất mát quá bi thảm và đáng tiếc. Tôi xin gửi lời chia buồn đến cô, cô Polk.”
Cô cúi đầu đáp lễ.
“Làn cuối người ta nhìn thấy ông ấy là ở làng này,” Grayhướng về Masterson. “ông ấy đã gọi cho vị giáo sư đây, bảo rằng ông đã đến.”
Masterson hắng giọng. “Chúng tôi hy vọng anh biết được nơi Archibald ghé qua.”
“Tôi biết là ông ấy không nên đi một mình,” Abe khẽ lắc đầu. “Nhưng ông ấy không chờ được.”
“Đi đâu?” Gray chẳng thể nhẫn nại thêm.
“Thật là sai lầm khi đưa ông ấy đến nơi này. Một nơi bị nguyền rủa.”
Elizabeth chạm vào bàn tay Abe. “Nếu anh biết được gì… bất cứ điều gì…”
Abe nghẹn ngào thò tay vào túi áo khoác. Anh lấy ra một túi vải nhỏ kêu xủng xoẻng. “Mọi chuyện bắt đầu kể từ khi tôi cho cha cô xem những thứ này.” Anh mở túi, đổ tất cả ra bàn. “Chúng tôi tình cờ tìm thấy chúng khi cày cấy trên những cánh đồng nơi đây.”
Những đồng xu cổ đã xỉn đục, gần như đen đúa vì thời gian, đang lách cách nhảy múa. Một đồng xu lăn đến chỗ Elizabeth. Cô lấy tay chặn lại rồi nhặt lên. Cô quan sát bề mặt, lấy ngón cái chà vào lớp bụi bẩn – đến khi cô nhận ra mình đang cầm trên tay thứ gì.
Trên bề mặt đã mòn nhưng vẫn dễ nhìn thấy, một gương mặt phụ nữ hiện ra, hai bên má quằn quại một đám rắn nhỏ. Đó là nữ thần tóc rắn có tên Medusa. Elizabeth biết mình đang cầm thứ gì.
“Một đồng xu Hy Lạp cổ,” cô ngạc nhiên thốt lên. “Anh tìm thấy trên những cánh đồng của làng sao?”
Abe gật đầu.
“Thật tuyệt vời,” Elizabeth đưa đồng xu về phía ánh lửa. “Người Hy Lạp đã cai trị Punjab một thời gian. Cùng với người Ba Tư, Ả Rập, người Mughal, Afghan. Alexander Đại đế từng có những trận giao chiến lớn ở khu vực này.”
Gray nhặt một đồng xu khác. Mặt ông sa sầm. Ông giơ đồng xu về phía cô. “Xem cái này đi, Elizabeth.”
Cô nhận lấy nó, tiếp tục quan sát. Những ngón tay bắt đầu run rẩy. Một ngôi đền Hy Lạp được khác trên bề mặt. Không phải ngôi đền bình thường nào khác. Ba cột trụ sừng sững phía trước một ô cửa tối. Ngay ngưỡng cửa nổi lên chữ E hoa.
“Đó là Đền Delphi,” cô kinh ngạc.
“Có vẻ giống với đồng xu mà cha cô đã đánh cắp từ bảo tàng.”
Cô chưa kịp hiểu vấn đề, nhưng cũng không suy nghĩ được thêm. Như thể não bị ngắt mạch. “Khi nào… anh cho cha tôi xem những đồng xu này khi nào?”
Abe nhíu mày. “Tôi không chắc lắm. Cách đây khoảng hai năm. Ông bảo tôi nhớ giữ chúng cẩn thận, đừng lộ ra, nhưng vì ông ấy đã mất, cô lại là con gái ông…”
Rõ ràng cô đã nghe thấy Abe nói. Cách đây hai năm. Cùng khoảng thời gian cha cô sắp xếp để cô làm việc tại bảo tàng Delphi. Cô có cảm giác đang nắm giữ đồng xu đã giúp cô giành được vị trí ấy. Cha cô quá bận rộn nên muốn cô trở thành một cộng sự trong quá trình giải đáp bí ẩn này. Một tia giận hờn thoáng qua trong trong cô, nhưng cuối cùng cô đã biết rõ ông từng đối xử với dân làng nơi đây thế nào và họ là người ra sao. Có lẽ bởi cha cô không thể rời xa, không thể bỏ rơi họ.
