Không thể đi xa hơn,” Abhi Bhanjee cất lời.
Gray không tranh cãi. Bùn đã ngập đến trục bánh xe chiếc Mercedes suv. Kiệt sức đến mức thần kinh căng như sợi dây đàn, ông lái xe lên một khoảng đất cứng.
Suốt hai giờ qua, mưa như trút nước qua những khoảng trời rợp lá. Có vẻ như mây đã không đỡ nổi lượng nước dồi dào ấy. Họ bỏ lại khu vườn xoài cách đó ba mươi dặm, tiếp tục hành trình qua một vùng rậm rạp nhưng ở đây địa hình khá hoang vu. Sườn đồi nối tiếp nhau làm thành đường đi giữa những vách đá và quả núi dựng đứng. Mấy nhánh sông ngập nước bởi trận mưa đang ồ ạt. Khung cảnh một thế giới khóc than.
Nhưng ít ra cơn mưa kéo dài đã xua đi bóng dáng dai dẳng của đám trực thăng. Thú săn đã phải từ bỏ cuộc chạy đua sau khi mất dấu con mồi giữa hàng ngàn hécta đất. Abe biết rõ địa hình xung quanh đây, đưa họ đi dọc theo một thung lũng lòng chảo, ra khỏi khu vườn và đến cái nơi chẳng hề mến khách này.
Không ai đến đây, Abe từng nói vậy. Trồng trọt không thuận lợi.
Một lời nói khéo.
“Không còn xa đâu,” Abe trấn an mọi người lúc Gray thắng xe lại. “Dưới một cây số nữa thôi. Nhưng ta phải đi bộ từ đây.”
Gray cẩn thận đỗ xe dưới những tán đa bồ đề xếp chồng lên nhau. Tắt máy, ông hướng về những vách đá, hình dung ra ngôi đền khắc họa trên đồng xu Hy Lạp. Abe cho rằng kiến trúc ấy tọa lạc ở nơi đây. Cũng là nơi giáo sư Polk lui tới vào cái ngày ông biến mất. Chỉ có vài người dân địa phương biết đến nơi này. Vùng đất đón nhận cả sự tôn kính lẫn sợ hãi từ dân làng của Abe, lãnh địa linh thiêng của những tiện dân.
Lý do vì sao giáo sư Polk lại đến đây? Điều gì khiến vị giáo sư phải lưu tâm?
Nước xối ào ào trên kính chắn gió, che hết cả tầm nhìn.
“Tốt nhất là ta nên đợi thời tiết lắng xuống,” Masterson đưa ra đề nghị. “Có thể đi tìm ngôi đền này sau khi mưa tạnh.”
Gray nhìn đồng hồ. Đã gần nửa đêm. Ông không muốn phải dật dờ quanh đây trước lúc trời sáng. Trực thăng sẽ bắt đầu tìm kiếm trở lại vào ban ngày. Kích cỡ xe tăng của chiếc Mercedes suv sẽ dễ bị phát hiện giữa những dải đồi trống. Gray đã xử lý và vô hiệu hóa thiết bị định vị toàn cầu GPS trên xe vì lo ngại đó chính là nguyên nhân người Nga lần ra họ từ Delhi.
Trong đầu vẫn còn nhiều nghi vấn chưa giải đáp, nhưng ông biết chắc chắn một sự thật. Nếu dự định đi tìm dấu vết cuối cùng của giáo sư Polk, họ nên thực hiện ngay.
Ông xoay lại bàn bạc với mọi người. “Tôi sẽ đi với Abe, số còn lại có lẽ nên ở trong xe.”
Elizabeth giơ tay. “Tôi đi cùng các anh. Nếu còn cái đền nào bị thất lạc ngoài kia, có thể tôi giúp ích được.”
Kowalski gật đầu “cô ấy đi đâu, tôi theo đó.”
Elizabeth liếc nhìn anh ta với một cái nhìn ban đầu tỏ ra khó chịu nhưng rồi dần chuyển thành bối rối khó diễn tả.
“Chúng ta nên ở cạnh nhau,” Rosauro vơ lấy đồ dùng đi đường của cả nhóm trong lúc bày tỏ ý kiến.
Luca gật đầu.
Masterson đưa mắt ngán ngẩm. “Có vẻ như chúng ta sắp ướt át hết cả đây.”
Quyết định được nhất trí, họ bước xuống xe lao vào giữa màn mưa. Chỉ sau vài bước chân, Gray đã ướt sũng người. Quần áo ông nặng thêm gần cả chục ký.
Kowalski vừa nguyền rủa vừa tha thiết ngoái nhìn chiếc suv, nhưng không đành lòng để bước chân Elizabeth thiếu vắng mình.
“Theo đường này,” Abe chỉ lên sườn dốc gồ ghề, thông với một tầng bình nguyên rải rác cây cối. Rễ cây mọc len lỏi trên những vách sa thạch, trông như mấy gương mặt già nua xương xẩu đã hao mòn vì mưa gió. Sấm sét rền vang khắp bầu trời.
Cơn bão mỗi lúc một tệ hơn.
Mình mẩy đau nhức, Gray bắt đầu nảy sinh những mối nghi ngờ liên quan đến kế hoạch của ông. Kể từ lúc rời khỏi Delhi, ông không thể liên lạc được với Sigma. Họ đánh mất điện thoại có kết nối vệ tinh trong cuộc tấn công ở khách sạn. Chiếc điện thoại trả trước ông mua ở Delhi không bắt được sóng từ nơi hẻo lánh này.
Họ phải tự thân đối phó. Thường thì Gray vẫn thích hoạt động dưới tình trạng giám sát thấp nhất, lúc này đây ông lại phải để tâm đến cả những vị thường dân.
Abe hướng đến khe núi hẹp khoét sâu vào vách đá. Một con suối nằm ngay trung tâm đang chảy xiết. Con đường hẹp tiếp giáp dòng suối bị bao vây bởi vách đá dựng đứng hai bên bờ.
Gray theo chân Abe thẳng tiến. Đến hẻm núi, mưa ngớt dần, gió cũng lặng đi. Nước vẫn tràn xuống những vách đá. Hòa với âm thanh của dòng suối khuất trong lòng núi lại càng thêm sôi sục.
Họ tiếp tục nối đuôi nhau.
Hẻm núi ngoằn ngoèo như một tia sét, mỗi lúc một dốc và hẹp hơn khi cắt ngang qua những ngọn đồi cao.
Abe vừa đi vừa kể lại. “Người dân chúng tôi đôi khi lẩn trốn tới đây vào những lúc bị đàn áp. Ông cố tôi từng kể về những cuộc tàn sát đẫm máu, toàn bộ làng mạc bị tiêu diệt. Những người thoát được thì chạy trốn đến đây.”
Không còn nghi ngờ gì, lý do những tiện dân luôn giữ bí mật về nơi này, Gray nghĩ thầm.
“Vẫn chưa phải là thành trì vững chắc,” Abe thêm thắt một cách khó hiểu. “Chẳng thể là mãi mãi.”
Gray liếc nhìn qua nhưng Abe đã bước nhanh về phía trước, đối diện với hai ngã rẽ. Abe lướt tay dọc bức tường đá như đểchắc chắn điều gì, rồi tiếp tục đi về bên trái.
Gray chạm ngay vào vị trí ấy. Có nét tạo hình khác trên đá, những ký tự nổi thoạt trông khá rõ dưới làn mưa.
Elizabeth quan sát gần hơn. “Harappan,” cô ngạc nhiên thốt lên rồi nhìn quanh. “Chắc chắn là ta đang ở rìa ngoài của Lưu vực sông Ấn. Một nền văn minh vĩ đại từng ngự trị nơi đây.”
