Tháng Tám ấm và trong, và ngay cả trong tháng Chín, khí hậu vẫn còn như mùa hè –nhưng rồi, vào những ngày cuối, trời bắt đầu mưa. Suốt ngày, mây giăng chùng trên thành phố, mái hiên tí tách nước, rồi những trận bão bắt đầu và, một Chúa Nhật kia, khi dậy sớm, đến bên cửa sổ, tôi trông thấy những chấm lưu huỳnh vàng úa trên vòm lá ở nghĩa trang và những cành khô đầu tiên.
Tôi đứng bên cửa sổ thêm một lát. Thật lạ lùng, những ngày tháng sau khi chúng tôi từ chỗ nghĩ mát ở biển trở về; tôi luôn luôn, hàng giờ, ý thức rằng đến mùa thu Pat sẽ phải đi xa, thế nhưng tôi nghĩ đến chuyện ấy như người ta nghĩ đến nhiều thứ khác — rằng ngày tháng trôi qua, rằng con người phải già đi, rằng con người không thể sống muôn đời. Hiện tại được coi trọng; lúc nào nó cũng đánh bại những ý nghĩ khác, và chừng nào Pat còn đây, chừng nào cây lá còn xanh, những từ ngữ như “mùa thu”, “đi xa” và “chia ly” chẳng khác gì hơn cái bóng nhợt nhạt ở chân trời, khiến ta cảm thấy đậm đà thêm niềm vui vẫn được gần gụi, chung sống bên nhau.
Tôi nhìn xuống nghĩa trang ẩm thấp, đẫm nước, nhìn những mộ bia phủ đầy lá nâu bẩn thỉu.
Như một con quái vật kiệt máu, sương giá đêm qua đã hút cạn nhựa xanh của lá; chúng yếu ớt, mềm rũ, bám víu lên cành; mỗi cơn gió thoảng qua lại làm rơi rụng thêm vài chiếc bay bay trước gió –và bỗng dưng lần thứ nhất trong đời, tôi ý thức được nỗi đau nhức nhối của cuộc sinh ly sắp xảy ra, sắp trở thành hiện thực, và mùa thu đang len lén bò trên ngọn cây ngoài kia để lại dấu chân vàng vọt phía sau, cũng đã là hiện thực.
Tôi nghe ngóng phòng bên cạnh. Pat vẫn ngủ. Tôi đến cửa phòng, đứng đó một lát. Nàng ngủ yên, không ho. Trong thoáng chốc, một hy vọng bất thần nảy sinh: tôi vẽ ra trước mắt cảnh tượng hôm nay hay ngày mai hay vài ngày sắp tới, Jaffé sẽ gọi điện báo cho tôi biết, nàng không phải đi xa. Rồi tôi chợt nhớ đến những đêm nghe hơi thở lào xào của nàng, âm thanh đều đều, nghèn nghẹn, kẽo kẹt, đến rồi đi như một lưỡi cưa mỏng kéo nơi xa –và niềm hy vọng ấy lịm tắt cũng nhanh như khi bùng dậy.
Tôi quay lại cửa sổ và một lần nữa, nhìn mưa rơi. Rồi tôi ngồi xuống bàn, bắt đầu đếm tiền. Tôi tính toán xem số tiền đó sẽ kéo dài được bao lâu cho Pat, nhưng việc ấy làm tôi khổ sở, và tôi lại cất tiền đi.
Tôi nhìn đồng hồ. Gần bẩy giờ sáng. Ít nhất hai giờ nữa Pat mới thức dậy. Nên tôi vội mặc quần áo để ra khỏi nhà và lái một chút. Như thế còn hơn là ngồi rịt trong phòng, suy nghĩ vẩn vơ.
Tôi đến ga-ra, lấy chiếc tắc xi và lái chầm chậm. Đường thưa người. Trong khu vực lao động, những dãy chung cư xếp hàng, trọc lóc và tiêu điều, như những cô gái điếm già nua buồn bã, trong mưa. Mặt tiền xuống cấp và dơ bẩn, các cửa sổ tối tăm gương những cặp mắt u sầu dưới ánh sáng ban mai, và lớp vôi tường đã tróc lở nhiều chỗ để lộ những lỗ sâu, xám vàng như đậu mùa.
Tôi lái qua Phố Cổ, đến giáo đường. Tôi đậu xe gần cửa nhỏ và bước xuống. Qua lớp gỗ sồi dày, tiếng organ văng vẳng đưa ra. Đó là giờ cử hành lễ Misa buổi sáng, và tôi lắng nghe tiếng đàn, bắt đầu nghi thức dâng bánh — nghĩa là ít nhất hai mươi phút nữa mới tan lễ và con chiên mới ra về.
Tôi đi vào vườn hoa nơi hành lang. Vườn nằm dưới vũng sáng xám lờ mờ. Những bụi hồng sũng nước, nhưng đa số vẫn nở hoa. Áo mưa của tôi khá rộng và tôi có thể dấu trong áo những chùm hoa mới cắt. Mặc dù Chúa Nhật, nhưng không ai lui tới, và tôi đem một ôm hoa hồng ra xe mà không trở ngại. Rồi tôi trở vào để hái thêm. Khi tôi vừa an toàn dấu chúng dưới áo, tôi nghe tiếng chân ai từ hành lang đi đến. Tôi kẹp hoa dưới nách và đứng im trước một trong những Chặng Đàng Thánh Giá, làm như say sưa cầu nguyện.
