Anna Karenina (Tập 1)
Phần 3 – Chương 11
27
– Nếu không luyến tiếc vì bỏ dở công việc mới bắt đầu làm… bao nhiêu tâm huyết đã bỏ ra… thì tôi đã vứt quách mọi cái ở đây, tôi sẽ bán hết và giống như Nicolai Ivanovitr, tôi sẽ bỏ đi… nghe nhạc kịch “Nàng Hêlen xinh đẹp”, – vị quý tộc già nói, bộ mặt thông minh mỉm cười rạng rỡ.
– Phải, nhưng ông đã không vứt bỏ gì cả, – Nicolai Ivanovitr Xvyajxki nói, như thế nghĩa là ông vẫn còn quan tâm.
– Tôi quan tâm vì tôi đang sống ở nhà tôi, vì người ta bao giờ cũng hi vọng cải tạo được con người. Nhưng toàn là cảnh rượu chè be bét, linh tinh không tưởng tượng được! Cứ bán dần bán mòn mãi, bọn nông dân chẳng còn lấy một con ngựa hoặc một con bò nào. Họ đang chết đói lăn ra đấy; nhưng nếu ông tuyển vào làm, họ sẽ không ngần ngại gì mà không phá rối lung tung và còn đi thưa kiện lên thẩm phán hòa giải là đằng khác.
– Nhưng chính ông, ông cũng có thể đến khiếu tố với thẩm phán hòa giải được chứ, – Xvyajxki nói.
– Tôi ấy à? Không đời nào! Làm thế chỉ dẫn đến chuyện phiếm lăng nhăng! Ông hãy xem ở xưởng đấy, công nhân lấy tiền lương ứng trước rồi chuồn thẳng. Thẩm phán hòa giải đã làm gì? Hắn ta tha bổng cho họ. Chỉ có tòa án hàng tổng và xã trưởng là trị được nạn đó. Ở đấy, người ta lấy roi phết cho một trận như trong cái thời tốt đẹp xưa kia. Nếu không thế thì đến phải chạy trốn đến tận cùng thế giới mất!
Lão địa chủ nói điều đó rõ rằng cốt trêu chọc Xvyajxki nhưng ông ta chẳng những không hề tức giận mà còn lấy làm thú vị.
– Tuy nhiên, cả tôi, lẫn Levin, lẫn ông đây, – ông ta nói và trỏ vị khách kia, – chúng ta không ai phải dùng đến phương pháp như vậy cả.
– Phải, nhưng ông hãy hỏi Mikhain Pet’rovitr xem ông ta làm ăn ra sao. Đó có phải là phương thức canh tác hợp lý không? – lão địa chủ nói, hãnh diện đã dùng được chữ “hợp lý”.
– Đội ơn Chúa, đối với tôi thì rất giản đơn thôi, – Mikhain Pet’rovitr nói. – Tất cả vấn đề là làm sao mùa thu này kiếm ra tiền đóng thuế. Đám mugich đến nói: “Ông chủ ơi, cứu giúp chúng tôi với!” Họ toàn là láng giềng nên tôi cũng thương hại. Tôi ứng trước một phần ba tiền. Nhưng phải bảo họ là: “Các người ơi, các người nên nhớ là nay ta giúp các người, khi nào cần thiết, đến lượt các người cũng phải giúp ta một tay, để gieo yến mạch, hái cỏ khô và gặt lúa đấy nhé. Còn công nợ thì ta sẽ tính toán riêng với nhau cho ổn thỏa.” Đành rằng trong bọn họ cũng có người không có lương tâm thật đấy. – Levin từ lâu cũng biết những phương pháp gia trưởng đó rồi, chàng đưa mắt trao đổi với Xvyajxki và ngắt lời Mikhain Pet’rovitr, quay lại nói với lão địa chủ để ria mép hoa râm.
– Theo ý ông thì bây giờ phải điều khiển việc canh tác như thế nào? – chàng hỏi.