Masterson gật đầu đồng ý. “Người Harappan sống dọc bờ sông Ấn cách đây năm ngàn năm, bỏ lại phía sau tàn tích của những thành phố và đền đài xây dựng rất công phu. Anh có thể thấy ở khắp nơi trong vùng. Có lẽ anh bạn trẻ người Hindu của chúng ta nhầm ngôi đền khác trên đồng xu với một tàn tích Harappan chăng.”
Gray vẫn tiếp bước. “Chỉ có một cách để tìm ra.”
Kết thúc hai lối rẽ, một lòng chảo đột ngột trải rộng trước hẻm núi. Nước tràn qua vách đá thấp phía xa, đổ vào một vũng nhỏ làm nguồn chảy cho con suối họ vừa đi qua.
Abe ngừng lại, ra hiệu cho mọi người đi vòng quanh. “Đến nơi rồi.”
Gray nhíu mày. Hẻm núi trống rỗng, tia sét chói lòa xẻ ngang bầu trời thắp sáng cả vùng lòng chảo. Những vách đá ngập trong ánh bạc cũng phản chiếu xuống cái hõm trung tâm.
Bức tường sa thạch xung quanh bị khoét thành từng nấc thang gãy khúc. Mỗi tầng cất giấu những ngôi nhà nằm chơi vơi xen kẽ nhau. Họ leo lên một mô đất nhô ra khỏi thung lũng. Nhà cửa qua nhiều thế kỷ đã bị phá hủy thành đống gạch đá. Hình ảnh ấy khiến Gray nhớ đến những công trình trên vách núi của người da đỏ Anasazi. Nhưng theo lối kiến trúc thì rõ ràng không phải do người da đỏ – kể cả thế hệ di cư sang đất Mỹ hay dân Ấn Độ bản xứ – tạo ra.
Gray tiến về phía trước, di chuyển thành một vòng tròn. Mặt tiền của những căn nhà xây bằng cầm thạch trắng, nhìn khá ảm đạm trên nền đá sẫm màu. Những bức vách đắp sa thạch bị hao mòn từ lâu bởi mưa gió qua hàng thế kỷ. Nhà cửa trông như mọc lên khỏi lớp tường đá. Màu cẩm thạch trắng làm Gray mường tượng ra những bộ xương hóa thạch nhấp nhô.
Mặc cho bức tường đổ nát đã chôn vùi phân nửa, yếu tố tạo hình cơ bản của những kết cấu cẩm thạch vẫn hiển hiện. Tầng mái thấp hình tam giác được trụ đỡ bởi những khối cột xẻ rãnh. Nét chạm trổ và điêu khắc quanh những đường viền lẫn gờ tường đã mờ đi theo thời gian.
Chẳng còn nghi ngờ gì về nguồn gốc.
“Kiến trúc Hy Lạp,” Elizabeth sững sờ. Cô chăm chú nhìn quanh, nước mắt lăn dài. “Một phức hợp đền đài Hy Lạp. Bị chôn vùi nơi này.”
Masterson đứng bên cạnh cô. Cầm chiếc mũ sũng nước, ông dùng tay vuốt lại mái tóc bạc cũng ở trong hoàn cảnh tương tự. “Thú vị đến kinh ngạc. Archibald, ông bạn già ơi, lẽ ra ông phải kể cho tôi…”
Gray há hốc miệng, mỏi mệt bỗng dưng tan biến.
Elizabeth chỉ tay về một hướng. “Đó là ngôi đền có trụ, một trong những tạo hình kiến trúc đơn giản nhất của Hy Lạp. Ở đằng kia là lối kiến trúc hàng cột thời kỳ sau này. Hãy nhìn mặt tiền có những cái cột vây quanh. Đó chính là một đền thờ hình tròn ẩn mình dưới vách đá.”
Gray vừa lắng nghe vừa chú ý đến kiến trúc nằm ở phía xa lòng chảo. Tim ông đập rộn ràng. Ngôi đền nhấp nhô lưng chừng.
Đá tảng vương vãi, chứng tỏ phần nào đó của hẻm núi từng bị rạn nứt và sụp đổ. Nước mưa từ đường nứt phía trên tràn xuống mặt trước khu đền, tôn lên dáng vẻ huyền hoặc lẩn khuất trong làn hơi ẩm ướt.
Chẳng thể nhầm lẫn.
Sáu khối cột đỡ lấy mái đền hình tam giác, khung cửa tối lấp ló đằng sau.
“Giống như trên đồng xu,” Rosauro cũng nhận ra điều đó.
Abe sải bước về phía ngôi đền sừng sững. “Chưa hết đâu.”
Gray kéo theo cả đoàn người ướt nhẹp đều nóng lòng theo chân Abe.
Đến bờ đá xếp chồng, Abe đi vòng sang một bên, vẫy tay ra hiệu cho mọi người lại gần. Một mô đá thấp làm điểm tựa cho những bậc cao hơn. Abe có vẻ biết rõ lối đi lên đống đổ nát ấy.
Từng bậc một, cả đoàn bám sát bước chân người dẫn đường Hindu.
Elizabeth và Masterson tiếp tục câu chuyện, “ông nghĩ xem, tại sao họ lại xây dựng một phức hợp đền đài ở đây? Giữa một nơi lạc lõng thế này?”
“Rõ ràng là họ đang ẩn náu,” Masterson giải thích. “Một nơi hoang vu chết tiệt khó tìm ra, lại còn khuất sau những bức tường đá. Tôi từng nhìn thấy kết cấu tương tự giữa những tàn tích Harappan nằm sâu trong Lưu vực sông Ấn. Có khi những người xây nên nơi này đã khảo sát kiến trúc Harappan cổ xưa rồi chỉnh sửa lại theo ý tưởng của họ.”
“Có thể lắm. Nền văn minh này được tạo dựng trên cơ sở nền văn minh khác là điều bình thường.”
Gray chăm chú quan sát ngôi đền. Ở khoảng cách gần, ông nhận ra bóng đen in trên khối cột cẩm thạch thật ra là dấu tích bị cháy sém. Những chi tiết rõ nét hơn hiện ra. Mặt tiền bị rạn nứt ngang dọc; một khoảng tường rộng phía trên cao đã đổ vỡ.
Gray ngờ rằng hư hại không phải chỉ do thời gian gây ra. Có vẻ như trận đánh nào đó đã diễn ra trong quá khứ.
Leo đến đỉnh, Abe nhảy khỏi bờ đá, bước lên khoảng trống giữa hai cột trụ. Gray theo sau, chân ông đáp xuống nền cẩm thạch, hoàn toàn thoát khỏi cơn mưa. Sáu khối cột cách tòa nhà đối diện khoảng một mét tạo nên một hàng hiên nhỏ.
Ông đứng tránh để mọi người len vào. Kowalski và Luca lần lượt đỡ Elizabeth cùng Masterson. Rosauro đi sau cùng, vác theo chiếc ba lô lỉnh kỉnh. Sau khi mọi người tập trung, Gray bước về phía cửa còn Abe quỳ gối khẽ cầu nguyện. Gray kiên nhẫn chờ, không muốn làm điều gì xâm phạm đến tôn nghiêm.
Abe đứng dậy và gật đầu.
Gray lôi ra một cây đèn pin nhỏ, bật sáng. Ông tiến vào, ánh đèn quét qua khoảng không tối đen bên trong.
Điện thờ rộng lớn và vuông vức đến hoàn hảo, khoảng hơn sáu mét chiều dài lẫn chiều cao. Thêm vài khối cột xếp dọc bờ tường, nhiều cái đã vỡ nát. Một hõm sâu được đào giữa sảnh, lửa nung đen cháy. Hai lối đi mái vòm mở ra hai bên, thông quanhững căn phòng nhỏ giống như nhà nguyện.