Nhưng đáng ra, ông nên có đôi lời giải thích cho cô hiểu.
Trừ khi… ông đang muốn bảo vệ cô?
Cô lắc đầu, một loạt câu hỏi dấy lên. Có điều gì đang diễn ra ở đây? Cô xoay mặt sau đồng xu để tìm câu trả lời. Một biểu tượng lớn cũng đã bị mòn in trên nền đen, không phải xuất phát từ Hy Lạp.
Abe thấy cô bối rối. Anh chỉ vào đồng xu, chắc đã nghiên cứu từ trước. “Đó là bánh xe chakra. Một biểu tượng Hindu cổ xưa.”
Nhưng tại sao nó lại nằm trên một đồng xu Hy Lạp? Cô băn khoăn.
“Tôi xem được không?” Luca khẽ hỏi. Ông đi vòng qua bàn, ghé qua vai cô để nhìn. Người ông cứng đờ, những ngón tay bám chặt vào mép bàn. “Biểu… biểu tượng đó. Cũng có mặt trên lá cờ của người Romani.”
“Gì cơ?” Ellizabeth hỏi lại.
Ông đứng thẳng người, lông mày bối rối nhíu lại. “Biểu tượng đó được lựa chọn vì trong tiếng Phạn, từ chakra có nghĩa là ‘bánh xe’. Nó đại diện hình ảnh bánh xe ngựa của người Gypsy, tượng trưng cho truyền thống du mục của chúng tôi trong khi vẫn nhớ đến nguồn gốc Ấn Độ. Nhưng giữa các thị tộc luôn có những lời đồn đại cho rằng biểu tượng còn mang trong mình cội rễ cổ xưa và sâu xa hơn.”
Trong khi mọi người mải thảo luận về ý nghĩa của biểu tượng, Elizabeth vẫn lặng lẽ quan sát đồng xu, bắt đầu nhận ra một sự thật.
Gray ngả người về phía cô như đọc được điều gì đang hiện trên khuôn mặt trầm tư ấy. “Gì vậy?”
Cô bắt gặp ánh nhìn rắn rỏi của ông. Cô nâng đồng xu lên, chỉ vào mặt có hình ngôi đền. “Cha tôi đã liên hệ để giành một vị trí làm việc ở bảo tàng Delphi ngay sau khi tìm thấy thứ này.” Cô lại lật sang mặt có hình bánh xe. “Cùng thời điểm đó, ông bắt đầu điều tra về người Gypsy và mối dây ràng buộc họ đối với Ấn Độ. Hai mặt của một đồng xu, hai mối điều tra.”
Elizabeth xoay cạnh đồng xu ra trước mặt. “Nhưng cái gì nằm ở giữa liên kết hai thứ đó lại với nhau?”
Cô quay sang Abhi Bhanjee. Anh vẫn chưa kể hết mọi chuyện cho họ nghe.
“Cha tôi đã đi đâu?” Giọng cô đanh lại.
Có tiếng hét đáp lời cô. Một người đàn ông chạy từ phía những đám lửa ven làng. Tiếng nhạc tắt ngấm – có tiếng vỗ xoành xoạch từ xa vang vọng, một âm thanh nặng nề rộn cả vào tim.
Gray giật mình.
Elizabeth lúng túng đứng dậy, chăm chăm nhìn về hướng những quả đồi, cố nhận ra vị trí có tiếng ồn, nhưng dường như âm thanh vang lên khắp nơi – ba chùm sáng chói lòa trên nền trời u ám.
“Mọi người quay lại xe!” Gray hét lên.
Abe cũng hô vang những mệnh lệnh bằng tiếng Hindi. Đàn ông lẫn phụ nữ chạy trốn khắp các ngả. Trong đám hỗn loạn, Elizabeth bị tách rời, chao đảo vì những cú va chạm. Mất phương hướng, cô cố tìm lại các cộng sự.