– Như Mikhain Pet’rovitr ấy: hoặc cấy rẽ chia đôi hoặc phát canh thu tô cho nông dân, việc đó có thể làm được nhưng chính những phương pháp đó lại đưa đất nước đến chỗ lụn bại. Ở những nơi mà dưới thời kỳ nông nô, nhờ quản lý tốt, ruộng đất vốn một lãi chín, thì bây giờ chỉ vốn một lãi ba. Việc giải phóng nông nô đã làm hại nước Nga! Xvyajxki nheo mắt cười nhìn Levin và còn phác cả một cử chỉ giễu cợt nữa; nhưng Levin thấy lời đó không có gì buồn cười cả, và thông cảm hơn Xvyajxki. Thậm chí chàng còn thấy những lập luận tiếp theo của vị đó, chứng minh việc giải phóng nông nô đã phá sản nước Nga, là rất đúng, mới mẻ và không thể bác bỏ. Vị điền chủ rõ ràng đã trình bày ý kiến của riêng mình, đó là điều rất hiếm. Ông ta đi đến ý nghĩ đó, không phải vì muốn bới việc cho cái đầu óc nhàn rỗi của mình phải bận rộn, mà nó nảy sinh ngay trong hoàn cảnh sống ẩn dật của ông ở nông thôn và sau khi đã được nghiền ngẫm kĩ.
– Hẳn ông cũng nhận thấy tiến bộ bao giờ cũng phải dùng uy lực mới thực hiện được, – ông nói, muốn tỏ ra mình không phải người thất học. – Hãy xem những cuộc cải cách của Piot’r, của Ecaterina, của Alecxandr. Hãy xem lịch sử châu Âu đó. Đối với cải cách nông nghiệp thì lại càng đúng hơn. Ngay đến khoai tây cũng phải dùng uy lực mới đem vào trồng ở nước ta được. Trước đây, không phải bao giờ ta cũng cày bằng cày. Người ta cũng phải cưỡng bách mọi người dùng nó, có lẽ từ thời phong điền thái ấp, nhưng chắc chắn là phải dùng uy lực. Dưới thời nông nô, ta đã cải tiến phương pháp canh tác: bao giờ cũng phải dùng quyền lực để bắt buộc áp dụng những máy hong phơi, máy sàng sẩy, sự vận chuyển phân bón và mọi máy nông cụ khác; lúc đầu, bọn mugich còn phản đối rồi sau mới chấp nhận những phương pháp của chúng ta. Giờ đây, khi chế độ nông nô đã bị bãi bỏ và quyền lực của chúng ta bị tước đoạt, nền nông nghiệp mà đôi chỗ đã đạt tới mức phát triển rất cao, lại rơi trở lại hình thức thô lỗ nguyên thuỷ. Ít nhất đó cũng là quan điểm của riêng tôi.
– Tại sao lại như thế được? Nếu việc canh tác của ông đã hợp lý hóa, ông có thể dựa vào việc thuê mướn nhân công chứ,- Xvyajxki nói.
– Tôi không còn uy quyền gì nữa. Tôi xin hỏi, ai sẽ giúp tôi được nào?
“Vấn đề là ở đó: người thợ làm mướn là nhân tố chủ yếu của nền kinh tế nông thôn”, Levin thầm nghĩ.
– Thợ sẽ giúp ông.
– Bọn thợ không ưng làm việc đến nơi đến chốn và nhất là càng không muốn dùng máy móc. Thợ của chúng ta chỉ biết có mỗi một việc: nốc rượu say như lợn. Và khi đã say thì giao cho cái gì là phá hỏng cái đó. Hắn sẽ làm ốm ngựa vì cho nó uống nước không phải lúc, phá hại cả bộ đồ thắng đái mới, đổi vành đai sắt bánh xe lấy rượu uống, nhét chốt vào máy đập lúa để làm hư đi. Hắn chán ghét tất cả những gì không phải của hắn. Vì thế trình độ nền nông nghiệp chúng ta chỉ sút kém đi thôi. Ruộng đất thì bỏ hoang, để cỏ dại mọc lan hoặc đem phân phát cho mugich, và ở chỗ trước kia sản xuất được hàng triệu đấu thì nay chỉ sản xuất chừng vạn đấu thôi, tài sản công cộng giảm sút. Nếu họ cũng thực hiện cải cách như vậy nhưng thận trọng hơn…
Và ông trình bày một kế hoạch giải phóng nông nô có thể tránh được nguy hại đó.