Gray để ý thấy có thứ gì trong đó xếp chồng lên nhau, ông tiến lại gần quan sát trong lúc mọi người vừa vào đến sảnh. Abe đứng một bên, hai cánh tay khoanh tròn lộ vẻ lo lắng, không dám theo cùng.
Chĩa ánh đèn vào bên trong, ông hiểu vì sao anh chàng người Hindu lại do dự. Xương chất đống khắp phòng, lộn xộn như những mảnh gỗ, hàng trăm hộp sọ chen chúc phía trên. Tất cả đều mang hình hài con người. Bề ngoài mục nát, vàng ố đã chứng minh đây là những bộ xương từ thời cổ đại.
Gray hình dung ra những vết cháy sém ẩn hiện quanh ngôi đền.
Abe cất lời. “Chúng tôi nghe cha mẹ kể lại. Câu chuyện về một trận đánh lớn diễn ra nơi đây. Cả ngàn năm trước. Rằng tổ tiên của chúng tôi từng tìm thấy nơi này, ngập trong xác chết. Để tỏ lòng kính trọng, chúng tôi thu thập hài cốt và chôn cất trong những ngôi đền này.” Abe chỉ tay về hướng cánh cung. “Còn nhiều bộ xương ngoài kia.”
Gray bước ra khỏi căn phòng. Ai đó đã phát hiện và tàn sát những con người này. Ông nhớ lại câu nói khó hiểu của Abe lúc trước.
Vẫn chưa phải là thành trì vững chắc. Chẳng thể là mãi mãi.
Số phận của những cư dân đầu tiên chính là cảnh báo cho thế hệ sau. Một nơi ẩn nấp kín đáo nhưng không vĩnh cửu cho bất cứ ai muốn lẩn tránh thế giới.
Gray nhận ra mảng khắc họa duy nhất trong căn phòng.
Giống như mặt tiền ngôi đền, hình ảnh này cũng được mô tả trên đồng xu.
Ông lùi lại, chiếu đèn lên mặt tường cẩm thạch căng mịn, lớp đá đen nổi bật hình thù quen thuộc cao hơn sáu thước.
“Bánh xe chakra,” Elizabeth bối rối phát hiện. Cô bắt đầu chụp ảnh bằng chiếc máy bỏ túi đem theo. “Y hệt mặt kia của đồng xu.”
Luca lần theo bức tường. Gray có thể đọc được suy nghĩ của người đàn ông ấy. Phải chăng đây là biểu tượng cổ đại diện cho nguồn gốc của người Romani?
Phải chăng Archibald Polk cũng có nỗi niềm băn khoăntương tự?
Kowalski thở dài không mấy ấn tượng với căn phòng. “Đúng là thất vọng.”
“Anh nói gì cơ?” Elizabeth tỏ vẻ trách móc. “Đây là khám phá khảo cổ và nhân chủng học của cả đời người đấy.”
Anh chàng nhún vai. “Ừ, thế nhưng mà? Vàng bạc châu báu đâu hết cả rồi?”
Gray không muốn thừa nhận, nhưng ông đồng ý với ý kiến của Kowalski. Ông rảo bước. Ánh đèn loang loáng đảo một vòng quanh căn phòng, vẫn thiếu thứ gì đó, không phải vàng bạc hay đá quý.
Rosauro thoáng nhận ra. “Chuyện gì vậy?”
“Một thứ bị mất,” ông khẽ đáp.
“Gì cơ?”
Không gian hạn hẹp khiến mọi người nghe rõ cuộc đối thoại. Tất cả đều hướng nhìn ông.
Gray đảo thêm một vòng ánh sáng. “Trên đồng xu… chữ E nổi nằm ở đâu? Ký tự epsilon của Hy Lạp.”
“Đúng đấy,” Elizabeth khẳng định thêm.
Gray quẹt nước mưa dính trên mặt.
“Mọi thứ trên đồng xu đều đã tìm thấy – mặt tiền, bánh xechakra – vậy thì chữ cái Hy Lạp nằm đâu?”
“Nó là chi tiết nhỏ,” Masterson xen vào. “Hẳn là không liên quan.”
“Không nhỏ đâu,” Elizabeth cãi lý. “Có người từng gặp nhiều trở ngại vì mô phỏng công trình đền thờ ở Delphi. Mặt tiền có trụ là một kiểu kiến trúc giá trị của người Delphi, ngôi đền hình tròn lại là một bản sao khá giống với thánh đường thờ phụng nữ thần Athena ở Delphi. Còn nơi này. Kết cấu bên ngoài lẫn bên trong chính là kiểu đền thờ dành cho Nhà Tiên tri. Chữ E là một trong những biểu tượng trang trí nổi bật nhất.”
Gray nhớ buổi thảo luận với Painter có nhắc đến ý nghĩa ký tự E của người Delphi, biểu trưng cho sự sùng bái đấng tiên tri, một mật mã lưu truyền trong lịch sử hội họa và kiến trúc.
Luca tiến về phía trước. “Có khi tôi cũng biết ký tự này.”
Gray quay sang tộc trưởng người Gypsy.
“Tôi từng kể cho anh nghe về những đứa trẻ bị đánh cắp. Người của tôi đến khu vực thảm sát và họ nói rằng có một nhà thờ bằng đá ở đó. Cửa bị phá sập, nhưng giữa những mảnh ván họ tìm thấy một chữ E bằng đồng. Không ai biết nó có ý nghĩa gì. Những người duy nhất biết được đã bị chôn vùi dưới nấm mô tập thể. Bí mật cũng chết theo đó. Có thể chữ E này cũng tương tự chăng?”
Dấu hiệu của những chovihanis, Gray nghĩ thầm. Những thầy bói người Gypsy. Một giáo phái tiên tri khác.
“Như nhau cả thôi mà,” Masterson vẫn cố chấp, xem chừng đã mệt mỏi. “Không có chữ E ở đây thì chuyện gì sẽ xảy ra sao?”
“Chắc là chẳng có gì,” Gray đáp, trong lòng chưa mấy thuyết phục, ông quay sang Abe. “Lần đầu anh dẫn giáo sư Polk tới đây là khi nào?”
Abe nhún vai. “Lần đầu cách đây một năm. Ông ấy tìm kiếm xung quanh, ghi chép rồi bỏ đi.”
Mắt Elizabeth lộ rõ đau buồn, “ông ấy chẳng bao giờ kể cho tôi nghe về phát hiện này.”
“Bởi vì ông ấy tôn trọng những bí mật của chúng tôi,” Abe khẳng khái, “ông ấy là người tốt.”
Gray thoáng thấy nỗi chua xót trên gương mặt Masterson. Vị giáo sư ban đầu không khỏi kinh ngạc vì phát hiện mới, nhưng sau đó ông nhận ra chẳng có lý do nào khiến ông phải đào sâu khám phá, mối bận tâm trở nên nhạt dần. Phải chăng giáo sư Polk cũng có cảm nhận tương tự? Các phát hiện khảo cổ luôn có ý nghĩa, nhưng một khi không thể kết nối chúng với nghiên cứu của riêng mình vì tôn trọng bí mật của những tiện dân, ông đã quyết định im lặng.
Nếu quả thật như vậy, tại sao ông lại khẩn trương đến đây trước khi biến mất? Chắc ông đã phát hiện ra vài mối liên hệ có dính dáng đến phạm vi nghiên cứu.
Gray hỏi Abe, “Có việc gì cần thiết khiến giáo sư Polk phải đột ngột tới đây không? Chuyện gì bất thường xảy ra ngày hôm đó?”
Abe lắc đầu. “Ông đến thăm ngôi làng. Như những lần trước đây. Chúng tôi bàn về cuộc tuyển cử sắp đến, một achuta sẽ giữ vị trí tộc trưởng. Tôi tìm thấy một đồng xu mới và cho ông xem,nhưng ông yêu cầu được xem đồng xu có hình ảnh đền thờ một lần nữa.
