Nhà Tiên Tri Cuối Cùng

CHƯƠNG 20: NGÀY 7 THÁNG 9, 02:17 AM, GIỜ EST THỦ ĐÔ WASHINGTON, D.C.



Painter lao về phía hành lang. Không cần phải chuốc thêm rắc rối, nhưng ông chấp nhận.
Toàn bộ hầm chỉ huy đã ở chế độ đóng cửa sau cuộc tấn công. Đúng như ông dự tính, cái chết trong ngọn lửa cháy bừng bừng của Mapplethorpe đã khiến đội ngũ tham chiến còn lại lẳng lặng biến mất. Painter quyết tâm tìm cho ra những chân tướng ủng hộ cho Mapplethorpe cả về nguồn lực lẫn tin tức tình báo để thực hiện cuộc tấn công này.
Trong lúc chờ đợi, Painter phải ổn định lại trật tự ở đây.
Đội hình cốt cán của ông đã có mặt trở lại. Những người bị thương được đưa đến bệnh viện địa phương, số người chết vẫn giữ nguyên vị trí. Ông không muốn bất cứ thứ gì bị xáo trộn cho đến lúc đội pháp y của ông đến. Ca trực tối nay ám mùi sát khí. Mặc dù Painter đã thuê thiết bị lọc khí và máy thông gió để tẩy sạch chất xúc tác, nhưng vẫn không xóa được mùi thịt cháy thành than.
Vấn đề quan trọng là thiết lập lại an toàn ở cơ sở này. Ông liên tục nhận được điện thoại từ các phân nhánh tình báo hỏi về mọi chuyện xảy ra ở đây và về hành động khủng bố dang dở tại Chernobyl. Painter hầu như từ chối trả lời mọi câu hỏi. ông không có thời gian tiếp chuyện hoặc tham gia trò chơi chính trị của những mật thám cỡ bự. Cú điện duy nhất ông trả lời vắn tắt là từ ngài tổng thống, gọi đến với mục đích tỏ lòng biết ơn. Painter lấy đó làm lý do để trì hoãn mọi cuộc phỏng vấn khác. Một cuộc tấn công nữa đang đe dọa.
Đó là ưu tiên hàng đầu.
Vấn đề cần kíp nhất lại liên quan chặt chẽ đến điều chưa biết, ông muốn đặt toàn bộ sự tập trung vào việc xác định nó. Đến tầng y tế, ông đi ngang qua một trong những phòng bệnh riêng. Kat và Lisa đang ngồi bên giường.
Lisa gắn lại điện não đồ vào hai bên thái dương của Sasha.
“Cô bé lại ốm sao?” Painter sốt sẵng.
“Có gì đó khác lạ,” Lisa trả lời. “Cô bé không sốt như trước nữa.”
Kat đứng đó, hai tay bắt tréo. Những nếp nhăn trên trắn bà thể hiện rõ sự lo lắng. “Tôi đang đọc truyện, cố ru cô bé ngủ. Cô bé lắng nghe. Rồi bỗng nhiên ngồi dậy, nhìn vào góc trống, gọi tên Pyotr, sau đó mềm rũ người và nằm sụp xuống.”
“Pyotr? Bà có chắc không?”
Kat gật đầu. “Yuri có nhắc đến cậu em trai song sinh của cô bé tên là Pyotr. Chắc đó là một ảo giác.”
Lúc họ nói chuyện, Lisa lùi về bàn thiết bị, bắt đầu khởi động máy. Sasha được đo cả điện tâm đồ và điện não đồ để kiểm soát trạng thái thần kinh lẫn tim mạch. “Mô cấy của cô bé có hoạt động không?” Painter hướng mắt về thiết bị xung điện. “Không,” Lisa đáp lời. “Malcolm đã kiểm tra. Ông ấy đến, lại vừa đi ra ngoài gọi điện. Nhưng có gì đó đang xảy ra. Các thông số trên điện não đồ cho thấy vùng sóng lớn xảy ra ở mặt cong của thùy thái dương. Đặc biệt là vùng bên phải nơi có mô cấy. Gần như là cô bé đang bị nhồi máu não thùy thái dương. Ngược lại, nhịp tim cô bé chậm, huyết áp hạ đến biên. Có vẻ như toàn bộ năng lượng cơ thể đang nuôi dưỡng một bộ phận duy nhất.”
“Não bộ,” Painter suy đoán.
“Chính xác. Mọi thứ khác ở trong cơ chế ngủ yên.”
“Nhưng tới mức nào?”
Lisa lắc đầu. “Em chưa biết. Em sẽ tiến hành thêm vài xét nghiệm. Nhưng nếu cô bé không phản ứng, chỉ còn một giải pháp.”
“Gì vậy?” Kat lên tiếng thắc mắc.
“Mặc dù mô cấy xung điện không hoạt động, sóng điện não đồ vẫn tập trung quanh đó. Tôi không giúp được gì nhưng tôi tin là những điện cực thần kinh góp phần gây ra tình trạng này. Xung điện ở khu vực này cao kinh khủng – dây thần kinh trong não đang hoạt động như cột thu lôi vậy. Nếu tôi không thể khiến vận động thần kinh ổn định lại, có thể cô bé sẽ tự đốt cháy mình.”
Kat tái nhợt trước chẩn đoán của Lisa. “Còn giải pháp?”
Lisa thở dài không mấy lạc quan. “Ta phải phẫu thuật lấy mô cấy. Malcolm đang gọi điện cho một nhà giải phẫu thần kinh ở Washington.”
Painter choàng một cánh tay lên vai Kat động viên, ông biết rằng bà gắn bó với đứa trẻ ra sao. Họ đã hy sinh nhiều mạng người để bảo vệ cô bé. Giờ lại mất đi cô bé…
“Ta sẽ làm mọi việc có thể,” Painter hứa với bà.
Kat gật đầu.
Máy nhắn tin của Painter reo lên. Ông buông tay kiểm tra số gửi đến. Đại sứ quán Nga. Ông cần thực hiện một cuộc gọi. Vài phút nữa Gray sẽ đến Chelyabinsk.
Lisa khẽ mỉm cười, vẫy tay chào khi ông ngoái đầu lại. “Anh sẽ gọi nếu có gì thay đổi.”
Ông tiến ra cửa – rồi bất ngờ nghĩ ra một điều ông từng bỏ qua mà chưa tìm hiểu kĩ. Ông nhíu mày nhìn Kat vẻ dò hỏi.