Levin không quan tâm đến việc đó, nhưng khi ông ta dứt lời, chàng liền trở lại luận điểm đầu tiên của mình và quay sang nói với Xvyajxki, cố moi cho ra ý kiến sâu kín của ông:
– Rõ ràng trình độ nền nông nghiệp của ta sút kém và căn cứ vào quan hệ hiện nay giữa chúng ta với nông dân thì không thể áp dụng những phương pháp hợp lý vào sản xuất được.
– Tôi thấy không phải như vậy, – Xvyajxki cãi lại, lần này có vẻ nghiêm túc. Tôi chỉ thấy mỗi một điều là chúng ta không đủ năng lực điều khiển sản xuất và dưới thời nông nô, ta còn lạc hậu hơn nữa. Ta không có máy móc, không có gia súc, không có cả một sự quản lý xứng đáng với cái tên đó. Ngay đến tính toán, chúng ta cũng không biết nốt. Hãy hỏi một điền chủ mà xem, ông ta không hiểu lỗ lãi do đâu mà ra.
– Phương pháp kế toán kép như của người ý chứ gì! – nhà địa chủ quý tộc, vẻ giễu cợt. – Ông cứ tha hồ tính toán, nhưng nếu họ làm hỏng hết, ông sẽ không tìm đâu ra lãi cả.
– Không thể nào làm hỏng hết được! Họ có thể phút chốc làm xộc xệch một máy đập lúa kiểu Nga cà rỉ, nhưng không thể trong nháy mắt làm hỏng một máy đập lúa chạy hơi nước được. Họ có thể làm mệt một con nghẽo cầm đuôi kéo đi không được. Nhưng hãy dùng ngựa giống Pháp hoặc ngựa thồ nữa, chúng sẽ dai sức hơn. Mọi cái khác cũng vậy. Chúng ta phải nâng cao trình độ nông nghiệp lên.
– Nhưng phải có phương tiện thì mới làm được chứ. Nicolai Ivanovitr ạ; ông thì muốn nói sao chả được; còn tôi, tôi phải lo tiền học cho thằng con cả ở Đại học, những đứa bé hơn ở Trung học, tôi không lấy đâu ra tiền mua ngựa giống Pháp.
– Đã có ngân hàng cho vay.
– Để rồi người ta đem tài sản của tôi ra bán đấu giá ấy à! Thôi, xin cảm ơn!
– Tôi không tin việc nâng cao trình độ nông nghiệp lên nữa là cần thiết và có thể làm được, – Levin nói. – Tôi đã làm việc đó, tôi cũng có phương tiện để làm nhưng rồi không đi đến đâu cả. Tôi không biết ngân hàng phục vụ cho ai. Còn về phần tôi, bao nhiêu tiền bỏ vào sản xuất đều mất tong: gia súc: mất sạch; máy móc: mất sạch.
– Đúng thế, – lão địa chủ để ria mép hoa râm tán thành và cười đắc ý.
– Mà không phải chỉ có mình tôi, – Levin nói tiếp; – tôi có thể dẫn chứng tất cả những ai đã thử hợp lý hóa phương thức canh tác: trừ vài trường hợp đặc biệt, tất cả đều phải bỏ tiền túi ra bù. Chính anh, liệu anh có thể nói cái cơ nghiệp của anh đã sinh lợi không? – Levin nói và thấy ngay trong mắt Xvyajxki cái vẻ hoảng hốt thoáng qua chàng vẫn bắt gặp khi muốn đi sâu vào quá “phòng tiếp tân” của tâm tưởng Xvyajxki. Vả lại Levin không phải hoàn toàn có thiện ý khi đặt câu hỏi đó. Trong lúc uống trà, bà chủ nhà vừa nói cho chàng biết là mùa hè năm đó, họ có mời ở Moxcva về một chuyên viên kế toán người Đức, với tiền công năm trăm rúp, hắn đã tính xong các khoản thu chi trong sản nghiệp của họ và thấy lỗ vốn ba nghìn rúp có lẻ. Bà ta không nhớ đích xác là bao nhiêu, nhưng viên kế toán đã tính cho bà đến từng đồng xu bẻ làm tư.