Như những con diều hâu biết ngụp lặn, ba chiếc trực thăng lướt về phía ngôi làng rồi tản ra, rà soát. Mắt hướng lên trời, cô vấp ngã, nhưng một cánh tay rắn chắc kịp thời bắt lấy cô. Kowalski đỡ lấy eo và nâng cô đứng dậy, anh chàng thúc giục.
“Nhanh nào, cưng.”
Anh chàng băng băng vượt qua đám người, một tảng đá di động.
Ở ven ngôi làng, những chiếc trực thăng dừng lại trong trạng thái lơ lửng. Dây thừng tuột ra khỏi những cánh cửa bên hông. Trước khi chúng chạm đất, những hình hài lờ mờ đã trượt xuống, mang theo mũ nón lẫn quân trang.
Chúng không thể nào đuổi kịp chiếc xe.
8:38 tối
Thành phố Pripyat, Ukraina
Nicolas tắt điện thoại. Đó chỉ còn là vấn đề ít lo ngại nhất, ông băng qua hành lang tiến về phía buổi tiệc. Âm nhạc lan tỏa, một tác phẩm cổ điển của Nga từ thế kỷ mười chín, Snegúrochka, Công Chúa Tuyết.
Ông lướt nhẹ bàn tay dọc bộ lễ phục. Trong khi những nhân vật khác mặc trang phục hiện đại đắt tiền, Nicolas tự chọn cho mình bộ lễ phục Milan, chiếc áo khoác len Brioni một hàng nút với ve áo nhọn và cổ choàng, cổ điển, thanh lịch, trang phục của Công tước xứ Windsor những năm 1930 và 1940. Nó mang dáng vẻ đặc trưng hợp với phong cách hoa mỹ của Nicolas, nhưng ông đã điều chỉnh lại diện mạo bằng việc thay thế chiếc nơ bướm truyền thống – không hề ăn khớp với bộ râu quai nón đã tỉa gọn – bằng một cà vạt lụa xếp nếp, nổi bật với chiếc kẹp đính kim cương làm bằng bạc Nga.
Tự tin với ngoại hình, ông bước vào khán phòng.
Sàn đá cẩm thạch mới toanh lung linh dưới ánh sáng của chùm đèn pha lê Baccarat, quà tặng từ công ty tổ chức sự kiện này. Bàn ghế được xếp quanh một khoảng không gian trống. Sàn khiêu vũ đã nhộn nhịp. Một tổ hợp đan xen như chong chóng giữa những nhân vật chính trị quyền lực, luôn trong vòng đấu trí, nhưng giờ đây khoảng lặng thống trị đang tồn tại, một thỏa thuận câm nín.
Những khoảng lặng bao trùm lấy Thủ tướng Nga và Tổng thống Mỹ, cả hai đang đấu tranh cho vấn đề viện trợ liên quan đến việc kiểm soát các biện pháp trừng phạt chống lại nguy cơ hạt nhân mở rộng. Một cuộc gặp thượng đỉnh nằm trong lịch trình sẽ diễn ra ở st. Petersburg sau khi buổi lễ này kết thúc. Niêm phong Chernoby sẽ là khởi đầu tượng trưng cho hội nghị.
Nicolas không rời mắt khỏi cặp đôi đang chìm giữa biển người, ông lội qua những con sóng. Với tầm ảnh hưởng ngày càng rộng lớn của một nhà phát ngôn vì vấn đề cải cách hạt nhân, đại dương sẽ rẽ sóng nhường lối ông đi.
Ít nhất cũng phải đến bắt tay hai vị nguyên thủ mà ông đã lên kế hoạch ám sát.
Ông lướt qua Elena trước khi chạm chân vào biển người. Cô đứng bên cạnh một cửa sổ mái vòm. Tấm màn rủ bằng lụa nặng trĩu biến thành khung nền có lồng hình ảnh cô lẫn ô cửa bên trong. Cô đóng vai một nhân vật khá sang trọng, thân hình uyển chuyển dưới lớp váy đen suôn mượt, như một thần tượng điện ảnh Hollywood giữa đời thực. Cô lơ đãng nâng trên tay ly rượu sâm banh đối mặt với bóng tối bên ngoài khung cửa sổ.
Ông bước đến bên cạnh.