Tiếng chân đến gần hơn; chúng không qua luôn, mà dừng lại. Người tôi bắt đầu hực nóng. Tôi chăm chú ngắm bức phù điêu đá, ra vẻ mơ màng sâu lắng, tay làm dấu thánh giá, và từ từ bước qua bức phù điêu kế tiếp, gần cửa ra vào. Tiếng chân đi theo rồi cũng ngừng lại. Tôi không biết làm sao. Tôi không thể bỏ đi ngay, tôi cần đứng lại đủ lâu để đọc mười bài kinh Kính Mừng Đức Mẹ và một bài kinh Lạy Cha — nếu không, tôi sẽ bại lộ mà thôi. Do đó tôi tiếp tục đứng im và thận trọng ngước lên để tìm hiểu sự tình, với bộ mặt bất mãn vì việc sùng kính bị quấy nhiễu.
Tôi nhìn thấy gương mặt tròn trịa, thân thiện của một linh mục, và tôi thở đều lại. Tôi biết ngài sẽ để yên cho tôi cầu nguyện, và tôi tưởng mình đã thoát khi tôi nhận thấy, chẳng may, tôi đã chọn Chặng Đàng cuối cùng. Dù cầu kinh rề rà tới đâu chăng nữa, chỉ trong vài phút tôi cũng phải xong, và rõ ràng là ngài chờ đợi giây phút đó. Không có lý do nào kéo dài hơn nữa. Vì thế, tôi chậm rãi bỏ đi và thản nhiên tiến ra cửa.
“Chào con,” linh mục nói. “Sáng danh Thiên Chúa.”
“Đời đời, amen,” tôi đáp ứng. Đó là cách chào hỏi của bổn đạo.
“Thật hiếm gặp ai ở đây, vào giờ này,” ngài hiền hòa nói, nhìn tôi với đôi mắt trẻ thơ, xanh lơ, sáng láng.
Tôi ấp úng trong họng.
“Chẳng may, ít có khi,” ngài nói tiếp, hơi phiền muộn. “Đặc biệt là phái nam, chẳng mấy ai đến chiêm bái Các Chặng Đường. Vì lý do ấy, cha thật vui và cha muốn gợi chuyện với con. Cha tin là con có một lời khấn đặc biệt nào đó, nên con mới đi sớm trong thời tiết này.”
Vâng, đó là, cha hãy biến mau cho con nhờ, tôi nghĩ, gật đầu và bớt lo. Dường như ngài vẫn không thấy chùm hoa dưới áo. Cần phải ứng đối nhanh chóng để ngài không nhận ra.
Ngài lại mỉm cười với tôi. “Cha sắp sửa dâng lễ Misa. Cha sẽ cầu nguyện cho con.”
“Cảm ơn Cha,” tôi nói, ngạc nhiên và xấu hổ.
“Cho linh hồn của một người vừa quá vãng, phải không?” ngài hỏi.
Tôi chầm chập nhìn ngài trong giây lát, và chùm hoa tuột dần xuống. “Không ạ,” tôi nói nhanh, ép chặt tay vào thân áo khoác.
Đôi mắt xanh trong vắt của ngài ngây thơ, nhìn thẳng mặt tôi, cố tìm hiểu. Rõ ràng ngài muốn nghe một lời tâm sự. Nhưng ngay lúc ấy, tôi thấy không có điều gì thích hợp để kể cho ngài nghe, và ngoài ra, tôi không muốn nói dối với ngài, nếu không cần thiết. Nên tôi lặng thinh.
“Vậy Cha sẽ cầu nguyện cho một người nào đó đang cần giúp đỡ,” cuối cùng ngài nói.
“Vâng ạ,” tôi trả lời, “nếu Cha có thể làm điều ấy. Và con xin cám ơn Cha, thật nhiều.”
Ngài mỉm cười. “Con không cần cám ơn Cha. Tất cả chúng ta đều nằm trong bàn tay Chúa.” Ngài nhìn tôi một lát, đầu hơi nghiêng sang một bên, và như thể có một điều gì đó đang lướt qua mặt ngài. “Chỉ có sự phó thác,” ngài nói. “Đức Thánh Cha sẽ cứu giúp. Ngài luôn luôn cứu giúp, dù cho đôi khi chúng ta không thể hiểu.” Rồi ngài gật đầu với tôi và bỏ đi.
Tôi đưa mắt nhìn theo cho đến lúc tôi nghe tiếng cửa đóng sầm sau lưng ngài. Vâng, tôi nghĩ, nếu đơn giản có thế thì nói làm gì. Chúa cứu giúp. Ngài luôn luôn cứu giúp — nhưng Ngài có cứu Bernhard Wiese không, khi anh ấy bị thương ở bụng, nắm kêu la ở cánh rừng Houthoulst? Ngài có cứu Katczinsky, đã gục ngã ở Handzaeme, để lại cô vợ bệnh hoạn và đứa con mà anh ấy chưa hề gặp mặt? Ngài có cứu thằng bé Friedmann và Jurgens và Berger và hàng triệu người nữa? Không, khốn nạn thật, đã có quá nhiều máu chảy trên thế gian vì thứ niềm tin như thế nơi Đức Thánh Cha.
Tôi mang hoa về nhà, rồi lái ra xưởng trả xe lại, đi bộ về. Mùi cà phê mới pha thơm ngào ngạt, và Frida lục đục trong bếp. Kỳ thật, nhưng mùi cà phê làm tôi khoan khoái hẳn lên. Tôi đã hiểu điều đó từ thời chiến tranh; một thứ có thể an ủi ta, không bao giờ to tát — mà chính ra, nó thường là những điều nhỏ nhặt.
Tôi chưa kịp đóng cửa hành lang, Hasse đã ló ra khỏi phòng của anh. Mặt anh vàng và sưng, mắt đỏ quạch và có vẻ như anh đã để nguyên quần áo lên giường đêm qua. Khi thấy tôi, một nỗi thất vọng não nề hiện trên mặt anh.