“Nếu không nhầm, hình như tôi từng nghe bà nói…”
Kat hướng mắt về phía ông.
“Bà có ý gì khi nói là Monk vẫn còn sống?”
12:20 chiều Phía Nam dãy Ural
Monk men theo đoàn tàu trong bóng tối. Cánh tay bị cụt bám sát vào thành tàu lúc ông bước trên đường ray. Ông duỗi cánh tay còn lại ra phía trước mò mẫm, vài lần vấp phải tà vẹt và những hòn đá lớn chắn đường.
Lúc Monk vừa bước xuống tàu, Pyotr đã ngưng la hét một cách đột ngột. Không gian càng thêm yên ắng, sự tĩnh mịch gần như ăn khớp với bóng tối. Tim ông đập thình thịch.
Ông trèo lên một xe quặng, quờ quạng. “Pyotr?”
Giọng ông vang khắp đường hầm. Vẫn chưa thấy tăm hơi cậu bé. Cách duy nhất là tiến về phía sau.
Monk nhảy xuống, di chuyển đến xe quặng kế tiếp.
Bỗng nhiên…… có gì đó chộp lấy bàn tay ông.
Monk la toáng lên vì bất ngờ. Những ngón tay lông lá. Theo phản xạ ông giật tay lại, nhưng cú nắm khá chặt. Một tiếng rúc khẽ thu hút sự chú ý.
“Marta!” Monk lóng ngóng ôm choàng lấy Marta.
Nó đáp lại, dụi má vào người ông, thở phì một tiếng. Người Marta run lên. Ông cảm nhận được nhịp đập hối hả từ trong lồng ngực đối diện. Tay vẫn nắm chặt, Marta nhẹ nhàng lôi ông đi.
Marta dẫn đường, và ông hoàn toàn tin tưởng nó sẽ đưa ông tới nơi có Pyotr. Hối hả, Monk chạm đến khoang cuối. Khoang này khá kín đáo, không như những xe quặng nằm giữa.
Marta nhảy qua một khung cửa.
Monk trèo lên từ đằng sau. Con tinh tinh già vừa lê bước vừa kéo ông lại một góc. Pyotr nằm sóng soài trên sàn tàu.
Monk vỗ nhẹ, định hình lại cơ thể cậu bé trong bóng tối. “Pyotr?”
Không có phản ứng nào.
Ngực cậu bé vẫn nhấp nhô. Ngón tay ông di chuyển trên khuôn mặt nhỏ nhắn. Cậu bé bị thương? Vừa té ngã ở đâu? Da thịt cậu nóng hổi. Một bàn tay sờ soạng, hệt chú chim lạc bầy đang tìm kiếm, cuối cùng nắm chặt lấy tay Monk.
“Pyotr, cảm ơn Chúa.” Monk bế bổng cậu bé lên đặt vào lòng. “Bác tìm được rồi. Cháu an toàn rồi.”
Hai cánh tay quàng vào cổ ông. Qua lớp áo, Monk vẫn cảm thấy hơi nóng toát ra từ người cậu.
Pyotr khẽ thì thầm vào tai ông. “Đi thôi…” Monk bất giác rùng mình. Âm thanh sâu hơn nhiều so với giọng nói ngập ngừng thường ngày của cậu bé. Có thể là do bóng tối, cũng có thể do nỗi khiếp đảm. Chân tay khẳng khiu của cậu bé không có dấu hiệu run rẩy. Mệnh lệnh ẩn chứa trong lời nói cao hơn là sự khẩn cầu. Không phải là ý tồi.
Ông ôm cậu bé đứng dậy. Pyotr có vẻ nặng hơn, mệt nhọc đã thấm sâu vào xương cốt ông, gần như muốn ngã quỵ. Được Marta dẫn lối, ông nặng nề đáp xuống mặt đất, vội vã di chuyển lên đầu tàu. Ông mang theo một khẩu súng, khẩu còn lại để trong buồng lái.
Đến nơi, Monk cất tiếng hỏi, “Cháu có thể …?”
Chưa dứt lời, Pyotr tự mình gượng dậy leo vào trong khoang.
“Cháu ở lại đây.” Monk nhanh tay chộp lấy khẩu súng thứ hai quầng lên vai rồi quay sang Pyotr. Cậu bé nắm lấy tay ông.
Monk thở hắt ra. Hướng nào đây? Tàu đã dừng lại ở giữa đường. Họ có thể trở về với Konstantin và những đứa trẻ khác hoặc tiếp tục tiến về phía trước. Nếu hy vọng chặn đứng hành động của người đàn bà điên cuồng ấy, thì không nên quay lại.
Có lẽ Pyotr cũng nghĩ như thế. Cậu bé đi về hướng Chelyabinsk 88.
Hai khẩu súng đã nằm gọn trên vai, cùng với con tinh tinh và một cậu bé, Monk bắt đầu di chuyển xuống đường hầm. Họ đã đi đúng một vòng, giờ đây lại trở về nơi xuất phát. Nhưng họ sẽ phải đối mặt với sự tiếp đón nào đây?
 
Vị bác sĩ lắc đầu. “Xin lỗi Thiếu tướng. Tôi không hiểu chuyện gì xảy ra với lũ trẻ. Chúng chưa từng có biểu hiện rối loạn như thế này.”
Savina nhìn quanh phòng. Hai hộ lý cùng hai binh sĩ đem theo gối và chăn từ phòng ngủ gần đó, ổn định lại tư thế của mười đứa trẻ lúc này đã như gỗ đốn, xếp thành hàng trên sàn nhà. Hai bác sĩ được triệu tập: Tiến sĩ Petrov chuyên khoa thần kinh và Tiến sĩ Rostropovich khoa công nghệ sinh học.
Petrov mặc chiếc áo khoác da cừu, hai tay chống hông. Đội ngũ y tế đang sẵn sàng sơ tán thì được gọi tới đây. Một đoàn xe tải và đồng đủ các phương tiện đã xếp hàng chuẩn bị khởi hành.
“Tôi cần có đầy đủ thiết bị để chẩn đoán, như vậy mới biết rõ được,” ông lên tiếng. “Trong khi chúng ta đã tháo dỡ…”
“Phải. Tôi hiểu. Ta sẽ phải đợi cho đến khi tới cơ sở ở Moscow. Có an toàn cho lũ trẻ nếu phải di chuyển không?”