Phía sau đống đổ nát của thành phố, chút ánh sáng le lói cuối chân trời. Những đội thi công sẽ làm việc cả đêm để chuẩn bị sẵn sàng cho hệ thống khán đài và đảm bảo cỗ Quan tài mới được lắp đặt thật kiên cố bên trên lớp vỏ Chernobyl. Cả thế giới sẽ dõi theo sự kiện.
Ông chạm vào cánh tay cô.
Không hề giật mình, cô quan sát bóng hình ông phản chiếu trước mắt.
Nàng Rasputin đầy gợi cảm của ông.
“Sắp kết thúc rồi,” ông ghé sát tai cô thì thầm.
Như lời ông nói, mọi thứ đã ở đúng vị trí của nó. Chẳng gì có thể ngăn cản họ.
8:40 tối
Vùng Punjab, Ấn Độ
Súng nổ trước khi Gray kịp chạy đến cổng làng. Tiếng la hét, gào thét vọng lại. Trực thăng vẫn ầm ầm lượn lờ phía trên đầu. Ông nép sát người vào một bức tường đá. Chiếc Mercedessuv lấp ló sau hai đống lửa vẫn bập bùng cháy.
Một tên lính trong bộ quân phục màu đen cúi thấp người chạy qua bãi trống, khẩu súng trường tấn công trên vai. Vài tên khác đã sẵn sàng chốt chặn đâu đó quanh khu làng. Chúng bắt đầu tràn vào, lùng sục từng ngõ ngách quanh co của ngôi làng.
Gray biết rõ đánh lạc hướng những kẻ đuổi bắt là hy vọng duy nhất cho dân làng cũng như cả nhóm. Họ phải chạy trốn trước khi ngôi làng bị vây ráp.
Ông thò tay ra phía sau nơi Rosauro đứng. “Chìa khóa.”
Chìa khóa đã trong tay nhưng Rosauro phát hiện ra một điều khá tồi tệ. “Kowalski. Elizabeth. Họ không ở đây.”
Gray ngoái đầu lại. Giữa đám người hỗn loạn đổ xô về phía ngõ tối, ông không tài nào nhìn thấy. “Tìm cả hai,” ông lên tiếng yêu cầu Rosauro. “Ngay bây giờ.”
Bà gật đầu rồi bổ đi tìm.
Gray hướng về Luca bằng ánh mắt rắn rỏi. “Bảo vệ giáo sư. Nấp thật kĩ.”
Người đàn ông Gypsy gật đầu vâng lệnh. Hai con dao găm lóe sáng trên tay.
Gray không thể đợi lâu hơn.
Cúi người thật thấp, ông chạy khỏi chỗ ẩn nấp, tiến vào bãi trống.
Elizabeth cùng Kowalski chạy xuống một con hẻm quanh co. Một rãnh nước thải chạy dọc đường đi, nông nặc mùi hôi thối.
“Đi theo lối ấy,” cô thúc giục. “Chắc có đường ra.”
Kowalski gật đầu, rẽ vào khúc ngoặt kế tiếp. Anh chàng có một khẩu súng lục ở bắp chân. Elizabeth đi sát bên Kowalski.
“Anh có khẩu súng nào khác không?” Cô lo lắng hỏi.
“Cô biết bắn à?”
“Bắn bồ câu, ở trường đại học.”
“Chẳng khác mấy nhỉ. Có điều mục tiêu la hét thêm chút thôi.”
Anh chàng thò tay vào lớp áo khoác dưới thắt lưng, rút ra một khẩu Beretta gọn nhẹ bằng thép màu xanh rồi đưa ra phía sau.
Những ngón tay cô víu chặt báng súng, mảnh thép lạnh như truyền thêm sức mạnh.
Họ tiếp tục lên đường. Con hẻm vắng vẻ, tiếng súng nổ bên ngoài đã khiến dân làng lui hết vào nhà để bảo đảm tính mạng.
Một chiếc trực thăng rà thấp trên đầu. Gió từ cánh quạt thổi lá cây lẫn rác rưởi tung bay trên cao. Họ thụp xuống phía sau một ngôi lều đắp bùn. Elizabeth bắt gặp ánh nhìn của lũ trẻ đang co ro phía sau chiếc cũi thấp.