Ông không bận tâm quan sát nó, thậm chí còn quay nó trên bàn trong lúc nói chuyện. Sau đó, đột nhiên ông mở to mắt, và đứng bật dậy. Ông muốn ngay lập tức đến đây, nhưng tôi có nghĩa vụ với các cuộc bầu cử. Tôi bảo ông ta đợi cho đến khi tôi trở lại… “
Giọng anh nghẹn ngào, Elizabeth nói thay anh. “Cha tôi đã không đủ kiên nhẫn…””
Masterson gật đầu. “Ngày đó tôi cũng nhận được cuộc gọi khẩn cấp của ông. Ông tuyên bố rằng ông đã phát hiện ra một cái gì đó sẽ làm lay chuyển những hiểu biết của chúng ta về tâm linh con người một khi nó đã được biết đến. “
Một ý tưởng chợt đến, Gray quay sang Rosauro. “Hãy cho tôi xem đồng xu đó một lần nữa.”
Bà đưa nó lại cho anh.
Gray kiểm tra nó lần nữa: đền thờ ở một mặt, bánh xe chakra ở mặt bên kia. “Elizabeth, cô bảo rằng cha của cô đã tìm cho cô công việc tại Delphi, để từ đó những khám phá của cô có thể kết nối với các nghiên cứu của ông. Cô đã kể với ông về lịch sử của Delphi? “
“Chỉ những điều cơ bản,” cô nói. “Ông không quan tâm nhiều đến lịch sử mà chỉ tập trung vào việc phát hiện ra các loại khí ethylene gần ngôi đền. Cha tôi muốn biết chi tiết về các nghi lễ của các nhà tiên tri, tìm hiểu về khả năng sinh lý hỗ trợ cho các quyền năng trực giác của họ”.
“Vì vậy, nếu ông không quan tâm đến lịch sử, thì ông tìm hiểu về ý nghĩa của chữ Epsilon của Hy Lạp khi nào?”
“Tôi đã gửi cho ông một bài báo về nó.”
“Khi nào?”
“Khoảng một tháng trước khi ông ấy…” Đôi mắt cô đột nhiên mở to.
Gray gật đầu. Ông quỳ trên sàn đá cẩm thạch và đặt đèn pin của mình xuống. Đặt đồng xu thẳng đứng với cạnh hướng lên, Gray búng nó, làm nó quay trên sàn nhà, dưới ánh sáng đèn pin.
Ông cúi người quan sát nó.
Đồng xu xoay tròn tạo nên một hình cầu óng ánh bạc, mờ ảo. Chữ E, ở vị trí trung tâm của đồng xu, bây giờ đang nằm giữaquả địa cầu xoay tít. Gray hiểu được ý nghĩa biểu tượng. Painter đã nói rằng E có thể có nguồn gốc nguyên sinh từ việc thờ phượng mẹ trái đất, Gaia. Bây giờ nó nằm tại trung tâm của hình cầu màu bạc, giống như hình ảnh nữ thần Gaia hiện hữu trong thế giới tự nhiên. Nhưng chữ E ấy còn đại diện tiềm năng trực giác của con người, xuất phát từ yếu tố cốt lõi trong cơ thể con người, trung tâm não bộ.
Gray để cho tâm trí thư giãn, tự tìm kiếm ý nghĩa.
Archibald Polk đã nhận ra những gì?
Đồng xu quay, cất giấu trong đó một ánh bạc huyền bí, một bí mật cổ xưa.
Nhưng nó là cái gì?
Cuối cùng, Gray cũng biết được.
Chồm tới, ông lật ngửa đồng xu lên đá cẩm thạch.
Tất nhiên là thế!
11:35
Pripyat, Ukraine
“Sasha đang ở trong tay người Mỹ,” giọng Nicolas gay gắt khi bước vào phòng ngủ. Ông đang trần truồng dưới chiếc áo choàng mở, nhưng sự tức giận khiến người ông nóng bừng.
Elena đang cuộn mình trong ga trải giường, cũng trần truồng. Một chân co nhẹ, tay thả lỏng hờ hững, cô đã ở trong tư thế sẵn sàng chờ đợi. Họ đã từ buổi tiệc trở về khách sạn của mình tọa lạc bên ngoài Khu vực cấm. Rất nhiều quan chức cũng được đón tiếp tại đây để chứng kiến sự kiện ngày mai.
Nicolas đã dành nửa giờ bên chiếc điện thoại vệ tinh chống nghe trộm, đảm bảo rằng mọi chi tiết cuối cùng đã được giải quyết trước bình minh. Một cuộc gọi cho mẹ mình tại Warren tiết lộ chút tin tức khá khó chịu. Với mối quan hệ của mình với các đặc vụ cũ trong KGB, bà đã nghe thấy nhiều bất ổn của cộng đồng tình báo của Washington. Thành phố này đã ở trong tình trạng hỗn loạn hơn hai mươi giờ qua, để tìm kiếm một cô bé. Nhất định là Sasha. Sau đó, mọi thứ rơi vào sự im lặng đáng sợ. Ngay cả Yuri cũng bặt tăm. Cả anh và mẹ anh biết điều đó mang ý nghĩa gì.
Một người nào đó đã tìm thấy cô bé.
Và Nicolas tự hỏi đó là ai?
Những ngón tay ông nắm chặt thành nắm đấm.
Nó dường như là cùng một tổ chức đã gây rắc rối cho ông ở Ấn Độ, đào bới những nghiên cứu của tiến sĩ Polk, khuấy lên trong ông một ý nghĩ đã từng kết thúc cùng với cái chết của ông ta. Mọi nỗ lực để xóa dấu vết đã thất bại. Nhưng có lẽ như thế cũng tốt.
Ông đã có một đầu mối liên lạc, sau khi thất bại.
Có vẻ như lực lượng truy tìm ở Ấn Độ đã cố gắng khép lại một bí mật mà Tiến sĩ Polk đã cất giữ bấy lâu.
Một cái gì đó mang ý nghĩa sống còn trong nghiên cứu của giáo sư. Một cái gì đó liên quan đến lũ. Nhưng là gì?
Elena ngọ nguậy và chống một khuỷu tay lên giường. Giọng cô đầy lo ngại: “Ông sẽ làm gì để giúp Sasha?”
Nicolas biết những đứa trẻ gần gũi với cô ra sao. Lớn lên cùng nhau ở Warren, những đứa trẻ lớn thường giữ vai trò của cha mẹ với những đứa nhỏ hơn. Elena đặc biệt thích Sasha và anh trai cô bé.
Cặp đôi ấy cũng quan trọng đối với Nicolas, quá quan trọng.
Ông ngã mình xuống giường, cô quấn lấy ông một cách lo lắng và giận dữ. Một tay cô trượt dưới áo choàng và khẽ đặt trên đùi ông. Làn da của cô nóng, sốt. Ông đã khiến cô chờ đợi quá lâu.
Sau đó, những móng tay dài đột nhiên siết chặt, ấn sâu lên đùi ông.
Ánh mắt Elena đăm đăm cuồng dại. Lửa thiêu đốt trong đôi mắt cô, chờ chực được giải phóng. Một giọt máu chảy xuống đùi của Nicolas, hấp dẫn như một cái lưỡi đói khát lướt qua.
Giọng nói của Elena trở nên đang thép, không nao núng, đòi hỏi, ra lệnh.
“Không được phép có chuyện gì xảy ra với bé Shara”.
Những ngón tay cô siết chặt một lần nữa, làm háng ông đau điếng.
Ông hứa hẹn trong hơi thở gấp. “Các biện pháp sẽ được tiến hành. Điều chúng ta cần..”
Vệt móng tay kéo dài, khiến ông phải nhấc chân lên.
