Chào chú Michael”, Wes nói, đập tay. “Xin chào”. Họ nói chuyện về trại hè tennis của cậu bé – O’Neil cũng chơi tennis – và về những chiếc vợt được căng lại dây. Cậu bé gọn gàng, vạm vỡ của cô rất khéo léo trong hầu hết các môn thể thao, dù hiện nay cậu đang tập trung vào tennis và bóng đá.
Cậu muốn tập karate hay aikido nhưng Dance ngăn không cho cậu tập võ. Đôi khi cậu bé giận dữ đến phát điên vì cái chết của bố cậu và cô không muốn khuyến khích những môn thể thao có thể dùng để đánh nhau. O’Neil nhận nhiệm vụ làm cậu bé bận bịu với những hoạt động lành mạnh.
Anh giới thiệu cho cậu hai hoạt động hoàn toàn trái ngược nhau: sưu tầm sách và dành thời gian cho nơi yêu thích của O’Neil trên thế giới, vịnh Monterey (Đôi khi Dance nghĩ viên thám tử này được sinh ra không hợp thời bởi cô dễ dàng hình dung ra anh là thuyền trưởng của một chiếc thuyền buồm cổ hay một con tàu đánh cá vào những năm ba mươi của thế kỷ XX).
Đôi khi Dance có những buổi đi chơi kiểu mẹ và con gái với Maggie để Wes có thể ở trên thuyền với O’Neil cả tối để đánh cá hoặc ngắm cá voi. Dance say sóng kinh khủng trừ phi được uống Dramanine nhưng Wes thì là thủy thủ bẩm sinh. Họ đang nói chuyện về chuyến đi câu mấy tuần trước, sau đó Wes chúc ngủ ngon và về phòng.
Dance rót rượu vang. Anh là người uống vang đỏ và thích Cabemet. Cô uống Pinot Grigio. Họ cùng sang phòng khách và ngồi xuống sofa. O’Neil ngồi trên tấm đệm ngay bên dưới tấm ảnh cưới của Dance. Đó là một khoảng thời gian ngắn trước cái chết của chồng cô khi ba người cùng làm công việc thực thi pháp luật, thậm chí họ còn làm chung một vụ với nhau.
Bill, liên bang. Dance, bang. O’Neil, hạt. Với một tiếng “tách” lớn, viên thám tử mở chiếc hộp nhựa và lấy ra món sushi anh vừa mua. Tiếng lách tách vang lên như tiếng chuông Pavlov hiện đại, hai con chó nhổm dậy và chạy ra chỗ anh: Dylan, con béc giê Đức, được đặt tên theo ca sĩ – nhạc sĩ nổi tiếng, tất nhiên là thế và Patsy, con chó săn lông ngắn, được đặt tên theo Ms.
Cline, ca sĩ C&W yêu thích của Dance. “Anh cho chúng ăn được không?” “Không, trừ phi anh muốn đánh răng cho chúng”. “Xin lỗi các cậu”, O’Neil nói với lũ chó. Anh chìa cái khay mở cho cô. “Quên táo mất rồi, thưa cô giáo. Sushi cá ngừ được không?” Cô cười và từ chối. Anh bắt đầu ăn, không buồn mở hộp xì dầu và mù tạt.
Trông anh có vẻ rất mệt mỏi, có lẽ đánh vật với mấy cái gói quá vất vả. “Em muốn hỏi một chuyện”, Dance nói, “Cảnh sát trưởng có đồng ý để CBI điều hành vụ truy tìm này không?”. O’Neil đặt đĩa xuống và vuốt mái tóc muối tiêu của anh. “Được rồi, anh sẽ nói với em. Khi bố anh còn ở Việt Nam, đại đội của ông đôi khi phải chui vào đường hầm của Việt Cộng.
Có khi họ rơi vào bẫy. Có khi họ tìm được đối phương. Đấy là công việc nguy hiểm nhất trong chiến tranh. Ông đã bị một nỗi sợ hãi ám ảnh suốt đời”. “Bệnh sợ nơi chật chội?” “Không. Bệnh sợ tình nguyện. Ông đã tình nguyện đi vào một đường hầm. Ông đã giải quyết được nó.
Và không bao giờ giơ tay lần nữa. Ông mãi vẫn không hiểu tại sao ông lại tình nguyện làm việc đó”. Cô cười: “Anh đang nghĩ em tình nguyện?”. Cô kể cho anh nghe về nước thí quân của Overby để chiếm được quyền kiểm soát vụ án trước CHP và văn phòng của O’Neil. “Anh cũng băn khoăn về chuyện đó.