“Ach, té ra là cậu,” anh thì thào.
Tôi ngạc nhiên nhìn anh. “Giờ này mà anh trông ngóng ai vậy?”
“Vâng,” anh nói khẻ, “nhà tôi. Cô ấy chưa về. Cậu có gặp nhà tôi ở đâu không?”
Tôi lắc đầu. “Tôi mới thức dậy chừng một giờ.”
Anh gật đầu. “Tôi cứ nghĩ — biết đâu cậu đã gặp nhà tôi ở đâu đó.”
Tôi nhún vai. “Có lẽ chị ấy sắp về. Chị ấy không gọi điện thoại sao?”
Anh nhìn tôi, hơi thẹn. “Tối qua, nhà tôi đến nhà mấy người bạn. Tôi không biết họ ở đâu.”
“Vậy anh biết tên những người ấy không? Nếu biết, anh có thể gọi tổng đài.”
“Tôi đã gọi. Họ không biết tên đó.”
Trông anh tiu nghĩu như một con chó phải đòn. “Nhà tôi luôn luôn giữ bí mật về những người đó; và nếu tôi gặng hỏi, nhà tôi sẽ đùng đùng nổi giận. Vì thế tôi đành làm lơ. Nhà tôi có được chỗ để lui tới, là tôi vui rồi. Nhà tôi cứ luôn mồm nói thế, chứ tôi có tức tối gì đâu.”
“Có lẽ chị ấy chưa về,” tôi nói. “Thật tình, tôi nghĩ chị ấy sắp về. Anh có hỏi các bệnh viện hay là bót cảnh sát chưa? Không bao giờ biết được.”
Anh gật đầu. “Đã gọi khắp nơi. Chẳng ai biết.”
“Vậy, trong trường hợp này, anh không cần lo lắng thái quá. Có lẽ chị ấy không khỏe nên nghĩ qua đêm ở nhà bạn. Những chuyện như thế cũng hay xảy ra. Chừng một hay hai giờ nữa, chị ấy sẽ lại có mặt ở nhà.”
“Cậu nghĩ thế ư?’
Cửa bếp mở và Frida xuất hiện, bưng một cái khay. “Khay của ai vậy?” tôi hỏi.
“Của Fraulein Hollmann,” bà ta trả lời, hơi cáu vì cái liếc mắt của tôi.
“Cô ấy đã dậy rồi à?
“Tất nhiên cô ấy đã dậy,” Frida bốp chát, “nếu không, cô ấy đã không gọi điện thoại bảo tôi dọn điểm tâm.”
“Chúa ban phước lành cho chị,” tôi trả lời. “Nhiều buổi sáng, chị là một thiên thần toàn hảo, Frida ạ. Chị nghĩ, chị có thể dọn cà phê cho tôi ngay bây giờ không?”
Bà ta càu nhàu một câu gì đó rồi sảii bước trên hành lang, cái bàn tọa lắc qua lắc lại một cách miệt thị. Bà ta rất giỏi làm như vậy. Tôi chưa bao giờ thấy ai diễn đạt được nhiều tình cảm trên đó cho bằng.
Hasse vẫn chờ. Tôi chợt xấu hổ khi quay lại, nhìn thấy anh bên cạnh, cam chịu và yên lặng.
“Trong vài giờ nữa, nỗi khổ của anh sẽ biến mất,” tôi nói, chìa tay cho anh.
Anh không cầm nó, mà nhìn tôi lạ lẫm. “Cậu nghĩ, ta có thể đi tìm cô ấy không?” anh hỏi nhẹ nhàng.
“Nhưng anh nào có biết chị ấy ở đâu?”
“Đành vậy, nhưng có lẽ, ta vẫn có thể đi tìm,” anh lập lại. “Nếu chúng ta lấy tắc xi của cậu –tôi sẽ trả mọi chi phí, dĩ nhiên,” anh hấp tấp nói.
“Không phải thế,” tôi trả lời. “Vô vọng mà thôi. Chúng ta lái đi đâu? Chị ấy sẽ không có mặt ngoài đường giờ này.”
“Tôi không biết,”anh nói, càng nhỏ nhẹ hơn. “Tôi chỉ nghĩ rằng, ta có thể thử.”
Frida trở lại với cái khay trống. “Tôi phải đi đây,” tôi nói, “và tôi nghĩ rằng anh lo âu một cách không cần thiết. Tuy tôi sẳn sàng giúp anh, nhưng Fraulein Hollmann sắp sửa đi xa, và tôi muốn được ở bên cạnh cô ấy hôm nay. Có thể đây là Chúa Nhật cuối cùng của cô ấy nơi đây. Xin anh hiểu, anh nhé?”
Anh gật đầu.
Anh làm tôi đau lòng, cách anh đứng đó, nhưng tôi nóng ruột muốn gặp Pat. “Nếu anh muốn đi ngay lúc này, dĩ nhiên anh có thể xuống nhà, gọi tắc xi,” tôi nói tiếp, “nhưng tôi không khuyên anh làm vậy. Anh nên đợi thêm một lát –tôi sẽ gọi bạn tôi, Lenz, và cậu ấy sẽ đi tìm với anh.”
Tôi có cảm giác là anh không nghe tôi.
“Sáng nay, cậu không thấy nhà tôi chứ?” anh thình lình hỏi.
“Không,” tôi nói, hoang mang. “Nếu có, tôi đã nói cho anh biết tự nãy giờ.”
Anh lại gật đầu và lơ đãng quay về phòng, không thốt một lời.