“…là một cái gì đó để trao đổi.”
11:45
Punjab, Ấn Độ
Sấm sét như bùng nổ và chớp rực sáng lên ngôi điện thờ, Elizabeth theo Gray đến gần các bánh xe chakra khổng lồ trên tường. Ông áp bàn tay của mình lên đó. Kể từ khi nhìn đồng xu quay tít, ông đã nhận ra một cái gì đó.
Là cái gì?
Gray vừa nói vừa nhìn lên. “Từ nghiên cứu của tôi về triết học Ấn Độ, ở trung tâm của một bánh xe chakra thường có một chữ Phạn, tượng trưng cho một trung tâm năng lượng nào đó. Muladhara, bánh xe chakra nguyên thủy nằm ở đáy cột sống. Manipura, trong vùng của dạ dày. Anahata, nằm ở tim. “
Ông nhìn lên. “Ở đây không có một chữ nào. Trống rỗng. “
“Giống như trên các đồng xu,” Elizabeth ngập ngừng, chưa hiểu vấn đề sẽ đi đến đâu.
“Chính xác.” Gray đã nhặt lại đồng xu và đưa nó cho cô. “Nhưng lật đồng xu lên. Nếu cô có thể nhìn xuyên qua vị trí trung tâm của bánh xe chakra đến phía bên kia của đồng xu, cô nhìn thấy gì? “
Elizabeth lật qua lật lại đồng xu. Kí tự epsilon được khắc ở trung tâm của ngôi đền, ngay trục của bánh xe chakra ở phía bên kia. “Đó là chữ E,” cô lẩm bẩm.
“Nó nằm ngay mặt sau của bánh xe.” Gray quay sang Masterson. “Tôi có thể mượn gậy của ông?”
Giáo sư đưa nó cho ông một cách miễn cưỡng.
Gray bước lùi lại, đưa gậy lên, thọc vào chấm tròn làm bằng đá cẩm thạch đen ở giữa. Cơ bắp của ông căng lên, các vòng tròn nhỏ dịch chuyển ra khỏi vị trí, xoay vòng quanh một trục thẳng đứng, như một cái van bịt lấy ống dẫn.
“Một cánh cửa bí mật,” Masterson kêu lên.
Gray vẫy Kowalski. “Hãy giúp tôi leo lên.”
Kowalski bước qua, quì một đầu gối, và đan những ngón tay của mình vào nhau thành một cái thang. Gray đặt một chânlên, nhấc mình rồi đẩy mạnh các phiến đá cẩm thạch để nó mở rộng hơn. Khoảng cách từ sàn nhà tới cạnh dưới của cánh cửa bí mật cao phải đến 3m. Với sự trợ giúp của Kowalski, Gray trèoqua lỗ trống.
“Có cầu thang!” Ông thông báo khi chân vừa biến mất qua cánh cửa. “Dẫn xuống, khoét sâu vào đá sa thạch! “
Elizabeth hầu như không thể chờ đợi. Cô băng tới bênKowalski. “Hãy giúp tôi.”
Cô bước lên đầu gối của anh, nhưng anh nắm lấy eo và nhấc bổng cô lên khỏi mặt đất. Cô hơi ngọ nguậy vì ngạc nhiên.Anh chàng thật khỏe. Cô bám lấy miệng lỗ để giữ thăng bằng vàquờ quạng dùng chân lấy đà để trèo qua ô cửa.
“Ôi, cái mũi của tôi,” Kowalski ôm lấy mũi.
“Xin lỗi.”
Anh nắm lấy mắt cá chân của cô và đặt nó vào vai anh. Côthấy mình bị đẩy mạnh và lọt qua bên kia. Cô nhìn thấy Grayđang nhảy xuống vài bậc, chiếu ánh sáng trên các bức tường.Khắp bề mặt bức tường được trang trí bằng một tập hợp của các hình dạng và ký tự.
“Hãy nhìn đây,” Gray nói. Ông giơ đèn pin và chiếu vào mặt sau của cánh cửa đá cẩm thạch màu đen. Một epsilon lớn đã được khắc sâu vào trong đá.
Ông đã đúng.
Elizabeth lấy máy ảnh của mình và chụp một số hình ảnh trong khi Rosauro và Luca cũng vừa nhập bọn, đứng đầy trêncầu thang.
Gary nghiêng người. “Giáo sư Masterson đâu? “
Elizabeth thấy vị giáo sư lấp ló sau ô cửa.
“Leo trèo như vậy chỉ dành cho người trẻ,” ông nói, rõ rànglà kiệt sức, khập khiễng quay lui với cây gậy của mình. “Chỉ cần cho tôi biết những gì anh tìm thấy.”
“Tôi cũng sẽ ở lại đây”, Abe nói thêm, nhưng giọng anh có vẻ sợ hãi nhiều hơn là mệt mỏi. Elizabeth để ý thấy anh ta lo lắnghơn từ khi họ đến đây.
Gary gọi xuống. “Kowalski, ở lại đấy. Trong trường hợp chúng tôi gặp rắc rối. “
“Tốt thôi,” anh trả lời. “Tôi cũng không biết mình qua đó bằng cách nào.”
Mắt Kowalski liếc qua Elizabeth, gật đầu, âm thầm nhắc cô phải cẩn thận.
Sấm sét vẫn ầm ầm, cảm thấy như dội từ trong đá.
“Đi thôi,” Gray dẫn đường.
Ông dẫn đường với đèn pin của mình. Elizabeth theo sau,tiếp theo là Rosauro và Luca. Những ngón tay cô lần theo bức tường. Những dòng chữ Harappan như chảy tràn xuống cầu thang. Các ngôn ngữ cổ đại chưa bao giờ được giải mã, chủ yếu là do hiếm có bản thảo nào tồn tại. Các nhà khảo cổ vẫn đangnghiên cứu hòn đá Rosseta (Vào mùa hè năm 1799 giữa các cuộc giao tranh, một người lính Pháp đóng tại thị trấn Rosetta, Ai Cập đã tìm thấy một tấm bia màu đen, có kích thước 118 cm chiều cao, 77 cm chiều rộng và dày 33 cm có khắc các văn bản cổ bằng ba thứ tiếng: Hy Lạp, chữ tượng hình và tiếng Ai Cập cổ. Các học giả đã đặt tên cho tấm bia này là Đá Rosetta để ghi nhớ nơi đã tìm ra nó (ND). để dịch thứ ngôn ngữ này, chắc chắn phải có một số quy luật cho phép họ giải mã thứ mật mã cổ xưa này.
Cô nhìn xung quanh, đây có thể là những tìm kiếm đó.
Hồi hộp xen lẫn kinh ngạc, trái tim cô đập trong lồng ngực.Lạ là không ai nghe thấy nó.
Đồng thời, cô hình dung bước chân người cha quá cố đã từng bước qua đây. Cô tưởng tượng trái tim ông cũng đang đập rộn lên giống như cô vậy. Trong khoảnh khắc, cô cảm thấy một sự gần gũi kì lạ, một mối dây liên lạc mà họ chưa bao giờ chia sẻ trong đời. Và cũng sẽ không bao giờ. Cổ họng của cô nghẹn lại vì những cảm xúc chồng chất trong cô.
Cầu thang không kéo dài và kết thúc trong một phòng nhỏ bao quanh bởi sa thạch. Tiếng nước kêu róc rách dội lại ở phía xa. Một dòng nước ngầm tuôn ra từ một cái lỗ khoét trong tườngcao đến đầu gối và chảy qua một vết nứt trên sàn nhà, rồi biến mất sau bức tường đối diện.
“Một cái giếng của người Harappan,” Elizabeth nói, nhận ranó. “nền văn minh phát triển hoàn chỉnh hệ thống tưới tiêu dọc bờ sông Ấn”..