“Tôi nghĩ là ổn.”
Savina trân trân nhìn vị bác sĩ. Bà không thích mập mờ.
Ông ta gật đầu tỏ vẻ chắc chắn hơn.
“Trạng thái của chúng ổn định. Có thể di chuyển.”
“Vậy thì sắp xếp đi.”
“Vâng thưa Thiếu tướng.”
Savina dặn dò các nhân viên y tế rồi quay trở lại trạm điều khiển bên dưới. Vừa giải quyết mọi việc ở đây, Savina vừa bắt liên lạc với tay chân của mình trong tình báo Nga và lực lượng quân đội. Mạng thông tin tắc nghẽn ở Chernobyl cuối cùng cũng được nới lỏng. Những báo cáo và tin đồn mâu thuẫn xoay quanh sự kiện: từ hiện tượng lõi phóng xạ tan chảy hoàn toàn, đến cuộc tấn công khủng bố của phiến quân Chechnya. Các ý kiến đồng tình rằng nhất định có rò rỉ phóng xạ, dù phạm vi chưa rõ ràng.
Tại sao Nicolas vẫn im lặng?
Lo lắng đã gặm nhấm lòng kiên trì lẫn tâm trạng bà lúc này.
Giờ đây lại là tình trạng lạ lùng của lũ trẻ. Savina cần phải dàn xếp mớ lộn xộn và tập trung vào vấn đề sắp tới. Cho dù tình huống ở Chernobyl có thế nào đi chăng nữa, Chiến dịch Thổ Tinh vẫn tiến hành. Thậm chí vì lý do nào đó Nicolas thất bại, bà cũng không thoái lui. Chiến dịch của bà sẽ đảo lộn nền kinh tế thế giới, khiến hàng triệu người diệt vong, phóng xạ lan tràn nửa địa cầu. Nhiệm vụ sẽ khó khăn gấp bội, nhưng với những đứa trẻ bác học trong tay, họ sẽ thành công.
Vứt bỏ mọi bận tâm, bà quay về với vẻ lãnh đạm đầy cương quyết. Bà biết rõ nhiệm vụ phải làm.
Màn hình theo dõi trong trạm vẫn tắt, trừ những hình ảnh truyền về từ khu mỏ M.c. 337. Bà quan sát những cơ thể nhỏ bé trải dài trên nền đá. Không có dấu hiệu chuyển động.
Bà quay sang hai viên kĩ sư. “Những máy quay còn lại tại sao không hoạt động?” Viên kĩ sư trưởng đứng lên. “Cách đây vài phút đã khởi động lại. Chúng tôi đang chờ lệnh để cho hệ thống truyền tín hiệu.” Savina thở dài, đặt tay lên trán. Tại sao người ta muốn cứ phải bị chỉ đạo mới làm như vậy chứ? Bà phất tay về bảng điều khiển. “Làm đi.”
Dù nóng lòng muốn băm vằm hắn ra, bà vẫn giữ giọng bình thản. Sau khi yêu cầu ngắt điện, chính bà cũng không đưa ra mệnh lệnh nào khác.
Để tránh hiểu lầm tiếp diễn, Savina chỉ vào màn hình M.c. 337. “Ngắt điện trong phân trạm. Tất cả, trừ máy quay.” Bà không muốn có thêm bất ngờ nào từ khu vực đó.
Hai viên kĩ sư quay trở lại công việc, đèn bỗng nhấp nháy trên bảng điều khiển, màn hình hiện lên quang cảnh đường hầm và khu trung tâm của chiến dịch. Mọi thứ đều ổn – ngoài một sự thật hiển nhiên.
Con tàu không còn đỗ lại cạnh khu mỏ. Savina chỉ vào màn hình. “Bật máy quay dọc đường hầm. Tìm cho ra con tàu.”
Bảng điều khiển trung tâm lập tức được gõ liên tục, hình ảnh lần lượt xuất hiện khiến bà hoa mắt. Con tàu xuất hiện ngay giữa đường hầm. Im lìm. Savina bước lại gần để quan sát kĩ hơn từng khoang. Không một chuyển động. Có thể ai đó đang ẩn nấp, nhưng Savina không nghĩ vậy.
“Đi sâu hơn,” bà ra lệnh.
Hình ảnh lại tiếp tục nối dài. Bà đã phát hiện ra.
“Dừng lại!”
Ngọn đèn duy nhất thắp sáng đường hầm tối tăm. Cách cửa sập khoảng một phần tư kilômét. Những bóng mờ bắt đầu ra khỏi bóng tối, tiến về phía ánh sáng từ phía hầm sâu hơn.
Tay Savina siết chặt mép bảng điều khiển.
Chính là gã người Mỹ… đang dẫn theo một đứa trẻ.
Savina nhận ra cậu bé khi hai người trên màn hình đi vào vùng ánh sáng.
Pyotr.
Bà bật thẳng người, liếc nhìn màn hình nhiễu động truyền từ M.c. 337. Tất cả bọn trẻ đều ngã quỵ. Tại sao cậu bé này vẫn có thể đứng và di chuyển?
“Thiếu tướng?” Viên kĩ sư gọi.
Đầu óc Savina xoay mòng, không có cách nào giải thích. Bà lắc đầu. Dường như cảm nhận được sự theo dõi, cả hai dừng lại trước ánh đèn. Người đàn ông nhìn về phía sau. Mắt bối rối nhíu lại.
 
Khi điện sáng, Monk biết rằng máy quay chắc chắn cũng hoạt động trở lại. Không còn lý do hay khả năng nào để ẩn nấp, Monk tiếp tục hành trình về phía ngọn đèn gần nhất. Sau đó ông mới nhận ra có điều gì bất ổn.
Đúng hơn là thất lạc.
Ông tìm kiếm xung quanh. Marta đã biến mất. Ông nghĩ rằng Marta theo sau ông trong bóng tối. Nó vốn di chuyển rất nhẹ nhàng. Nhìn về phía sau, vẫn không có bóng dáng nào. Hay là Marta ở lại tàu? Monk tìm cả đằng trước, biết đâu Marta lại đi nhanh hơn để thăm dò. Nhưng cuối đường hầm chỉ là những cánh cửa sập, cách đó khoảng sáu mươi mét.
Không còn tăm hơi của Marta.