Trực thăng vừa bay qua, Kowalski kéo cô về phía cánh cửa – nhưng lùi lại ngay lập tức. Có một tên lính trong quân phục màu đen vừa bước qua. Chiến trận đang bao vây lấy ngôi làng. Kowalski hé nhìn, vẫy tay ra hiệu rồi dẫn cô quay trở ra.
“Chúng ta sẽ tiến về mấy quả đồi,” anh chàng lên tiếng.
Họ đi qua mấy khúc cua ngoằn ngoèo, nhằm thẳng hướng những ngọn đồi thoai thoải. Xác người nằm rải rác trên con đường phía trước, máu tràn qua rãnh thoát nước. Ít nhất thì một trong số đó cũng mặc quân trang màu đen. Kowalski nép sát tường rồi nhanh chóng tiến lên. Anh chàng dẫn đường với khẩu súng lục lăm lăm trên tay.
Tiếng súng máy tự động lạch tạch vang lên từ phía ngôi làng.
Làm sao họ vượt qua được chừng ấy trở ngại bây giờ
Kowalski dừng lại bên xác tên lính. Anh chàng kéo chiếc mũ khỏi xác chết.
Chắc là để cải trang, Elizabeth nghĩ thầm. Không phải ý tồi.
Lúc Kowalski giật mạnh, đầu tên lính đứt lìa theo mũ. Quá kinh hoàng, anh chàng lùi lại. Cả hai rụng rời vấp ngã.
Một bóng đen nữa xuất hiện phía sau họ.
Lại là một tên lính.
Cô giơ khẩu súng lục lên bóp cò liên tục, đạn chạm phải đá, nảy bật ra, không trúng mục tiêu nhưng bắt hắn phải lùi vào góc khuất.
Súng của Kowalski cũng nhả đạn, giòn vang như tiếng đại bác trong lòng ngõ hẹp. Cô ngoái nhìn qua vai, trông thấy hai tên lính nữa ở cuối đường.
Họ đã bị chốt chặt, chênh lệch về hỏa lực là khá lớn.
 
Gray chui ra khỏi con hẻm, tiến về bãi trống, ông nấp dưới chiếc xe bò vẫn yên vị cạnh hai đống rác đang bị hỏa thiêu. Gray nằm sấp, trườn đến gần một đám lửa. Được chiếc xe che chắn, mục tiêu tiếp cận không mấy khó khăn. Nếu như những phát súng và cả trực thăng không làm con bò hoảng sợ mà dịch chuyển thì Gray cũng sẽ phải đốt lửa dưới đuôi nó.
Trên lý thuyết là vậy.
Chộp lấy một chiếc lốp cháy dở, Gray hất tung lên đống phế thải lem dầu còn chất đầy trên xe. Chẳng bao lâu lửa lan rộng, ông trườn ngược trở lại gầm xe, lấy cành củi đang cháy trên tay chọc vào mông con bò.
Nó rống lên rất to, chân đá ngược về sau, chiếc xe bị va đập mạnh. Gray túm lấy thanh chắn ở đầu xe lúc con bò giận dữ lao đi. Nó kéo theo chiếc xe chạy băng băng lên đồi, bỏ lại phía sau những tàn lửa.
Gray bám chặt thanh chắn, tránh va chạm vào những vòng bánh xe đang rung chuyển mạnh, xóc nảy liên hồi. Cả chiếc xe lao qua một rãnh nước mưa khi vừa chạm đến chân đồi.
Gray buông tay, rơi tõm xuống đống bùn ngập ngụa nước.
Chiếc xe như một mảnh thiên thạch bốc cháy đang tiếp tục hành trình của nó đến điểm dừng không báo trước. Gray hy vọng mấy con mắt do thám trên trời sẽ bị phân tán bởi ngọn lửa di động ấy.
Gray lội theo con mương đầy bùn chạy quanh ngôi làng giữa bóng tối bao trùm, ông đã gần kề chiếc Mercedes, chờ chiếc trực thăng gần nhất bay ra xa rồi lảo đảo thoát khỏi con mương, cúi thấp người chạy về phía chiếc xe đang nằm chờ, cố gắng không di chuyển chệch hướng.