Lão địa chủ mỉm cười khi nghe ám chỉ đến mức thu hoạch của sản nghiệp Xvyajxki. Rõ ràng ông ta thừa biết vị đại biểu quý tộc láng giềng của mình có thể thu được ở ruộng đất bao nhiêu lợi tức.
– Có lẽ cũng không lấy gì làm khá lắm, – Xvyajxki trả lời, nhưng đó cùng lắm chỉ chứng tỏ tôi là một nhà nông tầm thường hoặc tôi bỏ vốn ra là để gia tăng địa tô.
– À! Địa tô, – Levin hốt hoảng kêu lên. – Có thể là ở châu Âu, nơi mà lao động làm cho ruộng đất tốt hơn lên, thì còn có chuyện địa tô đấy, nhưng còn ở nước ta, càng trồng trọt ruộng đất càng xấu đi. Trong điều kiện như vậy, không thể có địa tô được.
– Sao lại không có địa tô? Dù sao cũng đã thành luật pháp.
– Vậy thì chúng ta là ngoại lệ: đối với chúng ta, địa tô không giải thích được gì cả, nó chỉ làm rắc rối thêm vấn đề. Không, anh bảo làm sao mà cái lý thuyết về địa tô lại có thể…
– Các ông có dùng sữa chua không ạ? Masa, mình cho mang sữa chua hoặc phúc bồn tử ra đây nhé, – Xvyajxki bảo vợ. – Lạ thật, sao năm nay mùa phúc bồn tử lại kéo dài đến thế.
Và Xvyajxki đứng lên, vẻ rất hoan hỉ, và lảng đi, coi như câu chuyện đã kết thúc, trong khi Levin cho là vừa mới bắt đầu mà thôi.
Mất người tiếp chuyện, Levin tiếp tục nói với lão địa chủ, cố trình bày cho ông ta thấy mọi khó khăn là ở chỗ không tìm hiểu đức tính và tập quán của người làm mướn; nhưng cũng như tất cả những người quen độc lập suy nghĩ, lão địa chủ quý tộc rất khó tiếp nhận ý kiến người khác và lại rất say sưa với ý kiến của mình. Ông ta khăng khăng cho rằng nông dân Nga là con lợn chỉ thích được đối xử như lợn, chỉ có thể lôi kéo họ ra khỏi tình trạng đó bằng uy lực, giờ đây đã mất, hoặc bằng roi vọt, nhưng người ta trở nên tự do chủ nghĩa đến nỗi đã thay thế cái roi vọt nghìn đời đó bằng những trò luật sư và nghị định, thừa nhận cho đám hạ lưu hôi thối đó cái quyền được nhồi nhét món xúp ngon lành và còn dành cho chúng bao nhiêu thước khối không khí nữa.
– Tại sao ông lại cho là không thể có quan hệ như vậy đối với người thợ đã khiến lao động sinh lợi, – Levin nói, cố kéo câu chuyện trở lại vấn đề cũ.
– Không bao giờ đạt tới lao động sinh lợi ở nước Nga cả, vì thiếu uy quyền, – vị điền chủ trả lời.
– Thử hỏi ta thể tìm ra điều kiện lao động mới ở đâu? – Xvyajxki nói, sau khi đã ăn sữa chua và hút thuốc, trở lại tham gia tranh luận. Tất cả những quan hệ khả hữu với thợ đều đã được xác định và nghiên cứu, – ông nói. – Còn cái tàn tích man rợ này: công xã nguyên thủy với sự liên đới bảo lĩnh, cũng tự nó tan rã thôi. Chế độ nông nô bị bãi bỏ, chỉ còn lại lao động tự do và những hình thức của nó đã được xác định: đó là lao công, người làm công nhật, tá điền; các ông không thoát khỏi phạm vi đó.