Loa trên cửa bỗng loẹt xoẹt, một giọng nói đanh thép vang lên. “Tiến lên phía trước! Đưa cậu bé đến cửa nếu muốn sống”
Monk cứng đờ người, ông không chắc phải đi hướng nào.
12:35 chiều
Thành phố Kyshtym, Nga
Ngồi trên xe tải cũ, Gray dẫn cả đoàn vượt qua cổng đường băng, đến một con lộ hai làn xe đi vào núi. Thông và vân sam xếp thành từng dãy hai bên đường, tạo thành một hành lang xanhtuyệt đẹp.
Qua gương chiếu hậu, Gray ngắm phố núi Kyshtym lùi dần và biến mất phía sau cánh rừng rậm. Thành phố nằm trên những quả đôi phía Đồng của dãy Ural, chỉ cách điểm đến Chelyabinsk 88 độ chín dặm. Giống như toàn bộ khu vực, nó kế thừa thảm họa hạt nhân và bị nhiễm xạ. Xuôi theo hướng gió là một khu phức hợp hạt nhân khác, được mệnh danh là Chelyabinsk 40, còn được biết đến với cái tên nhà máy Mayak, tiếng Nga có nghĩa là ‘cột mốc’. Nhưng Mayak lại không phải là cột mốc an toàn về hạt nhân của Nga. Năm 1957, một bể chứa chất thải phát nổ vì hệ thống làm mắt không đạt chuẩn đã loại thải tám mươi tấn phóng xạ trên toàn khu vực, hàng trăm ngàn người phải sơ tán. Nhà nước Xô viết đã giấu kín vụ việc này cho đến năm 1980. Thành phố biến mất chỉ sau một khúc ngoặt, như bao sự kiện trong nền lịch sử hạt nhân của Liên bang Xô viết.
Gray ổn định chỗ ngồi, tiếp tục tiến về phía trước. Hành trình vượt qua một cây cầu có lan can sơn đỏ như màu xe chữa cháy. Dấu hiệu cảnh báo. Cầu bắc ngang một nhánh sông sâu, đánh dấu ranh giới khu vực bị hạn chế trước đây. Con đường ngoằn ngoèo đi sâu vào núi.
Phía sau Gray là mười hai chiếc xe tải có hình dáng và kiểu cách khác nhau, tất cả đều trầy xước và lấm lem bùn đất. Gray ngồi cùng hàng ghế với Luca và người tài xế nói tiếng Romani. Anh chàng gật đầu khi Luca chỉ tay về phía trước.
“Không xa nữa đâu,” Luca xoay sang thông báo. “Họ đã gửi người đi thám thính lối vào. Báo cáo cho biết có rất nhiều hoạt động đang diễn ra. Nhiều xe hơi và xe tải hướng xuống núi.”
Gray cau mày. Nghe như một cuộc sơ tán. Chẳng phải là đã quá trễ hay sao?
Bốn binh sĩ ngồi trên thùng xe, đắp chăn nửa người. Gray rất ấn tượng với lối ngụy trang vũ khí dưới lớp chăn: những hộp súng trường tấn công, vài chục khẩu súng ngắn, thậm chí là lựu đạn phóng hỏa.
Luca có giải thích về việc kiểm soát lỏng lẻo các loại vũ khí này ở khu vực chợ đen của Nga. Thêm một đội quân nhỏ – tập hợp từ các tộc người Gypsy ở Nga – gia nhập tại Kyshtym. Hàng ngũ chiến đấu được tăng cường bên cạnh lực lượng mà Luca mang theo từ Ukraina. Gray rất tin tưởng Luca Hearn ở điểm này: nếu cần tập hợp nhanh một lực lượng dân quân, Luca chính là người Gypsy có tiềm năng. Kowalski và Rosauro bám gót họ trên những chiếc xe tải phía sau. Họ để Elizabeth ở lại trong máy bay, được ba binh sĩ thuộc lực lượng đặc nhiệm S.A.S của Anh bảo vệ tuyệt đối an toàn.
Mọi người phải di chuyển thật nhanh. Tốc độ là điều cốt yếu. Theo kế hoạch, họ sẽ tấn công căn cứ ngầm, khóa chặt và dừng mọi hoạt động dự tính. Bản chất của Chiến dịch Thổ Tinh vẫn còn là một bí ẩn. Tuy nhiên, với vai trò trung tâm của các cơ sở sản xuất plutonium và khai thác uranium thuộc Liên bang Xô viết trước đây, nó được coi là một điểm phóng xạ.
Lời nói của thượng nghị sĩ Nicolas Solokov ám ảnh ôngkhông nguôi.
Hàng triệu người vẫn sẽ chết.
Gray được biết ông ta sinh ra trong một thành phố ở thị trấn Yekaterinburg cách đây chín mươi dặm. Nicolas làm đại biểu cho khu vực này trong Quốc hội Liên bang Nga. Có nghĩa là ông hiểu rõ vị trí cũng như những bí mật của nó. Nếu ai đó muốn âm mưu một kế hoạch hạt nhân, đây chắc chắn là địa chỉ vô cùng lý tưởng. Nhưng nội dung của kế hoạch ra sao?
 
Ở lại Kyshtym, Elizabeth rảo quanh chiếc máy bay. Cô khoanh tay trước ngực, cằm cúi thấp đầy tập trung, vừa thấp thỏm lo âu, vừa hoảng sợ vì kế hoạch mà Gray và nhóm cộng sự sắp sửa ngăn chặn.
Hàng triệu người sẽ chết.
Thật điên rồ.
Cô đứng ngồi không yên bởi sinh mạng hàng triệu người đang tùy thuộc vào an nguy của đội quân vừa lên đường. Mở máy tính xách tay trên bàn, cô cố gắng làm việc để quên đi. Cô sao chép mọi hình ảnh từ chiếc máy kĩ thuật số. Giáo sư Masterson đã giữ cho chiếc máy được an toàn sau khi cô bị lính Nga bắt cóc. Ông trả lại cô trên đường trốn chạy khỏi nhà tù ở Pripyat.