Pat đã vào phòng tôi và nhìn thấy chùm hoa. Nàng cười to khi trở lại. “Robby,” nàng nói, “Nhưng mà, em vô tội. Frida vừa nói với em là hồng mới cắt, sáng sớm Chúa nhật, trong mùa này, phải có liên quan gì đó với chuyện trộm cắp. Bà ấy cũng bảo rằng các tiệm hoa trong vùng không có loại hồng này.”
“Em muốn nghĩ sao thì nghĩ,” tôi trả lời. “Điều chính yếu là chúng đem lại cho em một chút hạnh phúc.”
“Hơn bao giờ hết, anh yêu. Anh phải mạo hiểm để lấy về cho em.”
“Vâng, nguy hiểm lắm!” tôi nghĩ đến vị linh mục. “Nhưng sao em thức sớm thế?”
“Em không ngủ được nữa. Và ngoài ra, em nằm mơ. Chẳng tốt đẹp gì.”
Tôi liếc nhìn nàng. Trông nàng mệt mỏi và quanh mắt xuất hiện những quầng thâm. “Em có mộng dữ từ khi nào?” tôi nói. “Anh tưởng đó mới là nghề của anh?”
Nàng lắc đầu. “Anh có thấy mùa thu đã về ngoài kia chăng?”
“Với chúng ta, cái đó gọi là hè muộn,” tôi trả lời. “Sao vậy, hoa hồng vẫn nở. Anh chỉ thấy trời mưa.”
“Trời mưa,” nàng lập lại. “Mưa đã kéo dài quá lâu, anh yêu. Đôi khi thức giấc lúc nửa khuya, em cứ tưởng tượng rằng em bị chôn vùi dưới mưa.”
“Ban đêm em phải qua phòng anh,” tôi nói. “Rồi em sẽ không còn những ý nghĩ như thế. Ngược lại, thật dễ chịu khi ta có người bên cạnh và trời tối và mưa gió bên ngoài.”
“Chắc thế,” nàng trả lời, và dựa vào tôi.
“Anh lại thích mưa vào Chúa Nhật,” tôi nói. “Như thế ta sẽ thấy ta may mắn biết bao. Chúng ta ở cạnh nhau, trong một căn phòng ấm cúng và có một ngày rỗi rảnh –theo anh như vậy là quá nhiều.”
Nàng tươi nét mặt. “Vâng, chúng ta may mắn lắm, phải không?”
“Theo anh, chúng ta may mắn tuyệt trần. Khi anh nghĩ đến ngày xưa — Chúa ơi! Anh không bao giờ nghĩ là anh sẽ có may mắn dường này.”
“Anh thật đáng yêu khi nói thế. Vậy em cũng tin như anh. Anh cần nhắc lại nhiều lần.”
“Anh không nói đủ hay sao?”
“Không.”
“Có lẽ,” tôi nói. “Anh tin là anh không đủ ngọt ngào âu yếm. Anh không biết tại sao, nhưng anh không thể. Tuy nhiên anh ước gì anh được như vậy.”
“Không cần phải thế, anh yêu. Em hiểu con người của anh. Chỉ có điều, đôi khi ta muốn được nghe hoài những câu trìu mến.”
“Từ nay trở đi anh sẽ nói, mỗi khi có dịp. Cho dù anh thấy mình kỳ cục.”
“Ach, kỳ cục.” nàng trả lời. “Trong tình yêu, không có gì kỳ cục.”
“Không ư, cảm ơn Chúa,” tôi nói. “Nếu không, chắc sẽ khủng khiếp lắm, khi nghĩ tới tình yêu sẽ biến đổi mình thành cái quái gì.”
Chúng tôi cùng ăn điểm tâm, rồi Pat lại lên giường nằm. Jaffé đã ra lệnh như vậy. “Anh ở lại đây chứ?” nàng hỏi, dấu mình trong chăn.
“Nếu em muốn,” tôi nói.
“Dĩ nhiên em muốn; nhưng anh không cần phải –“
Tôi ngồi xuống giường, bên cạnh nàng. “Anh không có ý đó. Anh chỉ muốn nói, anh nhớ có lần em bảo em không thích người khác nhìn em ngủ.”
“Có lần, vâng — nhưng bây giờ đôi khi em lại kinh sợ, khi một mình.”
“Anh cũng từng nghĩ giống như vậy. Trong bịnh viện, sau khi giải phẫu. Ban đêm trước khi ngủ, anh thường hoảng sợ. Anh cố thức khuya, đọc, và suy nghĩ về một điều gì đó, và chỉ chợp mắt khi trời sắp sáng. Nhưng thời kỳ ấy đã qua.”
Nàng áp má lên tay tôi. “Ta sợ ta sẽ không trở lại, Robby.”
“Vâng,” tôi nói, “nhưng ta sẽ trở lại, và giai đoạn ấy sẽ qua. Anh là bằng chứng. Ta luôn luôn trở lại — dù không hẳn cùng một chỗ.”
“Đúng thế,” nàng trả lời, đã hơi buồn ngủ, mắt ríu lại. “Em cũng sợ giống y vậy. Nhưng anh sẽ chăm lo cho em, phải không?”
Nàng thở sâu hơn và hơi nghiêng mình qua một bên. Chỉ một phút sau nàng đã ngủ vùi.