– Nhưng châu Âu không bằng lòng với những hình thức đó.
– Phải, châu Âu đang tìm những hình thức mới. Và rất có thể họ sẽ tìm thấy.
– Đó chính là điều tôi muốn nói, – Levin trả lời. – Tại sao về phía ta, ta lại không tự tìm kiếm?
– Bởi vì thế có khác nào ta tìm kiếm phương pháp xây dựng đường sắt. Những phương pháp đó có sẵn rồi.
– Nhưng nếu nó không thích hợp với nước ta, nó vô lý thì sao? – Levin nói. Chàng lại phát hiện thấy ánh kinh hãi trong khóe mắt Xvyajxki.
– A phải, ra thế đấy: chúng ta thắng lợi dễ như bỡn, chúng ta đã tìm thấy điều châu Âu đang mày mò chứ gì! Tôi thừa biết mọi luận điệu đó, nhưng xin lỗi, anh có biết tất cả những gì châu Âu đã làm về vấn đề công nhân không?
– Rất ít.
– Vấn đề đó ngày nay đang làm những đầu óc lỗi lạc nhất quan tâm tới. Có khuynh hướng của Sunxơ Đêlitsơ…(55). Rồi cơ man nào là sách báo trong đó những xu hướng tự do nhất là do Laxan(56) khơi mào… Có nghiệp đoàn Muludơ(57)… Đó là việc hiển nhiên, hẳn anh đã nghe nói về những cái đó.
(55) Herman Schulze Delitzsche (1808 – 1883), chính khách Đức.
(56) Ferdinand Lassalle (1825 – 1864), một trong những người sáng lập ra chủ nghĩa xã hội Đức.
(57) Mulhouse, một tỉnh ở Pháp.
– Rất mơ hồ thôi.
– Không, anh nói thế, nhưng chắc chắn anh cũng hiểu mọi điều đó như tôi. Tất nhiên, tôi không phải là giáo sư xã hội học, nhưng cái đó làm tôi chú ý và nếu anh thiết tha với vấn đề đó thì anh cần chú tâm nghiên cứu.
– Nhưng họ đã đạt đến cái gì?
– Xin lỗi… Các địa chủ quý tộc đứng dậy và Xvyajxki tiễn khách ra về, một lần nữa lại chặn đứng cuộc thám hiểm của Levin định đột nhập vào tâm tưởng ông.
28
Tối đó, Levin hết sức buồn chán phải ngồi tiếp chuyện các bà; hơn bao giờ hết, chàng khắc khoải với ý nghĩ là sự bất mãn chàng cảm thấy hiện nay không phải chỉ hoàn toàn do hoàn cảnh của chàng, mà còn do điều kiện chung của cuộc sống ở nước Nga. Sự xác lập một chế độ lao động có thể khiến cho thợ thuyền làm việc cũng vui vẻ như lão mugich hồi sáng, không phải chỉ là mộtước mơ mà là một vấn đề phải giải quyết. Chàng thấy có thể giải quyết nổi, và phải dốc toàn tâm toàn ý vào việc đó. Levin cáo từ các bà và hứa ở lại ngày mai để cùng chủ nhân cưỡi ngựa đi xem chỗ sụt lở kỳ lạ xảy ra ở khu rừng nhà. Trước khi đi ngủ, Levin bước vào buồng giấy ông chủ để lấy vài quyển sách bàn về vấn đề thợ thuyền mà Xvyajxki đã giới thiệu. Buồng giấy của Xvyajxki rất rộng, xung quanh có tủ sách, với hai cái bàn: một bàn giấy đồ sộ kê giữa phòng và một bàn tròn có những số nhật báo và tạp chí mới nhất, bằng nhiều thứ tiếng khác nhau, bày thành hình ngôi sao quanh chiếc đèn. Trên bàn đặt một giá sách có ngăn kéo mạ chữ vàng.