Những tấm ảnh lướt trên màn hình trong quá trình lưu. Từng tấm một, và rồi cô thoáng thấy cái rốn vũ trụ nằm ngay giữa bánh xe chakra. Hồi hộp lấn át cả lo âu vì ý nghĩ hòn đá là một hiện vật gốc của Delphi. Suốt hai thập kỷ, các sử gia vẫn biết rằng hòn đá nhỏ tại bảo tàng là một bản sao, còn số phận của hiện vật gốc vẫn trong vòng bí ẩn. Vài học giả đưa ra giả thuyết rằng một số giáo phái bí hiểm đã khôi phục công trình bị đổ nát và đánh cáp hòn đá cho ngôi đền riêng của họ. Elizabeth nhìn màn hình, chăm chú quan sát cái rốn. Bằng chứng đây rồi. Cô ngồi thụp xuống ghế khi một thực tế bất ngờ đập vào mắt cô. Bản sao ở bảo tàng có khắc bên trong một dòng chữ cong cong bằng tiếng Phạn.
Đó là lời cầu nguyện cổ xưa dành cho Sarasvati, nữ thần Hindu – hiện thân của trí tuệ và sự tinh thông huyền diệu. Không biết được ai là tác giả hay nguyên nhân nó được khắc lên đá. Không mấy lạ lẫm nếu hình vẽ thuộc về tôn giáo này lại khắc họa một tôn giáo khác.
Elizabeth bắt đầu nghi ngờ một sự thật. Có lẽ bản sao của cái rốn đã bị bỏ lại như một vật đánh dấu. Cô cuộn bức ảnh đến bức khảm trên tường, mô tả người phụ nữ và một đứa trẻ ẩn nấp bên dưới tảng đá, khuất tầm mắt tên lính La Mã, cũng là nơi lưu giữ bài thơ tiếng Phạn. Nó có ý nghĩa nữ thần Sarasvati sẽ bảo vệ cô bé, người không có nguồn gốc, kết thúc lẫn giới hạn. Nhấtđịnh là có liên quan đến Nhà Tiên tri cuối cùng, lời cầu nguyện vì mục đích bảo vệ giống nòi. Cuối cùng thì nữ thần Sarasvati đã để cô bé cư ngụ ở một dòng sông linh thiêng. Nhiều học giả tôn giáo tin rằng dòng sông thần thoại này chính là sông Ấn, nơi người Hy Lạp tha hương lấy đó làm nhà.
Elizabeth ngờ rằng ai đó đã để lại thông điệp bí mật cho thế hệ sau noi theo. Cũng giống như cô và cha cô từng làm.
Cô quay lại hình ảnh của tảng đá nguyên thủy. Vài bức ảnh hiện lên ba dòng chữ khắc trên đá, cảnh báo về cái bẫy – được viết bằng chữ Harappan, chữ Phạn và chữ Hy Lạp. Cô cho hình ảnh đó hiển thị.
Ba dòng chữ này còn được viết trên bức tường của căn phòng.
Bên dưới cậu bé có ánh mắt rực lửa. Hình ảnh đó cũng được nổi lên. Bên dưới bức tranh, dòng chữ Harappan còn nguyên nhưng một nửa dòng tiếng Phạn lẫn tiếng Hy Lạp đều đã mờ. Chỉ có một hoặc hai ký tự còn đọc được.
Cô lẩm nhẩm. “Thế giới sẽ thiêu đốt…”
Làm cô nhớ đến tình huống mà Gray và mọi người phải chặn đứng. Cô xoáy sâu vào hình ảnh đứa trẻ hiện lên trong khói lửa, rùng mình lo sợ. Nhưng thông điệp còn lại là gì? Dòng chữ nguyên vẹn duy nhất lại viết bằng chữ Harappan, không thể giải đáp. Đó là một trò chơi ô chữ đầy thử thách.
Trừ khi.
Elizabeth bật thẳng dậy, cúi sát màn hình, mọi lo lắng tan biến. Cô liếc qua lại giữa hai hình ảnh trên màn hình. Cô bắt đầu hiểu ra cái mình đang nhìn. Dòng chữ Harappan được dịch thành tiếng Hy Lạp và tiếng Phạn. Được dịch ra. Hơi thở cô bỗng dồn dập hơn. Cô đã tìm ra thông tin giải mã về hòn đá Rosetta bằng hình ảnh kĩ thuật số này, biểu tượng của ngôn ngữ bị thất lạc.
Cô quay lại với dòng chữ bị ngắt quãng bên dưới hình tượng cậu bé bốc khói. Cô nghiên cứu, so sánh, nhặt nhạnh từng hình ảnh trên lối cầu thang. Những tương đồng bắt đầu hiện ra.
Cô sẽ dịch được ngôn ngữ cổ này chăng? Nhận ra ý niệm quan trọng, cô bắt tay vào việc.
12:45 chiều
Thiếu tướng Savina Martov quan sát đối phương. Bà nhìn chòng chọc vào màn hình. Dưới vầng sáng hẹp tỏa ra từ ngọnđèn hầm, người đàn ông vẫn đứng yên. Bà áp môi vào micrô.
“Tiến đến cửa ngay lập tức!” Tiếng thét lanh lảnh vang lên khiến người đàn ông giật mình lùi lại. Không có trục trặc gì xảy ra với hệ thống loa gần cửa sập.
“Thiếu tướng,” viên kĩ sư xen ngang. “Có cuộc gọi ưu tiên cho bà từ Hầm Tên lửa Arkhangelsk.”
Savina nghiêng người gắn thiết bị nghe vào tai. Tay chân của bà được cài trong đó. “Martov nghe.”
“Thiếu tướng, vài thông tin tình báo lộn xộn đang lan ra từ Ukraina. Có vẻ như Thượng nghị sĩ Nicolas Solokov đã chết.” Savina hít mạnh. Bà kềm chế mọi cảm xúc, cổ họng nghẹn đắng. Người liên lạc không hề hay biết Nicolas là con trai bà, chỉ biết rằng ông ta có mối quan hệ mật thiết và hỗ trợ cho mỗi chiến dịch diễn ra tại đây.
Người liên lạc tiếp tục báo cáo. “Tin đồn vẫn xoáy vào các chi tiết xung quanh sự kiện. Vài nguồn cho là ông ấy bị khủng bố giết hại, còn lại nói rằng ông ấy nhúng tay vào các hoạt động ở đó. Nhưng tất cả đều đưa ra kết cục chắc chắn là ông ấy đã chết. Các máy quay trong Hầm trú ẩn được niêm phong đã phát đi hình ảnh hai thi thể, một của ông và hai là người trợ lý. Ông ấy bị bắn vào đầu. Mức phóng xạ còn quá cao không thể đảm bảo an toàn để di dời xác chết nhưng các biện pháp đang được tiến hành. Tôi không thể nói…” Giọng của người liên lạc vẫn ù ù bên tai, nhưng Savina đã không còn lắng nghe. Nước mắt dâng đầy, bà ngửa đầu ra phía sau để ngăn không cho dòng lệ trào ra. Anh ta vừa dứt lời, Savina nói lời cảm ơn rồi gác máy.