Gray rọi đèn pin quanh phòng. Không gian hình tròn khá sơ sài. Trên sàn đá hiện lên một bánh xe chakra khác. Nhưng trung tâm của vòng tròn ấy không trống rỗng. Một hòn đá hình quả trứng lớn đang nằm ở đó.
“Đó là một bản sao của hòn đá Omphalos,” Elizabeth giải thích.
Cô và những người khác lấy nó ra. Nó cao ngang bụng của cô và lớn gấp hai lần hòn đá ở bảo tàng Delphi. Bề mặt chỏm đầu của hòn đá được chạm khắc với cây, hoa lá.
Elizabeth nuốt nước bọt và nhìn xung quanh cô. “Ai đó đã tái tạo lại chính điện gốc, điện thờ phía trong của Nhà Tiên tri, nơi bà phán truyền những lời linh thiêng”.
Elizabeth bước qua một chiếc ghế bằng đồng bị lật đổ. Nó có ba chân. “Đây là một cái ghế ba chân. Ghế truyền thống củanhà tiên tri. “
“Những nhà tiên tri chứ nhỉ.” Gray lang thang cách đó vài bước, ông chiếu đèn vào mấy chiếc ghế đổ. Tất cả có 5 cái.
Elizabeth chụp một số hình ảnh. Nơi này là gì? Và nó được dùng để làm gì?
Rosauro khoác ba lô, gọi vọng lại từ một vách tường cao “cô có thể muốn nhìn thấy thứ này,” bà nói.
Luca đứng phía dưới, từ khoảng cách xa hơn. Tay ông vươn cao nhưng chưa chạm tới. Ngay cả trong bóng tối, Elizabeth cũngnhận thấy tay ông đang run.
Elizabeth lại gần Rosauro. Một bức tranh khảm phủ kíntường, gần như đã thành đen đúa vì thời gian. Một số mảnh ốprải rác trên sàn. Ai đó đã gỡ bỏ dăm ba mảng tranh, loại trừ nấm mốc và bụi bẩn của hàng thế kỷ. Ai đó dường như rất vội vàng. Elizabeth tưởng tượng cha cô đã dùng một miếng vải để chùi lên bức vẽ, mong tìm kiếm những gì ẩn giấu bên dưới.
Cô nhìn chằm chằm vào những gì vừa hiện ra.
Từ sàn đến trần nhà là một bức tranh mô tả một ngôi đền bịbao vây giữa những ngọn núi. ” Núi Parnassus,” Elizabeth lẩm bẩm. “Dưới sự tấn công của người La Mã. Nó cho thấy sự sụp đổ của những ngôi đền Delphi. “
Mảng tranh tiếp theo thể hiện một căn phòng khác hơi giống căn phòng họ đang đứng, dù vẫn với một Omphalos ở trung tâm- nhưng đá được đặt nằm nghiêng. Ẩn bên dưới mái vòm của đálà một cô gái nhỏ, thu mình nằm gọn trong vòng tay của một người phụ nữ trẻ, cuộn tròn chặt chẽ với nhau trong khi binh lính La Mã đang tìm kiếm họ.
Elizabeth liếc vào hòn đá phía sau cô. Không thể nào…
Cô men theo bức tường. Các bức vẽ kế tiếp miêu tả một đoàn ngựa, lừa, và xe. Vẫn là người phụ nữ mảnh mai dắt một đứa trẻ dẫn đầu đoàn lữ hành. Đoàn ngựa xe dài leo lên một ngọn núi. Chiếc cuối cùng được kéo bởi hai con ngựa dũng mãnh, rõ ràng đại diện cho những con chiến mã đã kéo cỗ xe mặt trời Apollo trên khắp bầu trời. Nhưng ở đây nó không kéo mặt trời. Trong lòng cỗ xe là một hòn đá đã bảo vệ người phụ nữ vàđứa trẻ. Cái rốn của Delphi.
Elizabeth quay lại và đối mặt với những hòn đá phía sau cô. Cô run lên. “Đó không phải là một bản sao,” giọng cô run rẩy. “Đó là cái rốn nguyên bản của vũ trụ. Cái được nhắc đến trongnhững ghi chép của Plutarch và Socrates. “
“Nhìn đây nữa này”, Rosauro nói và kéo Elizabeth đến bức vẽ tiếp theo. Nó là hình ảnh của các hẻm núi, một cảnh hân hoancủa những đền thờ Hy Lạp giữa tầng tầng vách đá. Chính điện được phác họa, không phải chỉ một Nhà Tiên tri ngồi ở ghế ba trụ mà có đến năm người. Họ vây quanh cái rốn vũ trụ đang bốc khói như một miệng núi lửa sắp phun trào. Khói bốc lên quyệnthành hình ảnh của một cậu bé với cánh tay dang ra. Đôi mắt rực lửa, ngọn lửa bốc lên từ lòng bàn tay mở của cậu.
Cậu bé biểu trưng cho lời tiên tri hay một cái gì đó đặc biệt hơn?
Elizabeth chợt cảm nhận ánh mắt rực lửa đang bao phủ lấy cô.
Gray cũng theo dõi câu chuyện tượng hình từ phía sau. Ông lướt tay qua bức tường như thể cần lưu giữ lại.
“Nhà Tiên tri cuối cùng, đứa trẻ, chắc hẳn đã phải rời đi sau khi ngôi đền sụp đổ. Những người canh giữ và bảo vệ ngôi đền đã bí mật chạy trốn khỏi sự truy quét của người La Mã, gầy dựng lại mọi thứ từ đống đổ nát Harappan và ẩn náu chốn này.”Elizabeth nhớ câu chuyện của Abe về nơi này. “Họ vẫn an toàn suốt bảy trăm năm, có khi còn bí mật sống xen kẽ với cả những bộ lạc địa phương. Qua nhiều thế hệ, người Hy Lạp dần hòa nhập với nền văn hóa Ấn Độ.”
“Sau đó, họ đã không tránh được sự đàn áp tôn giáo và hệ thống đẳng cấp của Ấn Độ,” Gray nói. “Những bộ xương. Kết quả một vụ thảm sát xảy ra ở đây. “
Luca đứng phía cuối bờ tường lên tiếng. “Và họ lại chạy trốn.”
Mọi người hướng về phía ông, nơi có một dòng suối đang róc rách chảy. Tác phẩm không theo lối khảm tranh mà được ai đó khắc họa rất vội vã bằng nước sơn đen, miêu tả lại cuộc tấn công vào khu điện thờ. Mọi người đổ ra kháp các hướng, chỉ có một nhóm nhỏ nổi bật trên vệt sáng là trốn chạy theo đoàn xe ngựa với những bánh xe khổng lồ. Hình ảnh tan biến dần trên những mảng tường phía xa.
Luca đặt ngón tay nhẹ nhàng lên các toa xe. Giọng ông vỡ ra trong cảm xúc. “Đây là những tổ tiên của chúng tôi,” ông nói. “Người Romani. Cội nguồn của chúng tôi. Quê cha đất tổ. “
Gray bỗng lùi lại, gương mặt sững sờ bao quát bức tường.
Những người canh giữ đền thờ đã đem theo đứa trẻ cuối cùng và tảng đá trốn thoát, ẩn náu trong thung lũng này, bảy thế kỷ hòa nhập với văn hóa Ấn Độ, để rồi nền văn hóa ấy ngược đãi họ, biến họ thành những kẻ lang thang dưới một cái tên mới.
Những người Gypsy.
Gray đưa tay đi vòng quanh bức tường. “Câu chuyện này chắc hẳn đã vẽ ra một phả hệ di truyền mà lịch sử lưu giữ bấy lâu nay. Từ Hy Lạp, tới đây, rồi lại tiếp tục lan tỏa. Một phả hệ mang dòng dõi bác học.”