Xvyajxki cầm mấy cuốn sách và ngồi xuống ghế xích đu.
– Anh xem gì thế?- ông ta hỏi Levin đang đứng gần bàn tròn, đọc lướt các tạp chí. – À, phải! Ở đấy có bài báo lý thú lắm, – Xvyajxki nói khi nhìn thấy tờ tạp chí trong tay Levin. – Hình như người chịu trách nhiệm chính về việc phân chia nước Ba Lan lại tuyệt nhiên không phải là Frêđêrich đệ nhị, – ông vui vẻ nói tiếp. – Hình như là… – Và, với cách nói rành rọt thường lệ, ông kể lại tóm tắt những phát hiện mới mẻ và rất lý thú đó. Mặc dầu Levin chỉ quan tâm nhiều nhất đến vấn đề nông nghiệp, khi nghe chủ nhà nói, chàng cũng phải tự hỏi: “Bụng dạ anh này nghĩ gì nhỉ? Và tại sao anh ta lại chú ý đến việc phân chia nước Ba Lan?”. Khi Xvyajxki dứt lời, Levin bất giác hỏi: “Thế rồi sao?” Nhưng chỉ có thế thôi. Và Xvyajxki thấy không cần thiết giải thích tại sao lại lý thú.
– Còn tôi, điều tôi thấy lý thú lại chính là lão già bẳn tính nọ, – Levin nói và thở dài. – Ông ta là người thông minh; có rất nhiều cái đúng trong những điều ông ta nói.
– À, thôi đi! Ông ta cũng như tất cả bọn họ chỉ là kẻ đối địch ngoan cố chống lại việc giải phóng nông nô! – Xvyajxki nói.
– Tuy nhiên anh lại đứng đầu bọn họ…
– Phải, nhưng tôi lãnh đạo họ đi về hướng khác, – Xvyajxki cười nói.
– Có một điều làm tôi ngạc nhiên, – Levin nói. – Ông ta có lý khi nói những ước mơ sản xuất hợp lý hóa của ta không thể thực hiện được. Người ta chỉ có thể thành công bằng cách cho vay nặng lãi, như lão già bé nhỏ tẩm ngẩm tầm ngầm đó, hoặc bằng những phương pháp giản đơn nhất… Ai phải chịu trách nhiệm về việc đó?
– Tất nhiên là chúng ta thôi. Vả lại, không phải là ta chẳng đi đến đâu cả. Vaxintsikôp đã đạt được kết quả tốt.
– Ông ta có xưởng máy…
– Tóm lại, tôi cũng không hiểu cái gì đã làm anh phải kinh ngạc.
Dân chúng còn đang ở một trình độ phát triển rất thấp về vật chất và tinh thần, thành thử tất nhiên họ phải chống lại mọi cải cách. Bên châu Âu, nền nông nghiệp hợp lý hóa phồn thịnh vì dân chúng có học thức; cho nên trước tiên chúng ta phải giáo dục dân chúng, có thế thôi.
– Nhưng giáo dục bằng cách nào?
– Muốn giáo dục dân chúng, có ba cái cần thiết: trường học, trường học và trường học nữa.
– Chính anh vừa nói là về mặt vật chất, dân chúng còn quá lạc hậu: trường học liệu có ích gì kia chứ?
– Anh ạ, anh làm tôi nhớ tới một giai thoại: chuyện người ta khuyên bệnh nhân. “Anh phải uống thuốc nhuận tràng. – Tôi uống rồi, càng đau tợn. – Thế thì dùng đỉa vậy. – Tôi cũng dùng rồi: lại càng đau hơn nữa. – Thôi được anh chỉ còn có cách cầu Chúa. – Tôi cũng cầu thử rồi: lại càng tệ hại hơn cả.” Đối với anh cũng thế. Tôi nói chuyện với anh về kinh tế chính trị học, chủ nghĩa xã hội, giáo dục, anh trả lời: “Đáng ghét.”