Tôi ngồi cạnh cửa sổ và lại nhìn mưa rơi bên ngoài. Những chùm nước mưa xám quật vào ô kính, và ngôi nhà như một hòn đảo nhỏ cô lập trong phong cảnh thê lương bát ngát. Tôi thấy bồn chồn, vì hiếm khi Pat lại xuống tinh thần và buồn nản vào buổi sáng. Nhưng rồi tôi nhớ, chỉ mới vài ngày trước đây, nàng vẫn sống động vui tươi, và có lẽ khi nàng tỉnh dậy, mọi việc sẽ đổi khác. Tôi biết nàng nghĩ nhiều về căn bệnh của nàng, và tôi cũng biết, từ Jaffé, rằng bệnh của nàng không tiến triển khả quan — nhưng tôi đã nhìn thấy quá nhiều cái chết trong đời, cho nên, bệnh hoạn với tôi vẫn là cuộc sống và hy vọng. Tôi biết người ta có thể chết vì bị thương — nhưng vì lý do đó, tôi không thể tin rằng một chứng bệnh mà ta trông vẫn lành lặn bên ngoài, lại có thể gây nguy hiểm cho tính mạng. Do đó, tôi thường nhanh chóng vượt qua những nỗi buồn sầu.
Có tiếng gõ nhẹ. Tôi đi ra và mở cửa. Hasse đứng đó. Tôi đặt ngón tay lên môi và bước ra ngoài hành lang.
“Xin lỗi cậu,” anh lắp bắp.
“Qua phòng tôi nhé,” tôi nói và mở cửa phòng mình.
Hasse dừng lại ở ngạch cửa. Mặt anh teo tóp. Trắng như vôi. “Tôi chỉ muốn nói với cậu là không cần phải đi tìm nữa,” anh nói, môi hầu như bất động.
“Được mà, mời anh vào,” tôi nói. “Fraulein Hollmann đang ngủ, tôi có thì giờ.”
Anh cầm trên tay một lá thư, trông anh như người bị trúng đạn nhưng cứ tưởng chỉ bị đánh mà thôi. “Cậu đọc đi, nếu cậu không ngại,” anh nói, và đưa cho tôi lá thư.
“Anh uống cà phê chưa?” tôi hỏi.
Anh lắc đầu. “Đọc thư đi –“
Tôi ra khỏi phòng, yêu cầu Frida pha cà phê. Rồi tôi đọc thư. Thư của Frau Hasse, chỉ vỏn vẹn vài giòng. Thư báo cho anh biết là bà ta vẫn muốn hưởng thụ một chút gì của cuộc đời, cho nên sẽ không về nữa. Có một người hiểu bà ta nhiều hơn Hasse. Đừng nên làm điều gì cả, vô ích mà thôi; bà sẽ không trở lại trong bất cứ tình huống nào. Có lẽ như thế sẽ tốt hơn cho Hasse. Anh sẽ không phải lo lắng tiền lương thiếu đủ hay không. Bà ta đã đem theo vài món tư trang — số còn lại, khi nào thuận tiện sẽ có người đến lấy.
Đó là một lá thư lời lẽ dứt khoát, lạnh nhạt như thư bàn chuyện làm ăn. Tôi gấp lá thư, trả lại Hasse. Anh nhìn tôi như thể mọi thứ đều phụ thuộc vào tôi.
“Tôi nên làm gì đây?” anh hỏi.
“Trước hết, uống cạn ly này rồi ăn một chút,” tôi nói. “Chẳng ích gì nếu anh chạy đôn chạy đáo và hành hạ bản thân. Rồi ta sẽ suy nghĩ. Anh phải cố gắng giữ bình tĩnh, sau đó anh sẽ có quyết định đúng đắn nhất.”
Anh ngoan ngoãn uống cạn ly. Tay anh run lẫy bẫy và anh không nuốt được một miếng thức ăn nào. “Tôi nên làm gì đây?”
“Chẳng làm gì,” tôi nói. “Chờ thôi.”
Anh làm một cử động.
“Vậy, anh muốn làm gì chứ?” tôi hỏi.
“Tôi không biết. Tôi không hiểu.”
Tôi không nói. Rất khó nói gì với anh. Ta chỉ có thể an ủi; những việc còn lại, anh phải tự tìm tòi. Anh không yêu người đàn bà đó nữa, rõ ràng là thế– nhưng anh đã quen sống với bà ta, và với một kế toán viên, thói quen có nhiều ý nghĩa còn hơn tình yêu.
Một lúc sau anh bắt đầu nói, rối rắm, lộn xộn, chúng tỏ anh đã xúc động biết bao. Rồi anh bắt đầu tự trách móc. Anh không đá động gì tới người vợ. Anh chỉ cố chứng minh rằng, tất cả tội lỗi là của anh.
“Hasse,” tôi nói, “tất cả những gì anh nói đều vô lý. Trong những chuyện thế này, không ai có tội, cũng như không ai vô tội. Chị ấy bỏ anh, chứ anh có bỏ chị ấy đâu. Anh không cần tự oán trách.”
“Ô, cần chứ,” anh trả lời và nhìn đôi tay. “Tôi đã chẳng chu toàn.”
“Cái gì?”
“Tôi chẳng chu toàn. Đáng trách, không chu toàn.”
Tôi ngạc nhiên nhìn cái hình hài bé nhỏ tội nghiệp, ngồi lọt thỏm trong chiếc ghế bành nhung đỏ.
“Hasse,” tôi nói, khẽ khàng, “đó có thể là một lý do, nếu anh muốn, nhưng không phải là một lý do để phiền trách. Dù sao đi nữa, anh cũng đã chu cấp đầy đủ cho đến ngày hôm nay.”
Anh lắc đầu quầy quậy. “Không, không, tôi đã làm cho nhà tôi phát điên vì nỗi sợ hãi bất tận của tôi trước viễn ảnh thất nghiệp. Và tôi chưa bao giờ chu cấp đầy đủ. Tôi đã cho cô ấy được cái gì? Không gì cả –“
Anh chìm lắng trong suy tư. Tôi đứng lên, lấy một chai cognac.
“Chúng ta uống với nhau nhé,” tôi nói. “Đâu đã mất mát chi.”