Nhân tiện, bọn anh cũng nhớ Fish như em”. Stanley Fishbume, sếp của CBI. “Không nhiều như bọn em nhớ đâu”, Dance nói chắc chắn. “Được rồi, có thể không bằng. Nhưng để trả lời câu hỏi của em, tất cả mọi người đều mừng vì có em ở đây. Chúa phù hộ và ban sức mạnh cho em”. Dance gạt đống sách báo và tạp chí sang một bên, sau đó mở tài liệu của Morton Nagle trước mặt họ.
Có thể những tờ giấy chỉ là một phần của những cuốn sách, các tài liệu sưu tầm và ghi chú nghiên cứu của Nagle, nhưng số lượng cũng đã làm người ta nản chí. Cô tìm thấy danh mục kiểm kê bằng chứng và những hạng mục khác lấy từ nhà của Pell tại Seaside sau vụ giết nhà Croyton.
Có một tá sách nói về Charles Manson, mấy bộ hồ sơ lớn và một bản ghi chép của sĩ quan khám nghiệm hiện trường: Hạng mục 23. Tìm thấy trong hộp đựng sách về Manson: Trylby, cuốn tiểu thuyết của George du Maurier. Cuốn sách đã được đọc nhiều lần. Có nhiều ghi chú bên lề. Không có gì liên quan đến vụ án.
“Anh có biết cuốn này không?”, cô hỏi. O’Neil đọc rất nhiều và bộ sưu tập lớn của anh, chất đầy phòng làm việc, có chứa hầu hết các thể loại sách có thể tồn tại. Nhưng cuốn này thì anh chưa bao giờ nghe nói đến. Dance lấy máy tính xách tay, vào mạng và tìm kiếm… “Thú vị đây.
George du Maurier là ông của Daphne du Maurier có được một vài bản tóm tắt và phê bình về cuốn sách. “Có vẻ như là Trilby đã là một cuốn bán chạy nhất, một Mật mã Da Vinci thời kỳ đó. Svengali?” “Anh nhớ anh ta là một nhà thôi miên nhưng chỉ thế thôi”. “Thú vị thật. Một câu chuyện về một nhạc sĩ không thành công, Svengali, anh ta gặp một ca sĩ trẻ và xinh đẹp – tên cô ta là Trilby.
Nhưng cô ta cũng không thành công lắm. Svengali phải lòng cô ta nhưng cô ta lại chẳng thích anh ta nên anh đã thôi miên cô. Sự nghiệp của cô thành công, nhưng cô trở thành nô lệ tinh thần của anh ta. Cuối cùng Svengali chết và vì George du Maurier tin rằng một người máy không thế sống thiếu chủ của nó nên cô ta cũng chết theo”.
“Anh đoán là không có tập tiếp theo”, O’Neil lật giở một chồng ghi chép. “Nagle có ý tưởng về việc hắn định làm gì?” “Không hẳn. Ông ta viết một tiểu sử. Có thể trong đó có gì hữu ích cho ta chăng?” Một giờ tiếp theo họ lật giở các bản photo, tìm kiếm những kết quả đến bất cứ đâu hay người nào trong vùng mà Pell có thể quan tâm đến, một vài lý do để hắn ở lại bán đảo.
Không có manh mối nào tới Alison hay Nimue, những từ mà tên sát nhân tìm kiếm trên Google. Chẳng có gì. Hầu hết băng video là những phóng sự điều tra về Pell, vụ sát hại nhà Croyton hay về chính Croyton, một doanh nhân khoa trương, đi trước thời đại của Thung lũng Silicon. “Đồ rác rưởi của những kẻ thích giật gân”, O’Neil tuyên bố.
“Đồ rác rưởi của kẻ thích giật gân siêu đẳng”. Chính xác là điều Morton Nagle phản đối khi đưa tin về tội ác và xung đột. Nhưng còn hai cuộn băng khác ghi lại phỏng vấn của cảnh sát mà Dance thấy có ý nghĩa. Một là cuộc thẩm vấn về vụ trộm, mười ba năm trước. “Người thân gần nhất của anh là ai, Daniel?” “Tôi không có người thân.