– Nhưng trường học dùng để làm gì kia chứ?
– Để tạo ra những nhu cầu mới.
– Tôi không bao giờ hiểu nổi điều đó cả, – Levin sôi nổi nói. – Trường học làm sao giúp đỡ dân chúng nâng cao hoàn cảnh vật chất của họ lên được? Anh nói trường học, giáo dục sẽ làm nảy nở những nhu cầu mới trong dân chúng. Thế lại càng tệ hại hơn, vì họ sẽ không đủ sức thỏa mãn những nhu cầu đó. Nhờ biết tính cộng, tính trừ và biết giáo lý mà họ có thể nâng cao hoàn cảnh vật chất lên hay sao? Tôi không bao giờ hiểu nổi chuyện đó. Tối hôm kia, tôi có gặp một bà ẵm con thơ và tôi hỏi bà ta đi đâu. Bà ta trả lời: “Tôi ở nhà bà lang về, cháu nó cứ kêu khóc hoài, tôi bế đến để bà ta chữa cho nó. – Thế bà lang chữa như thế nào? – tôi hỏi. – Bà ấy đặt cháu lên cái giàn trong chuồng gà và đọc mấy câu gì ấy.”
– Đấy, chính anh đã mang câu giải đáp cho tôi rồi đó! Muốn bà ta đừng đặt đứa bé lên giàn chuồng gà nữa thì phải… – Xvyajxki vui vẻ nói.
– Ồ không, – Levin tức giận cãi lại. – Các môn thuốc của anh cũng không hay gì hơn môn thuốc của bà lang. Dân chúng nghèo khổ và dốt nát: chúng ta nhìn thấy điều đó cũng rõ ràng như bà nông dân nhìn thấy đứa con khóc. Nhưng làm sao trường học có thể chữa khỏi đau khổ đó, chữa khỏi nghèo nàn và dốt nát? Điều đó cũng khó hiểu như việc dùng chuồng gà chạy chữa cho cơn hờn của đứa trẻ. Tôi cho rằng trước hết phải chạy chữa sự lầm than đi đã.
– Về điểm này, anh đã nhất trí với Xpenxơ là người anh rất ghét; ông ta cũng nói văn minh có thể là kết quả của đời sống sung túc và đầy đủ tiện nghi, của việc tắm rửa thường xuyên, như ông ta nói, chứ không phải là do khả năng đọc và viết…
– Thế à! Tôi lấy làm hân hạnh, hoặc buồn phiền thì đúng hơn, thấy mình đồng ý với Xpenxơ; nhưng tôi biết điều đó đã từ lâu rồi. Trường học không giúp ích được tí gì hết; điều cần thiết là một cơ cấu kinh tế có thể làm tăng sự giàu có của dân chúng, làm cho dân chúng có thể nhàn nhã hơn; lúc đó ta sẽ xây trường học.
– Thế nhưng trường học là điều bắt buộc phải có ở khắp châu Âu.
– Cả anh nữa, anh cũng đồng ý với Xpenxơ về điểm này à? – Levin hỏi.
Nhưng cái ánh khiếp hãi lại thoáng hiện trong mắt Xvyajxki và ông mỉm cười nói:
– Câu chuyện về người đàn bà nông dân đó thật tuyệt! Chính anh nghe thấy chuyện đó à?