Ông phải mau chóng lên xe. Đèn trên nóc xe sẽ rọi sáng khi ông mở cửa. Nắm chắc chìa khóa trong tay, ông hít một hơi thật sâu.
Không thể chờ thêm giây phút nào.
 
Bị bao vây giữa con hẻm, cả hai đầu đều có lính, Elizabeth cố tìm lối thoát. Cô thấy một cửa sổ mở toang, chỉ cách một bước chân.
Cô huých nhẹ Kowalski rồi chỉ vào đó.
“Đi thôi!” Anh chàng khẽ gầm gừ.
Cô chui qua ô cửa. Cú lộn vòng khá nặng nề, tay vẫn giữ chặt súng. Căn phòng trống rỗng, toàn bụi bặm trên sàn. Kowalski cũng vừa lăn qua. Cô đã ở trong vòng an toàn đúng lúc đạn nã vào gót chân Kowalski. Tiếng bước chân rầm rập chạy về phía họ từ hai hướng.
“Cửa,” cô gọi với lại.
Đối diện khung cửa có một lối đi thấp vòm dẫn sang một con hẻm khác, cả hai chạy ra ngoài và lập tức chạm mặt bốn tên lính khác.
Cả hai bất ngờ lạc trong tầm đạn khắp các phía. Súng chưa kịp nổ thì hàng loạt ánh thép vụt qua, găm vào những tên lính. Elizabeth và Kowalski lùi lại. Một tên chĩa súng vào những người tấn công nhưng mảnh thép đã cắt lìa bàn tay hắn. Một tên khác quỵ xuống, vết rạch ngay cổ họng mở toang.
Chỉ trong tích tắc, cả bốn tên bị hạ gục nhanh gọn.
Ba người đàn ông đã cứu họ thoát chết.
Abe và hai người dân khác trong làng.
Vũ khí của họ rất lạ thường. Urumi. Những thanh kiếm dẻo của Ấn Độ, không phổ biến. Mỗi thanh là bốn lưỡi thép dẻo ghép lại, rộng hơn hai centimét, dài khoảng một mét rưỡi – mỏng đến nỗi có thể cuộn lại như một cây roi da. Cha Elizabeth từng cho cô xem những màn trình diễn võ thuật Kalaripayattu. Chỉ cần lắc cổ tay, lưỡi kiếm sẽ bung ra và chém vào da thịt với lực mạnh hơn bất kỳ cây kiếm thông thường nào.
“Lại đây!” Abe cất lời. “Nhóm của các bạn hướng này.”
Anh dẫn họ quay trở lại khu làng. Họ đi theo đường vòng, lắt léo xuyên qua những ngôi nhà lẫn túp lều. Thỉnh thoảng Abe xua kiếm vào những góc khuất tối tăm tiềm tàng mối hiểm nguy. Rồi anh lại cùng mọi người tiếp tục nhiệm vụ.
Mắt Kowalski không thể chớp nổi khi anh chàng nhìn thấy những nhát chém giữa bóng tối. “Có vũ khí như thế hèn gì họ được gọi là bất khả xâm phạm. Mình cũng phải có một cái mới được.”
Qua một khúc cua khác, Abe nâng kiếm lên, xoay mạnh cánh tay vung lưỡi thép về phía trước. Một tiếng kêu bất ngờ vang lên từ phía góc khuất.
“Trời đất, tôi xin lỗi,” Abe rối rít.
Rosauro xuất hiện. Bà lấy tay che một bên má. Máu rỉ ra dưới những ngón tay. Nhưng bỗng nhiên mắt bà mở to khi nhìn thấy hai kẻ đồng hành cùng Abe.
“Lạy Chúa, tôi tìm thấy hai người rồi,” bà mừng rỡ. “Nhanh lên!”
Cả nhóm bám theo bà.
Sau một hồi băng qua những khúc cua ngoằn ngoèo, đống lửa quen thuộc phía cuối một con hẻm hiện ra. Luca đang cúi mình giữa hai túp lều đáp bùn, vẫy tay về phía họ. Elizabeth nhận ra vị giáo sư co rúm trong bóng tối.
Gray đâu mất rồi?
Tiếng động cơ xe hơi gầm lên từ đằng xa thay cho câu trả lời.