Anh ngẫng đầu.
“Đâu đã mất mát chi,” tôi lập lại. “Chỉ mất mát nếu người ta chết.”
Anh hấp tấp gật đầu và với tay đón ly rượu. Nhưng anh không uống mà đặt ly xuống bàn.
“Hôm qua, tôi được đề bạt lên chức thơ ký trưởng,” anh nói nhẹ nhàng, “Kế toán trưởng kiêm thơ ký trưởng. Xếp báo cho tôi biết từ tối hôm qua. Tôi được thăng chức vì tôi đã làm việc quá giờ suốt mấy tháng nay. Họ sát nhập hai văn phòng. Người thư ký trưởng kia đã bị thôi việc. Tôi được lãnh thêm năm mươi marks.” Anh nhìn tôi, tuyệt vọng. “Cậu có nghĩ là nhà tôi sẽ ở lại nếu biết tin này?”
“Không,” tôi nói.
“Thêm năm mươi marks. Tôi có thể đưa số tiền ấy cho nhà tôi. Cô ấy có thể sắm sửa gì đó cho riêng mình. Tôi cũng có một ngàn hai trăm marks trong trương mục tiết kiệm. Dành dụm để làm gì đây? Tôi muốn để dành cho cô ấy, nhỡ khi có chuyện không may xảy ra với chúng tôi. Vậy mà bây giờ cô ấy lại bỏ đi, chỉ vì tôi quá tằn tiện.”
Anh lại đăm đăm nhìn về trước. “Hasse,” tôi nói, “tôi tin là chuyện ấy không ảnh hưởng như anh tưởng. Anh đừng nghĩ ngợi nhiều, chỉ thế thôi. Vài hôm nữa, anh sẽ bớt buồn. Khi ấy anh sẽ biết anh cần phải làm gì. Không chừng chị ấy sẽ trở về, tối nay hay sáng mai. Hẳn chị ấy cũng đang suy nghĩ nhiều như anh.”
“Nhà tôi sẽ không bao giờ trở lại,” anh trả lời.
“Làm sao anh biết.”
“Giá như tôi có thể nói với cô ấy rằng tôi được lên lương và chúng tôi sẽ nghĩ hè và du lịch với tiền tiết kiệm –“
“Anh có thể nói với chị ấy được chứ. Làm sao chị ấy lại có thể đành đoạn không gặp anh một lần nữa.”
Tôi ngạc nhiên vì dường như anh không nhận biết vai trò của người đàn ông kia trong tấn tuồng. Rõ ràng anh chưa đạt đến mức độ ấy, anh chỉ biết vợ anh bỏ đi — những chuyện khác còn ẩn nấp sau một lớp sương mù. Tôi muốn nói với anh, trong một hai tuần nữa, không chừng anh lại vui hơn vì không còn vợ — nhưng nếu bây giờ nói ra, khi anh đang đau đớn, tôi nghĩ, là tàn nhẫn một cách không cần thiết. Sự thật lúc nào cũng nghiệt ngã, làm sao vết thương lòng nào chịu được.
Tôi trò chuyện với anh một lúc — chỉ một mình anh nói. Tôi không thể làm gì — anh cứ quanh đi trở lại trong một vòng cùng quẫn, nhưng tôi có cảm giác anh đã bình tĩnh hơn một ít. Và anh uống một ly cognac. Rồi tôi nghe tiếng Pat gọi, từ phòng bên.
“Đến ngay,” tôi nói và đứng dậy.
“Vâng,” anh lập lại như một đứa bé ngoan và cũng đứng lên.
“Anh cứ ngồi đây, chừng một phút tôi sẽ trở lại.”
“Tha thứ cho tôi –“
“Tôi sẽ trở lại tức thì,” tôi nói và đi qua phòng Pat.
Nàng ngồi thẳng trên giường, tươi tỉnh và khỏe mạnh. “Em ngủ ngon quá, Robby. Đã trưa rồi sao anh?”
“Em ngủ đúng một tiếng đồng hồ,” tôi nói và chìa đồng hồ tay cho nàng xem.
“Càng hay; chúng ta vẫn còn nhiều thì giờ với nhau. Em sẽ sửa soạn ngay.”
“Tốt lắm. Mười phút nữa anh trở lại.”
“Anh đang có khách?”
“Hasse,” tôi nói. “Nhưng sắp xong.”
Tôi trở lại, nhưng Hasse không còn ở đó. Tôi mở cửa phòng nhìn ra, hành lang cũng trống không. Tôi đến gõ cửa phòng anh. Anh không trả lời. Tôi mở cửa, và thấy anh đứng bên cạnh tủ quần áo. Vài ngăn kéo còn mở dở dang.
“Hasse,” tôi nói, “uống một liều thuốc ngủ và lên giường nghĩ ngơi một chút. Anh đang xúc động mạnh.”
Anh từ từ quay lại. “Luôn luôn cô độc mỗi đêm! Ngồi chờ mãi như tối hôm qua; cậu nghĩ xem.”
Tôi nói rằng chuyện ấy sẽ sớm thay đổi, rằng có rất nhiều người cô độc về đêm. Anh trơ trơ, không trả lời. Tôi nhắc lại, anh nên đi ngủ, có thể câu chuyện sẽ chuyển biến tốt đẹp và vợ anh sẽ về trước khi trời tối. Anh gật đầu và chìa tay ra cho tôi bắt.
“Tôi sẽ ghé anh tối nay,” tôi nói và bỏ đi. Tôi vui vì tôi thoát khỏi.
Một tờ báo mở ra trước mặt Pat. “Sáng nay, chúng ta có thể ghé viện bảo tàng, Robby,” nàng đề nghị.