Levin hiểu sẽ không tìm ra mối dây nối liền cuộc sống và tư tưởng con người này. Rõ ràng ông ta không cần luận lý phải dẫn đến kết quả này hoặc kết quả khác; ông ta chỉ cần bản thân sự phát triển của luận lý mà thôi. Và ông khó chịu là sự phát triển đó lại dồn ông vào ngõ cụt. Ông không thích thế và do đó lảng tránh bắt sang chuyện khác vui vẻ hơn. Tất cả cảm giác ngày hôm đó, bắt đầu từ cái ấn tượng ở nhà ông lão mugich nó như tạo thành một cơ sở cho mọi cảm giác và tư tưởng của chàng lúc này, khiến lòng Levin xao động mãnh liệt. Ông bạn Xvyajxki đáng yêu này, dành tư tưởng mình để dùng cho xã hội, còn giữ lại những nguyên tắc khác hẳn cho riêng mình và đồng thời lại cùng hàng loạt người khác hướng dẫn dư luận công chúng bằng những tư tưởng xa lạ đối với ông; lão điền chủ bẳn tính kia lý luận thì xác đáng, vì đó là kết quả của những kinh nghiệm chua chát, nhưng việc ông ta chống đối cả một giai cấp của nước Nga, giai cấp tốt đẹp nhất, lại không xác đáng; sự bất mãn của bản thân chàng với hoạt động của mình và hi vọng tìm ra môn thuốc cho mọi cái đó, tất cả hòa tan vào một cảm giác bồi hồi và chờ đợi giải pháp tương lai.
Còn lại một mình trong căn phòng dành cho chàng, nằm dài trên đệm lò xo mà mỗi cử động lại làm cho tay chân bật tung lên, Levin mãi không sao nhắm mắt được. Chàng không thích thú cuộc trò chuyện nào vơi Xvyajxki cả, mặc dầu không thiếu những câu thông minh; nhưng lý lẽ của vị địa chủ quý tộc lại đáng suy nghĩ! Levin hồi tưởng lại mọi lời của ông ta và chỉnh đốn lại trong trí tưởng tượng những câu chàng đã trả lời. “Phải, đáng lẽ mình phải nói như sau: ông cho việc sản xuất không tiến hành được tốt vì đám mugich thù ghét mọi cải tiến và phải dùng đến uy quyền để buộc họ chấp nhận; nếu việc sản xuất sinh lợi đều thất bại ở khắp nơi, thì hẳn ông nói có lý đấy; nhưng nó lại có kết quả tốt ở nơi nào người thợ làm việc phù hợp với tập quán của họ, như tại nhà ông già tôi vừa ghé lại dọc đường. Sự bất mãn của ta chứng tỏ chính ta mới là thủ phạm, chứ không phải là thợ. Từ bao nhiêu năm nay, chúng ta vẫn làm theo ý mình, theo lối châu Âu, mà không hề đếm xỉa đến tính chất của những con người làm việc cho chúng ta. Ta hãy thử xét lao động lực không phải là một lực lượng lý tưởng, mà là người nông dân nga với bản năng của họ và ta hãy cải tiến cơ sở kinh doanh theo nguyên tắc đó. Đáng lẽ mình phải nói là: ông hãy tưởng tượng việc sản xuất của ông phát triển như của ông già nọ; ông sẽ tìm cách làm cho thợ quan tâm đến năng suất lao động và làm cho họ tiếp thu một số cải cách; do đó, không làm kiệt màu mỡ ruộng đất, ông cũng sẽ thu hoạch được gấp đôi gấp ba so với trước kia. Ông hãy chia đôi số thu hoạch, dành một nửa cho nông dân: cả hai bên đều có lợi. Muốn được như vậy, phải hạ thấp mức kinh doanh và làm cho thợ hào hứng muốn thành công. Cách thực hiện ra sao, đó chỉ là vấn đề chi tiết: nhưng chắc chắn có thể làm được.” Ý nghĩ đó làm cho Levin rất xúc động. Chàng không ngủ suốt nửa đêm, suy nghĩ về cách thực hiện kế hoạch. Trước đó chàng chưa tính chuyện ra về ngay ngày mai, nhưng bây giờ chàng quyết định sẽ lên đường từ sáng sớm. Hơn nữa cô em vợ bạn với cái áo hở ngực đã gợi cho chàng một cảm giác gần như hổ thẹn và hối hận, tựa hồ chàng đã phạm một hành động xấu xa. Và nhất là chàng phải về ngay không trì hoãn để trình bày dự định mới cho đám mugich biết trước vụ gieo hạt mùa thu và đặt toàn bộ hệ thống sản xuất của chàng trên những cơ sở mới.
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.