“Lý do tại sao chúng tôi là dân du mục,” Luca vẫn không rời mắt khỏi đoàn lữ hành. “Như Abe đã nói, chẳng có nơi nào là vĩnh viễn an toàn. Thế nên chúng tôi luôn dịch chuyển, cố bảo vệ lấy bí mật chôn sâu trong tâm khảm của mỗi thị tộc.”
“Cho đến khi bí mật bị đánh cắp khỏi người dân các anh,” Gray ôn tồn. “Bí mật gắn liền với cả mảnh đất Delphi,” Elizabeth thêm vào.
Cô hình dung đến đứa trẻ ở Washington. Có lẽ nào cô bé thực sự là hậu duệ của Nhà Tiên tri cuối cùng ở Delphi?
Rosauro nhìn lại bức họa trên tường, chỉ vào dòng người trốn chạy khỏi đoàn quân vây hãm từ khắp hướng. “Những người lánh nạn,” bà nói với Elizabeth. “Nguyên nhân tại sao cha cô tìm thấy các dấu vết di truyền tập trung nhiều ở khu vực này, nhất là giữa những đẳng cấp thấp. Đây là nơi những kẻ lánh nạn hòa nhập vào cộng đồng.”
Trong lúc cả hai bàn luận, Gray vẫn miệt mải nghiên cứu sâu hơn về tác phẩm. Mảng tranh cuối cùng khắc họa cậu bé trong vòng lửa. “Có chữ viết dưới này,” ông lên tiếng.
Elizabeth bước đến gần. Có ba dòng ký tự. Trên cùng là ngôn ngữ Harappan được viết nắn nót, dòng tiếp theo là tiếng Phạn, tiếng Hy Lạp ở dòng cuối. Dưới cùng còn có một bánh xe chakra.
“Tôi không đọc được chữ tượng hình Harappan. Không ai đọc được. Tôi chỉ thấy được vài ký tự đầu tiếng Phạn và tiếng Hy Lạp. Phần cuối đã bị mờ. Dịch ra là thế giới sẽ thiêu đốt^Cô nhanh tay chụp lấy vài tấm ảnh, chủ yếu là nhân vật dưới ánh lửa. “Phần còn lại bị mất.”
Gray cúi xuống, chạm vào bánh xe chakra được khắc dưới cùng. “Cái này hẳn là quan trọng. Xuất hiện khắp nơi.”
Ông quay sang bánh xe chakra lớn hơn nằm trên sàn nhà. Cái rốn vũ trụ dựng ngay giữa trục. Elizabeth đọc được ý nghĩ của Gray. Nếu bánh xe là phần quan trọng, thứ nằm ở trung tâm hẳn quan trọng gấp đôi. Mắt ông khép hờ lúc quan sát tảng đá. Họ mới chỉ lướt qua nó.
“Cha cô đã giấu chiếc hộp sọ bên trong tảng đá ở bảo tàng. Chắc là có lý do.M
“Cẩn thận,” Elizabeth hét lên, lo sợ ông sẽ làm tổn hại đến một phần lịch sử cổ đại. Cô đi vòng quanh tảng đá, phát hiện mép dưới cũng được khắc bởi ba thứ ngôn ngữ: Harappan, tiếng Phạn và tiếng Hy Lạp.
Thêm vài bức ảnh được chụp lại.
Lấy thăng bằng trên đỉnh, Gray chiếu đèn xuống cái lỗ xuyên thẳng vào trung tâm.
“Ông thấy gì vậy?” Cô tò mò.
“Vàng… trong hình thù hai con chim đại bàng.”
Hơi thở của Elizabeth trở nên đứt quãng. “Chúng xoay lưng lại với nhau phải không?”
Gray liếc nhìn cô. “Phải.”
“Đó cũng là tạo tác bị đánh cắp từ Delphi, tượng trưng cho những con đại bàng của thần Zeus. Theo thần thoại, cặp đôi này được phóng thích từ hai hướng khác nhau trên vai Zeus để xác định trung tâm thế giới. Chúng đậu lại ở Delphi, đánh dấu cái rốn của thế giới.”
“Chắc chắn cha cô đã tìm ra chúng.” Gray thò tay vào bên trong. “Có thể chúng bị giấu ở đây vì một vài lý do, khớp với lý do cha cô giấu chiếc hộp sọ trong cái rốn ở bảo tàng.”
Elizabeth vẫn nép mình bên tảng đá, cố dịch cho xong ba dòng ký tự trong lúc Gray căng tay chạm vào hai con đại bàng.
“Tôi nghĩ là lấy được…”
Elizabeth vừa đưa ngón tay lần theo từng ký tự vừa lẩm nhẩm đọc. “Tham lam và báng bổ mang tất cả đế diệt vong..”
Elizabeth dừng lại.
Ồ, không!
“Đã lấy được nó,” Gray nói khi ông chạm vào thần tượng bằng vàng.
Elizabeth chộp lấy ông. “Đừng!”
Giật mình, Gray trượt chân tuột xuống.
Một cú đập mạnh trong lòng đá, tiếng rạn nứt như sấm rền phát ra từ bên dưới. Phía sau căn phòng, một thứ âm thanh ầm ầm dội lại, lớn dần, tựa như đoàn tàu chở hàng đang lao về phía họ.
Mọi người nín thở cho đến khi Gray vung tay về phía cầu thang và hét lên. “Ra khỏi đây!”…
Đã quá muộn.
Một luồng nước ồ ạt tràn qua khe suối với sức mạnh của một cột cứu hỏa đường kính hơn nửa mét. Những vết nứt bắt đầu lan ra từ lỗ hổng, bò khắp tường.
Một cơn lũ quét nhân tạo.
Dòng nước đổ ập về phía trước, tràn qua căn phòng, đốn ngã tất cả bằng sức mạnh phi thường.
Elizabeth bị vướng lại giữa căn phòng ngập nước lạnh buốt. Gray tóm lấy khuỷu tay, lôi cô về phía cầu thang.
“Một cái bẫy…” cô ho sù sụ, bàng hoàng. “Chuyển đổi áp suất! Cha tôi… đã cố cảnh báo cho chúng ta…”
Gray hét lên. “Ra! Ra mau!”
Cô nhấc mình trèo lên vài bậc đầu tiên. Phía sau, Gray lặn tìm Luca và kéo ông đến cầu thang. Nước đã lên ngang hông, cứ mỗi hơi thở lại càng dâng cao hơn. Gray vẫn vật lộn với dòng nước bên dưới cầu thang, lần tìm cái hốc nhỏ.
Elizabeth biết lý do tại sao.
Rosauro đã biến mất.
Gray đã mất dấu Rosauro.
Bà ở cạnh dòng suối lúc nó vỡ òa. Dòng lũ ồ ạt cuộn thành một vòng xoáy hung tợn, phản chiếu ánh đèn pin loang loáng. Ông không thể nhìn thấy gì bên dưới mặt nước. Nước đã ngập đến thắt lưng. Rosauro chắc chắn vẫn có thể đứng được, nếu bị xô ngã thì cơ thể bà phải nổi lên.
Trừ khi…
Gray với tay về phía Luca. “Dao găm của anh!
Một lưỡi bạc lóe sáng, người đàn ông Gypsy đập chuôi dao vào tay Gray. Gray tung cây đèn ngược trở lại cho Luca.
“Chiếu đèn xuống nước!” Dứt lời, ông lặn ngay vào cái hố ngập nước.
Dòng xoáy cuộn lấy ông, quất ông vào thành tường. Gray không phản ứng, để mặc sức nước đưa đến phía bên kia cái hang, ông biết lúc nào sẽ tới nơi nhờ vào cảm nhận sức nước đang phun trào bên dưới, ông xoay mình, đá vào bờ tường trước mặt.