“Viện bảo tàng?” tôi hỏi.
“Vâng, đang triển lãm thảm Ba Tư. Có lẽ anh không thường ghé qua viện bảo tàng?”
“Không đời nào,” tôi đáp. “Anh đến đó làm gì cơ chứ?”
“Đúng,” nàng cười to.
“Nhưng, không thành vấn đề.” tôi đứng lên. “Ngày mưa, ta có thể làm một chuyện có lợi cho kiến thức của ta.”
Chúng tôi mặc áo và ra khỏi nhà. Trời thật dễ chịu. Hương của rừng và của sự ẩm ướt phảng phất trong không khí. Khi ngang quán The International, cửa mở, tôi thấy Rosa ngồi ngay quầy rượu. Vì là Chúa Nhật, trước mặt chị có tách sô cô la. Trên bàn đặt một gói nhỏ. Rõ ràng như thông lệ, chị sắp sửa đi thăm con. Đã lâu lắm tôi không ghé quán và tôi thấy lạ lùng sao, Rosa vẫn ngồi đó, điềm nhiên như tự thuở nào. Có quá nhiều thay đổi xảy đến với tôi, nên tôi tưởng ai cũng phải đổi khác như tôi.
Chúng tôi đến nơi. Tôi ngỡ chỉ có chúng tôi mà thôi, thế nhưng ngạc nhiên làm sao, lại rất đông người. Tôi hỏi ông gác cổng, có chuyện gì lạ hay không.
“Chẳng có gì,” ông trả lời. “Những ngày vào cửa tự do, lúc nào cũng đông khách.”
“Anh thấy không,” Pat nói. “Nhiều người vẫn ưa thích những thứ ấy.”
Ông gác cửa chỉnh lại cái mũ đội hơi lệch. “Không hẳn thế, cô ạ. Hầu hết họ bị thất nghiệp. Họ đến đây không phải vì nghệ thuật, mà vì không biết làm gì khác. Ít ra ở đây họ cũng có thể nhìn ngắm một món gì.”
“Anh chịu cách giải thích này hơn,” tôi nói.
“Chưa đâu,” ông gác cửa nói. “Đến mùa đông, cô cậu ghé xem. Phòng nào cũng đầy nghẹt người. Vì có sưởi.”
Chúng tôi vào phòng treo thảm. Đó là một phòng yên tĩnh, ở xa lối đi tấp nập. Qua những cửa sổ cao, ta có thể nhìn ra vườn, nơi có một cây ngô đồng tàn lá mênh mang. Cây vàng ươm, khiến ánh sáng trong phòng cũng nhuốm một màu vàng hiu hắt.
Những tấm thảm đẹp tuyệt. Có hai tấm từ thế kỷ mười sáu, dệt hình các con thú, một vài tấm dệt kiểu Ispahans, một số tấm bằng lụa Ba Lan, trông như sơn mài với viền xanh lục ngọc. Thời gian và mặt trời đã phủ lên chúng một nước sơn êm đềm, tương tự màu phấn tiên tuyệt vời trong cổ tích. Chúng đem đến cho căn phòng một vẻ cổ điển và hài hòa mà những bức tranh không thể. Cửa sổ với vòm lá ngô đồng mùa thu và bầu trời ngọc trai xám đàng sau, chan hòa như chính chúng cũng là những tấm thảm cổ.
Chúng tôi lưu lại nơi ấy một lúc rồi đi qua phòng khác. Trong thời gian ấy, lại có thêm nhiều khách, và rõ ràng là họ không thích hợp với nơi này. Gương mặt xanh xao, y phục sờn cũ, họ lang thang khắp nơi, tay chắp sau lưng, khá rụt rè, tầm mắt xa xôi như tìm kiếm một thứ gì khác hơn những bức tranh thời Phục Hưng và những bức tượng cẩm thạch cổ. Nhiều người ngồi lên các chiếc ghế đỏ rải rác khắp nơi. Họ có dáng điệu uể oãi, và sẵn sàng đứng dậy đi chỗ khác nếu có ai tiến tới ra lệnh. Ta có thể thấy trên mặt họ, cách suy nghĩ, thật không ngờ không cần trả xu nào mà vẫn được ngồi vào những chiếc ghế êm. Họ đã quen với ý niệm không có gì cho không.
Tất cả các phòng đều im lặng và dù đông người, hầu như không ai nói một câu nào; thế nhưng với tôi, dường như tôi đang chứng kiến một trận thư hùng — cuộc tranh đấu thầm lặng của những người đã gục ngã nhưng vẫn không chịu đầu hàng. Họ bị rứt bỏ khỏi các lãnh vực của công việc, của nỗ lực và lý tưởng; giờ đây họ đến với những căn phòng lặng lẽ của Nghệ thuật để trốn tránh sự bại liệt và tuyệt vọng. Họ nghĩ đến bánh mì, lúc nào cũng vậy, luôn luôn nghĩ đến bánh mì và việc làm; họ tới đây để chạy trốn, trong vài tiếng đồng hồ, những nỗi niềm u ẩn — và họ, những người đàn ông không còn mục đích, lưng còng, lếch thếch lê gót giữa những bức tượng bán thân La Mã sắc sảo và vẻ quyến rũ không nhạt phai của các nữ thần Hy Lạp trắng muột — một tương phản choáng váng, một bức tranh u ám của nhân loại, trong một ngàn năm nay, đã có thể và không có thể đạt được — đỉnh cao của những tác phẩm nghệ thuật giá trị muôn đời, nhưng không đủ bánh mì cho từng người anh em.