Không gia đình”. “Cha mẹ anh?” “Mất lâu rồi. Có thể nói tôi là trẻ mồ côi”. “Họ mất khi nào?” “Khi tôi mười bảy tuổi. Nhưng bố tôi bỏ đi trước đó”. “Anh có hòa thuận vói bố không?” “Bố tôi… Câu chuyện nặng nề đây”. Pell kể cho người sĩ quan về người cha lạm dụng của mình, người đã bắt Daniel trẻ tuổi phải trả tiền thuê nhà từ khi mười ba tuổi.
Ông ta đánh thằng bé nếu nó không có tiền và đánh mẹ thằng bé nếu bà ta bênh nó. Hắn giải thích đó là lý do vì sao hắn đi ăn cắp. Cuối cùng người cha đã bỏ mẹ con hắn. Vô tình, cha mẹ ly thân của hắn lại chết cùng một năm – mẹ hắn mất vì ung thư, cha hắn bị tai nạn khi say rượu lái xe.
Mười bảy tuổi, Pell sống tự lập. “Không anh em gì cả sao, hừm?” “Không thưa ông… Tôi luôn nghĩ rằng nếu tôi có ai đó cùng chia sẻ gánh nặng này thì tôi đã có thể khác đi… Và bản thân tôi cũng không có con cái gì. Thật đáng tiếc, tôi phải công nhận… Nhưng tôi còn trẻ. Tôi còn thời gian, đúng không?” “Ồ, nếu như anh kiểm soát hành động của mình, Daniel, thì không có lý do gì mà anh không thể có gia đình riêng của mình được”.
“Cảm ơn vì đã nói vậy, thưa sĩ quan. Thực sự đấy. Cảm ơn ông. Còn ông thì sao thưa sĩ quan? Ông là con người của gia đình chứ? Tôi thấy ông đeo nhẫn cưới”. Cuộn băng thứ hai của cảnh sát là từ một thị trấn nhỏ ở thung lũng Trung tâm mười hai năm trước, nơi hắn bị bắt vì tội ăn cắp vặt.
“Daniel, nghe đây, tôi sẽ hỏi anh mấy câu. Đừng có lói dối. Sẽ không tốt cho anh đâu”. “Không đâu, thưa ông, cảnh sát trưởng. Tôi ở đây là để trung thực. Lói ra sự thực của Chúa”. “Cứ làm thế thì tôi với anh sẽ ổn. Thế thì tại sao người ta lại tóm được anh đang chở ti vi và đầu video của Jack Peabody sau xe anh?” “Tôi mua chúng mà, thưa cảnh sát trưởng.
Tôi thề đấy. Mua ngoài phố. Cái thằng cha Mexico ấy, chúng tôi đang lói chuyện và hắn lói hắn cần tiền. Con hắn đang ốm, hắn lói với tôi thế”. “Thấy hắn làm gì không?”, Dance hỏi. O’Neil lắc đầu. “Người thẩm vấn đầu tiên là người trí thức. Anh ta nói năng đĩnh đạc, dùng đúng ngữ pháp.
Và Pell cũng đáp lời chính xác như vậy. Còn sĩ quan thứ hai? Không được giáo dục đầy đủ như người thứ nhất, mắc lỗi chính tả. Pell thấy điều đó và cũng nói sai. Đó là mẹo những kẻ High Machiavelly hay dùng” Một cái gật đầu. “Pel kiểm soát hoàn toàn tình hình trong cả hai cuộc thẩm vấn” “Anh không biết, anh sẽ cho hắn điểm B trừ cho những câu chuyện mùi mẫn”, O’Neiil bình luận, “Sẽ không có được chút đồng cảm nào từ anh”.
“Để xem”. Dance tìm thấy các báo cáo đánh giá mà Nagle gắn kèm theo những cuộn băng. ”Xin lỗi giáo sư, họ khoan nhượng cho hắn. Giảm tội thứ nhất từ Trộm cắp độ một xuống Tiêu thụ đồ ăn cắp, án treo. Vụ thứ hai? Hắn được thả”. “Ồ”. Họ xem xét tài liệu khoảng nửa tiếng nữa.
Không còn gì thực sự hữu ích. O’Neil nhìn đồng hồ. “Anh phải đi”. Anh mệt mỏi đứng đậy và cô tiễn anh ra cửa. Anh xoa đầu lũ chó. “Hy vọng anh đến dự tiệc của bố em vào ngày mai”. “Hy vọng khi đó mọi việc đã xong”. Anh trèo vào chiếc Volvo của mình và chạy ra con phố mù sương.