Bà xoay lưng về phía các kĩ sư.
Nicolas đã chết.
Con trai duy nhất của bà.
Một phần trong bà đã linh cảm được điều này. Suốt một giờ qua, bà bất lực rũ bỏ tâm trạng tuyệt vọng. Ngực bà trĩu nặng đến nghẹt thở. Nicolas…
“Thiếu tướng?” Viên kĩ sư khẽ gọi.
Sự điềm đạm ấy chỉ khiến bà thêm giận dữ. Bà quay về phía màn hình. Tên người Mỹ vẫn không cử động. Nếu buồn đau đang tan chảy thành xăng thì nỗi tuyệt vọng trong bà sẽ bùng lên ngọn lửa. Cơn thịnh nộ cháy bỏng trong lòng. Hắn là chướng ngại vật cho cả ngày hôm nay, giờ đây lại dám thách thức đối mặt với bà. Chẳng còn bao lâu nữa.
Nước mắt đã cạn khô vì sức nóng mãnh liệt đang cuồn cuộn chảy.
Con trai bà có thể chết, nhưng bà đã cho ra đời một đứa trẻ khác, nuôi dưỡng giấc mộng vươn lên từ đống tàn tro nơi đây. Dòng máu ruột thịt không phải là cách duy nhất để lưu lại di sản cho thế giới này. Phải kết thúc những gì đã gây ra cái chết của con trai bà. Bà sẽ phải tìm một bù nhìn khác thế chỗ. Dù mất nhiều thời gian hơn, nhất định phải hoàn tất. Thế giới này đã cướp đi con trai bà. Nhưng bà có sức mạnh để phản đòn.
Quyết tâm cao độ len sâu vào cả giọng nói, bất ngờ làm cho viên kĩ sư lùi lại. “Đủ rồi!” Bà chỉ vào hai màn hình bên cánh trái hiển thị quang cảnh trung tâm của Chiến dịch Thổ Tinh. Một bên là đường hầm thông đến những tụ điện đã gài sẵn; một bên hướng thẳng vào vách ngăn trên sàn. “Khởi động Thổ Tinh! Nghe lệnh ta!”
Các kĩ sư ổn định vị trí. Tay không ngừng lướt trên bàn phím điều khiển.
Savina dán mắt vào người đàn ông hiện ra giữa màn hình. Nếu hắn không giao nộp Pyotr, bà sẽ cho lửa bén gót. Không thể thoái lui, không lối thoát.
“Đã bật hết đèn xanh,” viên kĩ sư thông báo ngắn gọn. “Đợi chỉ đạo của bà.”
“Tiến hành!”
Bà lấy hơi thật sâu, tiếp tục quan sát. Một màn hình chớp sáng. Tiếng nổ từ xa vọng lại, bị bóp nghẹt trong hầm sâu. Đá văng lên khỏi máy quay, bùn bắn cao che phủ cả tầm nhìn. Trên màn ảnh còn lại, những trận mưa bùn và đá bắt đầu xối xả tràn vào vách ngăn đã mở rộng. Chẳng bao lâu sau, một cột nước đen ngòm ầm ập phun trào từ phía trên. Mọi trù liệu của các kĩ sư tỏ ra hoàn hảo. Dòng nước hình cánh cung ào ạt chảy thẳng xuống miệng cống.
Chiến dịch thật sự bắt đầu.
Thế giới đã giết hại con trai bà. Nhưng đứa con tinh thần sẽ sống. Cho dù đã khởi động chiến dịch trong cơn thịnh nộ đầy ắp hy vọng và phục thù, bà không thể phủ nhận một mạch ngầm đang len lỏi vào ý chí sắt thép của bản thân. Cột nước vẫn chảy xiết, bà quyết tâm sẽ trả thù thế giới vì những gì nó đánh cắp của bà hôm nay.
Khuấy động vì ý nghĩ báo thù, bà chuyển sang mục tiêu mới đang kẹt lại dưới đường hầm.
 
Mọi việc chưa kết thúc dễ dàng như vậy.
Monk nhấc mình khỏi mặt đất. Vụ nổ vẫn còn văng vẳng trong đầu. Bị mắc kẹt giữa không gian bít bùng, lực chấn động đập vào tai ông, cảm giác như có hai bàn tay khổng lồ ép chặt lại. Ông vừa lấy thân mình che chở cho Pyotr.
Đầu choáng váng, ông giúp cậu bé đứng dậy. Một tiếng rền ùng ục vọng lại phía sau quãng hầm tối, như âm thanh của vài con rồng khổng lồ đang gào rú. Nhưng Monk biết cái ông đangnghe thấy.
Một cuộn nước đang sục sôi ào tới.
Hàng tấn nước.
Ông biết ý nghĩa ẩn chưa trong đó – vụ nổ, dòng thác ngầm – tất cả cho hay ông đã thất bại. Chiến dịch Thổ Tinh đang được tiến hành, nguồn chất thải độc hại đang bị cuốn vào lõi trái đất.
Loa phóng thanh vẫn lanh lảnh bên cạnh lớp cửa sập.
“Hạ vũ khí!” Giọng người phụ nữ vừa lạnh lùng vừa tóe lửa, vừa kiên quyết vừa giận dữ. “Đưa đứa trẻ lại cửa. Di chuyển ngay. Mức phóng xạ đang tăng rất nhanh, ông có chưa đầy năm phút trước khi bị nhiễm một liều lượng chết người.”
Monk không còn lựa chọn, ông lắc vai, hai khẩu súng trường lách cách rơi xuống đường ray. Pyotr nắm lấy cổ tay bị cụt của ông.
Cả hai vội vã bước tiếp đoạn đường hai trăm mét còn lại, chạy đua với màn phóng xạ sắp tràn ngập căn hầm. Cửa sập chầm chậm mở ra phía trước, năm binh sĩ đã sẵn sàng chĩa súng, dàn thành một hàng ngang.
Hẳn một biệt đội chào đón cơ đấy.