“Sẵn sàng nhé!” Tiếng Rosauro văng vẳng, máu vẫn chảy dài trên mặt.
Sẵn sàng làm gì?
Gray đã sẵn sàng trước vô lăng, nhấn ga. Chiếc xe phóng vút về phía trước.
Ô cửa kính phía sau vỡ vụn lúc chiếc xe lao đi. Phát đạn bắn ra từ phía hai đống lửa.
Một chiếc trực thăng sà xuống. Loại trực thăng không gắn hỏa lực, nhưng có kẻ ở bên hông cửa đang chĩa súng máy xuống.
Gray đạp thắng. Loạt đạn oanh tạc về phía lớp bùn phía trước thanh giảm chấn trước mui xe. Ông lùi xe, nhanh chóng nhấn ga rút lui với tốc độ năm trăm mã lực.
Bị giật ngược trở lại, lưng ông đập mạnh ra sau, hai bánh trước nhấc bổng. Vừa đáp xuống đất, ông lao đến con hẻm, nhấn nút cho cửa xe bên hông trượt mở. Luồng ánh sáng cảnh cáo quét ngang qua lúc bản lề thủy lực bật tung cánh cửa. Chiếc xe lao vào khoảng trống giữa hai đống lửa, tàn tro bay lả tả.
Gray thắng lại, suýt chạm phải Rosauro đang vội vã lại gần chiếc xe. Tất cả leo lên hai hàng ghế phía sau. Hàng giữa trở nên chật chội, mọi người cố gắng tạo khoảng trống. Gray nhận ra quả đầu to cạo trọc quen thuộc. Đã tìm thấy Kowalski.
Cả Elizabeth nhỏ bé cũng có mặt.
Rosauro hét lên từ đằng sau, “Đi thôi!”
Gray đạp ga, nhấn nút đóng cửa.
Hai chiếc trực thăng phía đối diện đang hướng về phía ông. Hai đường đạn xuyên thẳng vào bãi lầy.
Gray bất ngờ ngoặt đầu xe, luồn lách, hết đoạn này sang đoạn khác.
Những chiếc trực thăng bám sát từng chuyển động của chiếc xe.
Có tiếng đạn bắn xối xả từ ngôi làng phía sau, nhằm vào những con chim sắt trên bầu trời. Một hàng rào yểm trợ đầy ấn tượng, tạo thành vòng vây truy đuổi quyết liệt. Chắc chắn dân làng đã tịch thu được một ít vũ khí tự động từ những kẻ tấn công.
Một tên bắn tỉa ngã gục trên trực thăng. Ánh đèn pha chập chờn rồi tắt ngấm.
Con chim sắt đổi hướng. Gray len lỏi vượt qua làn đạn, tiếnvề phía ngọn đồi. Ông giữ ga ở vị trí tăng tốc. Tắt đèn pha, ôngtiếp tục lái, hy vọng con đường xe bò đi qua cũng vừa vặn cho ô tô thông hành.
Chiếc xe lắc lư lao vào giữa màn đêm, bỏ lại phía sau ngôi làng cùng ánh lửa bập bùng cháy. Hai chiếc trực thăng vẫn theo sát, quét đèn truy đuổi. Chiếc thứ ba hạ thấp phía đầu làng, thả dây đón những tên lính còn sót lại.
Rosauro ngả người về phía trước. “Chúng là người Nga!”
“Người Nga sao?”
“Tôi nghĩ vậy,” bà đáp lời. “Lính biệt kích mang súng AN-94S.”
Súng trường tấn công của quân đội Nga.
Qua gương chiếu, Gray bắt gặp ánh nhìn đầy lo lắng trên gương mặt Masterson. Lúc đầu là lính đánh thuê của Mỹ, giờ lại là người Nga… có bao nhiêu thế lực muốn người đàn ông này phải chết? Câu trả lời vẫn còn nằm trong vòng bí ẩn.
Grav nhìn thấy những chiếc trực thăng tiếp tục thu hẹp khoảng cách từ kính chiếu hậu. Kế hoạch lôi kéo những kẻ tấn công và dọn sạch khu làng của Gray đã thành công – giờ sẽ thế nào?