Điện thoại của cô reo. “A lô?” “Chào sếp”. Rất khó nghe, bên kia tiếng nhạc quá ồn ào. “Cậu vặn bé đi chút được không?” “Tôi phải hỏi ban nhạc đã. Có tin gì mới về Juan không?” “Không thay đổi”. “Ngày mai tôi sẽ đến thăm cậu ấy.”… “A lô, sếp nghe rõ không?” “Tôi đang cố đây” “Đầu tiên, bà bác của Pell, tên bà ta là Barbara Pell.
Nhưng đầu bà ấy hỏng rồi. Sở cảnh sát Bakersfield nói bà ấy bị bệnh Alzheimer hay gì đó. Không còn nhớ cả ngày giờ nhưng phía sau nhà có một nhà xưởng hay một cái ga ra, trong đó có ít dụng cụ và vài thứ đồ đạc của Pell. Ai cũng có thể lẻn vào lấy cái búa. Những người hàng xóm không nhìn thấy gì.
Bất ngờ; bất ngờ, bất ngờ ” “Có phải đây là chương trình Andy Griffith không?” “Vẫn chương trình ấy. Và đó là tiếng của nhân vật Gomer Pyle”. “Cảnh sát Bakersfield sẽ để mắt đến nhà của bà ta chứ?” “Đúng vậy… Còn bây giờ, thưa sếp, có tin xấu cho chị đây. Về Winston”. “Ai?” “Winston Kellogg, anh chàng FBI.
Người được Overby đem đến để trông chị”. Trông… “Cậu không dùng từ khác được à?” “Để coi sóc chị. Để chăn dắt. Để chinh phục”. “Được rồi. Tin sốt dẻo đây. Anh ta bốn mươi bốn tuổi. Sống ở Washington nhưng là người vùng bờ Tây. Đã từng là lính, phục vụ trong quân đội”.
Giống như người chồng quá cố của cô, cô nghĩ. Đều từng tham gia quân ngũ, đều cùng lứa tuổi. “Là thám tử của Sở cảnh sát Seattle, sau đó tham gia Cục. Anh ta làm cho bộ phận điều tra các giáo phái và những tội ác liên quan. Họ theo dõi những kẻ cầm đầu, xử lý các cuộc đàm phán bắt con tin và kết nối thành viên của giáo phái với những người đã cải đạo.
Bộ phận này được thành lập sau vụ Waco”. Vụ lộn xộn ở Texas giữa các nhân viên thực thi pháp luật và giáo phái do David Koresh cầm đầu. Cuộc tấn công để giải cứu thành viên giáo phái đã kết thúc bi thảm. Khu nhà bị đốt cháy và hầu hết người bên trong bị chết, bao gồm một số trẻ em.
“Anh ta có uy tín tốt trong Cục. Hơi cứng nhắc một chút nhưng không sợ bị bẩn tay. Đây là tôi trích dẫn trực tiếp một người bạn và tôi không hiểu điều đó có ý nghĩa gì. À, còn một điểm nữa thưa sếp. Tìm Nimue. Không có báo cáo nào của VICAP hay từ các đơn vị thực thi pháp luật khác.
Tôi cũng đã kiểm tra hàng trăm nick trên mạng. Một nửa đã hết hạn, những nick còn hạn có vẻ là của bọn trẻ mười sáu tuổi. Tên họ thật của chúng chủ yếu là từ châu âu và tôi không tìm thấy bất cứ ai có liên hệ gì ở bên đó. Nhưng tôi cũng tìm được một điều khá thú vị”.
“Thật sao? Gì vậy?” “Đây là trò chơi đóng vai trên mạng. Chị có biết những trò chơi ấy không?” “Cho máy tính đúng không? Một trong những cái hộp to đầy dây nhợ?” “Chính xác, thưa sếp. Bối cảnh là thời Trung cổ và việc ta làm là giết bọn khổng lồ, rồng và những thứ quái vật khác để giải cứu trinh nữ.
Nghĩ cũng thấy giống nghề của ta ở góc độ nào đó. Tóm lại là lý do nó không xuất hiện ngay từ đầu là vì nó được đánh vần hơi khác: N-i-X-m-u-e. Biểu tượng của trò chơi là từ Nimue với một chữ X lớn màu đỏ ở giữa. Đây là trò chơi trực tuyến nóng nhất bây giờ. Doanh số hàng trăm triệu đô la… Ôi trời, chuyện gì đã xảy ra với Ms-Pac-Man, trò yêu thích của tôi thế này?” “Tôi không nghĩ Pell là loại người ham hố trò chơi máy tính”.