Pyotr hối thúc ông nhanh hơn, có vẻ như cậu bé biết được điều gì mà Monk không biết.
Cẳng chân bị thương nhói đau theo từng bước chạy. Ngực ông thắt lại, hơi thở khò khè nặng nhọc, ông nhìn xuống chiếc phù hiệu đo định lượng vẫn gắn dưới thắt lưng. Monk thấy bề mặt đỏ thẫm đang lập cập bên người. Cứ mỗi sải bước, màu lại sẫm hơn một chút.
Ông tăng tốc lướt đi mặc kệ cái chân đau. Monk và Pyotr lao về phía cánh cửa.
Gần đến lối ra, một tiếng nổ như sấm rền vọng lại từ hang động Chelyabinsk 88.
Bước chân Monk ngập ngừng vì ngạc nhiên, nhưng Pyotr đã lôi ông tiến về phía trước.
Đám binh sĩ cũng giật mình xoay người lại. Một tên đổ ập xuống vì sợ hãi.
Pyotr nhắm vào chỗ trống, nhảy qua tên lính đang nằm sấp. Một tay cậu bé chộp lấy khẩu súng ngắn bên hông tên lính đứng cạnh, đập mạnh vào lòng bàn tay Monk.
Không chút sơ suất, đặt vào lòng bàn tay chính xác đến hoàn hảo. Trong tầm bắn thẳng, bằng phản xạ tiềm thức dù ký ức đã bị xóa nhòa, Monk vung tay nhả đạn vào hàng lính.
Năm tên lính ngã gục trước hỏa lực bất ngờ của nguyên mộtbăng đạn.
Monk vứt khẩu súng đã hết đạn sang một bên. Pyotr xông lên tước lấy một khẩu súng khác đưa cho Monk, lại nắm vào tay áo ông và kéo đi.
Thêm vài tiếng nổ làm rung chuyển cả hang động. Tiếng người la hét, khói bao trùm khắp những căn hộ bỏ hoang. Trên đường đi, ông phát hiện hỏa lực phát ra từ một súng cối hoặc lựu đạn phóng đang dội thẳng vào tòa nhà kế cận. Bê tông, cửa kính văng tứ tung, vùi lấp toàn bộ binh sĩ bên dưới.
Một cuộc tấn công dồn dập vào căn cứ. Nhưng do ai thực hiện?
 
Gray cho xe lao nhanh xuống con dốc bê tông, băng qua những cánh cửa khổng lồ. Trên chuyến bay tới đây, ông đã đọc qua tài liệu về khu phức hợp, những thành phố ngầm dưới lòng đất. Nhà nước Xô viết thường đưa các dàn nhạc, các nhóm biểu diễn tới đây phục vụ đội ngũ công nhân, những hội trường dốc luôn kín chỗ. Gray vẫn không khỏi bất ngờ trước độ dốc của căn cứ.
Cũng như sự hỗn loạn nơi đây.
Sáu xe tải mở đầu cho cuộc đột kích.
Khiến cho kẻ thù nhụt chí theo lời Luca nói. Gray không bận tâm phản đối. Đây là đội quân của Luca, do Luca quyết định.
Ông có một nhiệm vụ khác.
Gray vượt qua màn khói, ông nhìn thấy hỏa lực đổ ập vào khu căn hộ năm tầng, phá hủy toàn bộ. Luca chốt trên thùng xe, súng hỏa tiễn tựa vào vai sẵn sàng. Hai xe tải yểm trợ hai bên, lần lượt do Kowalski và Rosauro điều khiển.
Sau khi đi qua miệng hầm, những người Gypsy chặn lối thoát phía sau lưng họ bằng hai chiếc xe tải chất đầy gỗ xẻ. Hai mươi tư người làm thành một rào chắn, ngăn không cho bất cứ ai trốn thoát.
Gray vô cùng khâm phục chiến lược tấn công của họ – cả lúc này và ít phút trước đó.
Dọc hành trình chạy dài từ sân bay, các phương tiện có vẻ như rất thông thường của vùng nông thôn còn đang di chuyển lòng vòng quanh những sườn đôi và đường đất khúc khuỷu. Và rồi không một tín hiệu cảnh báo, toàn bộ vùng quê yên bình bỗng nhiên biến thành cuộc tấn công đồng loạt. Súng trường lởm chởm nhô ra từ những đụn cỏ chất trên xe tải. Ngựa tách rời khỏi xe, mang theo những tay súng lao nhanh lên địa hình dốc. Mô tô phóng ra từ đằng sau những phương tiện được ngụy trang dưới vỏ bọc xe chở sữa. Biến hóa bất ngờ chẳng mấy chốc vây chặt sườn núi sau vài phút.
Một lực lượng binh sĩ Nga rời khỏi hầm ngầm đã lọt vào ổ phục kích trên đường, bị lôi xuống hào, tước hết vũ khí và trói gô. Trước khi Gray tiến đến cổng vào, đội tiên phong đã lót đường qua miệng hầm, bỏ lại dấu vết khói lửa cho ông đi theo. Gray không hề nao núng. Đâu còn thời gian để phí phạm. Chiến dịch Thổ Tinh cần phải được phát hiện và chặn đứng. Ông còn có hỗ trợ từ đội quân của Luca. Như một lực lượng chuyên nghiệp, những người Gypsy đã thu thập thông tin tình báo trước khi tấn công. Trên đường đến đây, một người đàn ông mặc áo khoác dài vẫy xe tải của Luca dừng lại. Hai nhân vật khoác áo choàng thí nghiệm quỳ bên vệ đường, hai tay bị trói sau lưng trong tư thế súng chĩa thẳng lên đầu. Người Gypsy tỏ ra chẳng mấy nhẹ nhàng. Chính người Nga đã tàn sát làng mạc của họ trên đỉnh núi, bắt cóc những đứa trẻ vô tội.
Không ai khác, người Nga là kẻ khơi mào cho cuộc chiến tranh này; dân tộc Gypsy chỉ có ý định kết thúc nó.
Người hỏi đường đưa cho Luca một bản đồ vẽ tay vấy máu. Luca chuyền cho Gray. Đó là giản đồ mô tả Chelyabinsk 88, gồm một vòng tròn quanh trạm điều khiển Chiến dịch Thổ Tinh đặt tại công sự ngầm dưới chân những căn hộ bỏ hoang.