Dù có ý thức hay không cũng nhận ra được điều duy nhất đang kéo chân Rosauro ở lại.
Áp suất.
Gray lặn xuống lỗ hổng nơi dòng suối chảy ra. Trong ánh đèn pin mờ ảo, ông nhận ra một cơ thể mắc kẹt ngay đó, đang vùng vẫy. Rosauro bị hút chặt, miệng hốc nuốt chửng một cánh tay. Gray từng nghe có người chết đuối vì bị cuốn vào cống dẫn nước trong bể bơi. Sức nước ở đây còn hung bạo gấp trăm lần.
Gray tóm lấy cánh tay còn lại, kéo ông xuống gần Rosauro. ông giữ chặt hai chân bên miệng hố. Ánh sáng nhạt nhòa cũng đủ khiến ông nhận ra nỗi kinh hoàng trên gương mặt đang hướng lên nhìn ông.
Một đồng đội của ông từng chết đuối – ông không muốn mất thêm người nào khác. Lưỡi dao cắt ngang hai quai đeo trên chiếc ba lô của Rosauro. Phân nửa ba lô đã bị ngoạm chặt khiến bà mắc kẹt theo. Quai vừa đứt, Gray thả dao, túm lấy Rosauro bên hông, dồn hết sức lực trồi lên. Bà bị tuột lại vài giây trước khi chiếc ba lô cuốn sâu vào lòng ống, khiến cho áp lực giảm bớt đủ để Gray kéo bà bật ra. Ôm Rosauro trong tay, ông cuộn người để cho dòng xoáy tự đưa họ trở lại lối cầu thang.
Nước chỉ còn cách trần chưa đầy nửa mét.
Tiếng đá nứt toác, vỡ vụn. Dòng nước đột ngột xô mạnh lúc bức tường phía sau đổ sụp.
Gray sải chân ngoi lên mặt nước đã ngập gần hết lối đi.
Thở hổn hển, ông chạm phải cánh tay Luca đang vươn ra giúp Rosauro. Bà ho sặc sụa vì ngộp nước quá lâu. Nước tràn qua môi, bà hớp lấy không khí lúc ngước lên.
Câu chửi thề bằng tiếng Tây Ban Nha còn được tranh thủ tuôn ra, cộc cằn đến mức Kowalski cũng phải lùng bùng lỗ tai nếu nghe thấy.
Nước bắt đầu chạm nóc, bất chợt khuấy tung lên từ đằng sau.
“Đi thôi,” Gray ra lệnh.
Ông kéo Rosauro đứng lên, ra hiệu cho Elizabeth và Luca tiến về phía trước. Đầu gối bị thương nhưng với nước bám tới gót, Rosauro sẵn sàng tháo chạy. Sức hút khiến tay trái của bà vẫn co lại trước ngực vì căng cứng.
Họ lao lên trên, chạy đua với dòng nước lũ đang dâng.
Tới nơi, Elizabeth trườn lui, lơ lửng bám vào ô cửa, rồi đáp xuống sàn.
“Đi nào!” Gray gọi vọng lên khi thấy ông do dự. Luca nghe lời anh và biến mất.
Gray giúp Rosauro vượt qua ô cửa cẩm thạch màu đen. Bà treo mình trên cánh tay lành lặn rồi rơi xuống an toàn. Nước tràn lên bậc thang cuối cùng, ồ ạt tạt qua người Gray.
Ông buông tay đúng một giây trước lúc con nước va vào cửa khiến nó đóng sập. Hạ mình xuống đất, ông ngước nhìn lên. Cánh cửa bị cắt một góc, chỉ có thể xoay theo chiều duy nhất. Áp lực nước giờ đây khóa chặt nó lại.
Tự niêm phong.
Quay đầu, ông nghe thấy một tiếng rền vọng lại từ hẻm núi. Chớp sáng lòa. Nước tràn qua lòng chảo, cả vùng đang rơi vào tình trạng ngập lụt, một cơn lũ tự nhiên – không phải hậu quả do bàn tay táy máy của Gray.
Khối nước chảy qua hẻm núi khiến ông phải ngoái nhìn.
Thảo nào những công trình này phải xây trên vách đá.
Gray chợt nhận ra điều bất thường khác.
Luca cũng vậy, ông thì thầm, “Mọi người đâu hết cả rồi?”
Như nghe được câu hỏi ông, Masterson khập khiễng bước tới từ bậu cửa, chống tay lên gậy. Ông khuất dạng sau mái hiên bên ngoài, chắn chắn là đang quan sát dòng nước lũ cùng với hai người còn lại.
“Cảm ơn Chúa,” vị giáo sư reo lên. “Mọi người ở dưới đó lâu phát khiếp. Các anh tìm thấy gì?”
Elizabeth hào hứng tiến tới. “Câu trả lời cho mọi thứ! Thật kỳ diệu.”
“Đúng thế không?”
Đằng sau Masterson, những nhân vật mới xuất hiện.
Một số khác xộc vào từ hai cánh. Tất cả đều trong trang phục đen, súng ống tua tủa dựng sẵn trên vai.
Lính biệt kích Nga.
“Cô sẽ phải kể cho tôi nghe sự thật,” Masterson gằn giọng. “Vì cha cô đã từ chối điều đó.”
Kowalski bị xô lại từ lối vào chính, tay đặt trên đàu, máu chảy xuống mặt, chẻ lông mày bên phải làm đôi. Bọn lính bắt anh chàng quỳ xuống.
“Chúng giết Abe rồi,” Kowalsk kêu lên. “Bắn anh ấy như một con chó.”
“Hắn cũng là tiện dân. Ở Ấn Độ, chó còn được đối xử tốt hơn.”
Quân lính bao vây quanh họ.
Elizabeth sững sờ nhìn vị giáo sư, không thốt nên lời. Nhận ra sự phản bội sâu cay, cô hét lên đầy căm phẫn. “Là ông! Chính ông đã phản bội cha tôi!”
“Tôi không còn cách nào cả, Elizabeth. Ông ta đã đến quá gần sự thật.”
Gray bỗng lạnh toát, ông hiểu rằng trò chơi đã diễn ra từ lâu. Masterson được trả tiền để theo dõi nghiên cứu của giáo sư Polk, cung cấp dữ liệu cho cấp trên… nhưng đến khi cha của Elizabeth đi quá xa, ông phải bị loại ra khỏi cuộc chơi.
Nhưng ai đứng đằng sau tất cả những chuyện này?
Masterson hẳn đã nhận ra sự phẫn nộ băng giá trong mắt của Gray và mặc dù Gray chẳng thể làm gì, ông ta vẫn lùi lại một bước. Masterson vẫy cây gậy của mình. “Chỉ huy Pierce, có vẻ như bây giờ anh và những người khác đang cần sống sót. Nhưng có lẽ không phải là anh đồng nghiệp to lớn này. “
Ông ta chỉ cây gậy của mình vào Kowalski.
“Giết hắn.”
Mắt Kowalski mở to.
Gray lao về phía trước, nhưng ba báng súng cùng lúc húc mạnh ngực anh.
Elizabeth kêu lên, “Xin làm ơn, Hayden, không! Tôi xin ông! “
Gray nghe giọng cô nghẹn lại, Masterson có lẽ cũng thế.
Giáo sư liếc Elizabeth, sau đó đảo mắt qua Kowalski. “Được thôi. Chỉ vì tôi nợ cha của cô. Nhưng nếu như có bất kỳ một dấu hiệu rắc rối nào từ anh ta, chúng tôi sẽ bắn. “
Masterson nhìn chằm chằm qua Gray. “Anh muốn biết Archibald đã đi những nơi nào?” Ông ta lắc lắc đầu. “Anh nên cẩn thận với những gì anh muốn.”