“Rẽ phải ở chân đồi kế tiếp!” Một giọng Anh vang lên từ phía sau. Gray ngoái lại và nhìn thấy một hành khách không mời.
Abhi Bhanjee.
Rosauro giải thích, “Anh ấy biết lối đi có thể cắt đuôi!”
Nước bắn lên dưới chân dốc, Gray đảo mạnh vô lăng sang phải, chạy dọc theo thung lũng lầy lội.
“Giờ thì quẹo trái ở khu đất hoang tiếp theo!” Abe lớn giọng.
Khu đất hoang nào?
Gray ngả người về trước. Không có đèn pha quả là rất khó nhìn. Có thêm chút ánh sáng thì tốt biết mấy…
Một chiếc trực thăng lướt qua, đèn pha loang loáng. Không phải điều Gray mong muốn cho lắm. Nhưng nhờ quầng sáng ấy, ông nhận ra một hàng rào bằng đá phía trước. Thật xui xẻo, họ cũng lọt vào tầm ngắm. Chiếc suv chìm trong vùng sáng chói lòa.
Một loạt đạn nổi lên sau lưng, nước bắn lỗ chỗ, âm thanh chát chúa.
Không phí phạm thời gian, Gray phóng vụt đến bờ rào, quay ngoặt đầu xe sang trái. Phần đuôi chiếc xe bốn bánh tròng trành ngập trong nước và bùn. Lốp xe bị lún, mất một lúc để tăng tốc leo lên, vượt ra khỏi nước.
Trực thăng quét một mảng bao quát. Ánh đèn xoay chuyển nhịp nhàng rồi chiếu thẳng vào họ, lần theo con đường phía dưới.
Leo lên khỏi một mô đất, chiếc suv ngừng lại lấy đà rồi lao xuống, đủ mạnh để khiến hai hàm răng Gray va vào nhau. Tiếng la hét rộn lên từ đằng sau.
Phía cuối con dốc nhìn về bên phải, một vùng nước đen ngòm chia đôi cảnh vật trước mắt. Không phải nước, là một cánh rừng rộng lớn.
“Vườn xoài!” Abe cất tiếng. “Trang trại từ rất lâu đời. Cây cối đã thành cổ thụ. Nhiều thế hệ trong gia đình tôi đã làm việc ở đây.”
Gray lao xe về hướng khu vườn tối, đạn bắn như mưa trên đầu nhưng Gray vẫn giữ vững hành trình vượt chướng ngại vật không được báo trước. Chiếc xe dính đạn không chỉ một lần.
Động cơ gầm lên lần cuối, họ lọt vào trong khu vườn. Cây xếp hàng thẳng tắp. Cành vươn ra thành mái che hình vòng cung san sát nhau, khuất ánh đèn pha chói lòa. Gray chạy chậm lại khi bóng tối đã bao phủ hoàn toàn. Nhưng ông vẫn cho xe đổi hướng, vuông góc với con đường ban đầu. Tiếng vỗ cánh trực thăng nhạt dần. Gray tiến sâu hơn vào khu vườn, cảm giác hệt như một tù nhân chạy trốn qua cánh đồng ngô tối tăm.
“Cánh đồng này rộng bao nhiêu?” Ông muốn tính toán khả năng trụ lại bao lâu.
“Hơn mười ngàn hecta.”
Đúng là một cánh đồng ngô mênh mông.
Nguy hiểm đã lắng xuống, cả nhóm ổn định lại chỗ ngồi cho thoải mái.
Rosauro ngả về phía trước. “Abe muốn đi theo vì một lý do khác.”
“Gì vậy?”
Bà nâng một đồng xu lên. Đó là đồng xu Hy Lạp có hình bánh xe chakra ở mặt sau. Bà chỉ vào ngôi đền.
“Anh ta biết vị trí nơi này.”
Gray liếc nhìn gương chiếu hậu. Ông thấy Abhi Bhanjee ngồi ở băng ghế sau cùng, cạnh Luca. Dưới ánh sáng mờ, Gray nhận ra nỗi kinh hoàng còn đọng lại. Ông nhớ những lời Abe mô tả về nơi Archibald Polk lui tới trong thời gian vị giáo sư biến mất.
Một nơi bị nguyền rủa.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.