Mục tiêu đã rõ ràng, Gray cho xe rẽ xuống khúc cua hướng đến vòng vây quanh khu nhà cao tầng. Cuộc đột kích đầu tiên, không ít bất ngờ và kịch tính, đã lấp đầy gạch đá cản trở lối đi. Toàn bộ một dãy nhà đổ sụp ngang qua con đường trung tâm.
Những người lính Gypsy tiếp tục bắn yểm hộ từ trên xe tải.
Những người khác bỏ lại phương tiện, chuẩn bị cho một cuộc tấn công dưới mặt đất.
Gray đạp thắng, xuống xe ngay địa điểm họ tập hợp. Kowalski và Rosauro nối gót ông. Nhảy ra khỏi thùng xe, Luca ra lệnh bằng tiến Romani. Đội quân nhanh chóng phản hồi. Sau vài trao đổi, Luca quay lại nấp sau xe tải cùng Gray.
“Quân Nga đang chiếm đóng khu nhà, càng tiến sâu thì hệ thống phòng thủ càng chặt.”
Gray hiểu lý do tại sao. “Chúng rút hết lực lượng nhằm bảo vệ cho trạm điều khiển. Nếu chưa khởi động chiến dịch, chắc cũng sẽ sớm thôi. Ta không thể đợi thêm.”
Luca giơ một nắm tay đang ghìm lại về hướng đội quân tập hợp trên mặt đất. “Tôi có… à, anh ta đây rồi.”
Người lính có tướng mạo nhỏ nhắn cúi thấp người tiến lại gần. Anh mặc một bộ đồ xám xi măng, đội nón đen. Hai người đàn ông Romani trao đổi thật nhanh.
“Đây là Rat,” Luca giới thiệu.
“Tên hay,” Kowalski lầm bầm.
“Anh này là một trinh sát. Rất giỏi tìm ra những con đường không ai nghĩ đến. Có thể lần được một lối đi nhưng sẽ phải lập một nhóm nhỏ. Không quá năm hoặc sáu người” Luca nhìn quanh. “Chắc là chỉ cần chúng ta.”
“Được,” Kowalski tán thành rồi liếc nhìn Gray chờ đợi.
“Những người khác sẽ giữ chân bọn lính Nga,” Luca vẫy tay ra hiệu cho lực lượng mặt đất và cả đoàn xe.
“Ta đi chứ?” Rat hỏi bằng một giọng Anh bồi.
“Được,” Gray trả lời, nhận được nụ cười toe toét từ anh chàng cùng một cái vỗ lên đầu gối.
Họ chuẩn bị súng trường và cả vũ khí hỗ trợ giắt theo bên mình, theo sau anh chàng nhỏ thó về phía đống đổ nát. Gray không nhìn thấy con đường nào xuyên qua. Luca ra hiệu cho lực lượng mặt đất khi băng ngang. Tiếng còi hiệu réo rắt vang khắp hang động mịt mùng khói.
Rat vẫy tay gọi mọi người lại gần mảng tường nghiêng ngả. Gray cúi thấp và phát hiện ra một cửa sổ tầng hầm của căn hộgần nhất.
Đang chầm chậm len lỏi qua những mê lộ, bỗng Gray nghe thấy tiếng hò hét từ đằng sau.
“Opre Roma”
Như ngọn lửa lan tỏa trong đám cỏ khô, tiếng gọi thúc giục vang lên.
Đạn pháo nổ ra dữ dội.
Tiếp tục tiến về phía trước, Gray cầu mong họ đừng quá trễ.
 
Savina nhanh chóng di chuyển xuống cầu thang, tiến vào hầm công sự. Bà bỏ mặc cơn đau nhức nhối sau lưng, lan xuống cả cẳng chân và trái tim đang dồn dập. Ngay thời điểm đầu tiên của đợt công kích, bà đã cho khóa kín cửa sập.
Một nhóm năm binh sĩ tinh nhuệ nhất do Tiến sĩ Petrov triệu tập đợi bà phía trên. Kế hoạch dự kiến là họ sẽ cõng trên lưng năm đứa trẻ và bỏ trốn. Không hơn. Bà không thể đem theo hết mười đối tượng. Cơ hội tốt nhất để chạy thoát là di dời thật nhanh chóng và hiệu quả. Gã tù nhân cùng lũ trẻ từng trốn theo lối hầm tiện ích phía sau. Họ cũng sẽ làm như thế.
Nhưng Savina còn nhiệm vụ cuối cùng.
Bà bước vào trạm điều khiển, các kĩ sư lúc này đã rút hết toàn bộ bàn phím. Họ dùng thẻ từ xóa sạch ổ cứng. Trung tâm kiểm soát bị phá hủy sẽ là bảo đảm thiết thực cho Chiến dịch Thổ Tinh thoát khỏi việc lằng nhằng về sau.
“Đã khóa hết mọi thứ chưa?”
Viên kĩ sư gật đầu rất dứt khoát. “Phải mất hàng tuần thì may ra tên kĩ sư thiên tài nào đó mới sửa được.”
“Tốt lắm.” Bà nâng súng, phát đạn xuyên trắn viên kĩ sư. Người còn lại cố gắng bỏ chạy nhưng cũng bị bắn vào cổ, ngay chân cầu thang, tắt thở trong vũng máu. Bà không thể liều lĩnh nếu hai người này bị bắt. Những thứ họ phá hủy sẽ bị buộc sửa lại dưới họng súng.
Việc đó nhất định không được xảy ra.
Để chắc chắn hơn, Savina chộp lấy búa cứu hỏa trên tường, bổ xuống cả máy tính lẫn bảng điện. Hài lòng, bà chống tay lêncán búa tì dưới sàn, nhìn thẳng vào dãy ti vi LCD trước mặt. Còn rất nhiều hình ảnh truyền từ các máy quay. Cơn đau lưng khiến bà băn khoăn không biết bản thân còn nhấc nổi cây búa để đập tan những màn hình còn lại.
Đã đến hồi kết, đâu còn gì quan trọng?
Bà nhấc búa, nhìn lên màn hình trung tâm. Dòng nước đen ngòm mang theo chất độc lan tràn.
Cứ để cho nhân loại thấy điều bà đã cất công tạo ra.
Savina mỉm cười thỏa mãn vì hành động tàn nhẫn cuối cùng rồi xoay lưng tiến về cầu thang.
Để cho họ thấy thế giới đang chết dần. Không ai có thể ngăn cản nổi.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.