“Nhưng hắn là tên đã giết người viết phần mềm”. ‘Đúng đấy. Tìm hiểu điều này đi. Nhưng tôi nghiêng về hướng đó là một cái tên hay một nick”. “Đừng lo, sếp. Tôi có thể kiểm tra cả hai”. Dance thả Dylan và Patsy ra ngoài đi vệ sinh trước khi ngủ, sau đó nhanh chóng tuần tra khu đất.
Gần đó không có chiếc xe lạ nào đỗ. Cô gọi lũ chó vào trong nhà. Thường chúng hay ngủ trong bếp nhưng tối nay cô đế chúng trong nhà, chúng sẽ là một tấm chắn lớn nếu có người lạ. Cô bật báo động cửa sổ và cửa ra vào. Dtince vào phòng Maggie và nghe con bé chơi organ một đoạn ngắn của Mozard.
Sau đó cô hôn và chúc con bé ngủ ngon rồi tắt đèn. Cô ngồi với Wes mấy phút khi cậu con trai kể cho cô nghe về một bé mới đến ở trại hè, người vừa chuyển đến thị trấn với bố mẹ mấy tháng trước. Sau đó họ cùng nhau luyện mấy ván cờ. “Con có muốn mời cậu ấy và bạn cậu ấy đến đây ngày mai không? Đến dự sinh nhật ông?” “Không, con không nghĩ thế”.
Sau cái chết của bố, Wes trở nên khép kín và ẩn dật hơn. “Con chắc chứ?” “Có thể sau đó. Con không biết… Mẹ ơi?” “Gì thế con yêu?” Một tiếng thở dài giận dữ. “Gi thế con?” “Sao mẹ vẫn mang súng?” Bọn trẻ… đúng là không gì qua mắt được chúng. “Mẹ quên. Mẹ sẽ cất nó vào két ngay bây giờ”.
“Con đọc thêm một lúc nữa được không ạ?” “Được thôi. Mười phút. Cuốn gì thế?” “The Lord ofthe Rings”. Cậu mở sách, rồi gập lại. “Mẹ?” “Gì con?” Nhưng không có câu hỏi nào tiếp theo. Dance nghĩ cô biết trong đầu óc cậu bé có gì. Cô sẽ nói chuyện nếu cậu bé muốn. Nhưng cô hy vọng cậu không nói, ngày hôm nay đã dài quá rồi.
Sau đó cậu nói: “Không có gì ạ” bằng một giọng cô hiểu có ý nghĩa là gì: Có chuyện, nhưng con vẫn chưa muốn nói tới lúc này. Cậu quay trở lại với vùng Trung Thổ. Cô hỏi: “Các cậu hobbits đang ở đâu?”. Một cái hất đầu về phía cuốn sách, “vẫn còn ở Shire. Lũ kỵ sĩ đang tìm họ”.
“Mười lăm phút nữa phải ngủ đấy”. “Chúc mẹ ngủ ngon!” Dance cho khẩu Glock vào trong két. Cô đặt lại mã khóa với ba chữ số đơn giản để cô có thể mở được trong bóng tối. Cô nhắm mắt thử lại. Không quá hai giây. Cô tắm, mặc quần áo và chui vào lớp chăn dày, nỗi buồn bực trong ngày vây quanh cô như mùi của những bông oải hương đựng trong đĩa hoa khô gần đó.
Cô nghĩ đến Daniel Pell. Hắn đang ở đâu? Đồng phạm của hắn là ai? Lúc này hắn đang làm gì? Ngủ? Lái xe lòng vòng, tìm kiếm ai đó hay thứ gì đó? Hắn có ý định giết chóc nữa hay không? Làm thế nào cô biết được hắn đang nghĩ gì, thậm chí khi ở gần đến thế? Trôi vào giấc ngủ, cô lại nghe thấy trong đầu mình những cuộc đối thoại trong cuốn băng mà cô mà O’Neil vừa nghe.
“Tôi không có con. Thật đáng tiếc; tôi phải công nhận thế… Nhưng tôi còn trẻ, tôi còn thời gian. Đúng không?” “Ồ, nếu anh kiểm soát được hành động của mình thì, Daniel, chẳng có lý do gì khiến anh không có được gia đình của mình”. Dance mở mắt. Cô nằm vài phút trên giường, chằm chằm nhìn lên những cái bóng trên trần nhà.