Buổi chiều, chúng tôi xem phim. Khi ra về, trời đã trong. Da trời xanh nõn màu trái táo. Phố xá và các cửa hiệu đều lên đèn. Chúng tôi đi bộ rất chậm, vừa đi vừa ngắm hàng hóa chưng bày trong cửa kính.
Tôi ngừng trước ô kính sáng choang của một tiệm áo lông. Chiều đã lạnh và có nhiều áo lông cáo bạc và áo choàng mùa đông bày trong tủ. Tôi nhìn Pat; nàng vẫn mặc cái áo khoác lông ngắn và nói chung, phục sức quá mong manh.
“Nếu anh là nhân vật chánh trong phim,” tôi nói, “anh sẽ vào tiệm, chọn cho em một cái áo choàng.”
Nàng mỉm cười. “Vậy anh chọn áo nào?”
“Cái kia.” Tôi chỉ vào cái áo có vẻ ấm nhất.
Nàng cười. “Anh thật có óc thẩm mỹ, Robby. Đó là một cái áo mink, lông chồn Canada, tuyệt đẹp.”
“Em thích nó chứ?”
Nàng nhìn tôi. “Anh biết một cái áo khoác như thế giá bao nhiêu không, anh yêu?”
“Không,” tôi nói, “và anh không cần biết. Anh nghĩ chẳng mấy lúc, anh sẽ có thể tặng em bất kỳ món nào anh thích. Tại sao chỉ có người khác mới làm được?”
Nàng nhìn tôi, thật gần. “Nhưng em không thích cái nào cả, Robby.”
“Ô, em thích mà,” tôi trả lời, “em sẽ có một cái. Đừng nói về chuyện ấy nữa. Ngày mai cửa hàng sẽ gởi đến chúng ta.”
Nàng mỉm cười. “Cám ơn, anh yêu,” và hôn tôi ngay giữa đường. “Và bây giờ tới phiên anh.” Nàng dừng lại trước một tiệm trang phục đàn ông. “Những cái áo đuôi tôm kia! Anh cần chúng để tương xứng với áo khoác lông chồn của em. Và anh cần cái nón ống nữa. Không hiểu khi đội nó, anh sẽ trông ra sao nhỉ?”
“Giống thằng cha nạo ống khói.” Tôi ngắm những chiếc áo đuôi tôm. Chúng bày trong một cửa kính lót nhung xám. Tôi nhìn cửa hiệu một lần nữa. Đó chính là cửa hàng mà mùa xuân qua, tôi đã mua một cái cà vạt, sau khi hẹn hò với nàng và say khướt. Bỗng nhiên, không hiểu lý do, tôi cảm thấy nghẹn ngào. Mùa xuân ấy — tôi nào đã dám mơ mộng gì.
Tôi cầm bàn tay mảnh dẻ của Pat, và trong một thoáng, ấp nó lên má tôi. “Em cũng cần một món gì cho xứng hợp với nó,” tôi nói; “chỉ áo lông chồn không thôi, sẽ giống như xe hơi thiếu máy. Hai hoặc ba cái áo dạ hội –“
“Áo dạ hội,” nàng nhắc lại, đứng trước một cửa kính lớn, “áo dạ hội, phải đấy – -em không thể ăn mặc hoàn hảo nếu thiếu chúng.”
Chúng tôi chọn ba cái áo tuyệt vời. Tôi thấy Pat thích thú với trò chơi này đến mực nào. Nàng tham dự hết mình, vì áo dạ hội là thứ nàng say mê hơn cả. Cùng một lúc, chúng tôi cũng chọn những phụ trang kèm theo, và nàng lại càng sinh động hơn. Mắt nàng long lanh. Tôi đứng bên cạnh, lắng nghe và cười phụ họa và nghĩ rằng, khốn khổ làm sao, khi ta yêu một người đàn bà mà ta lại nghèo xác nghèo xơ.
“Theo anh,” cuối cùng tôi nói, trong niềm vui bồng bột đến tuyệt vọng, “nếu làm một việc gì, ta cần phải làm hết mình, em ạ.” Tôi dẫn nàng đến trước một hiệu kim hoàn. “Kia kìa, một sợi dây đeo tay bằng lục ngọc. Thêm cặp nhẫn, và đôi hoa tai nữa cho đủ bộ. Đừng cãi anh. Lục ngọc là thứ đá quý thích hợp với em.”
“Vậy thì, anh cần có cái đồng hồ bạch kim và cái khuy ngọc trai cài áo sơ mi kia.”
“Và cho em, nguyên một cửa hàng. Nếu ít hơn, anh không bằng lòng đâu.”
Nàng cười to và với một tiếng thở dài não ruột, dựa vào tôi. “Đủ rồi, anh yêu, đủ rồi. Bây giờ chúng ta chỉ cần mua vài ba cái rương và ghé một văn phòng du lịch, và chúng ta sẽ gói ghém hành lý và lên đường, xa thành phố này và mùa thu và những cơn mưa.”
Vâng, tôi nghĩ; Chúa ơi, vâng, và rồi em sẽ khỏi bệnh. “Chúng ta đi đâu?” tôi hỏi. “Ai Cập? hay xa hơn nữa? Ấn Độ, hay Trung Hoa?”
“Về hướng mặt trời, anh yêu, đi bất cứ nơi nào, có mặt trời và miền Nam và thời tiết ấm áp. Đường phố với hàng cọ, đá, những ngôi nhà sơn trắng cạnh biển và cây lô hội… Nhưng có lẽ ở đó trời cũng mưa. Có lẽ nơi nào trời cũng mưa.”
“Trong trường hợp ấy, chúng ta tiếp tục đi,” tôi nói, “cho đến khi gặp một nơi không có mưa — trong vùng nhiệt đới hay quần đảo Thái Bình Dương.”
Chúng tôi dừng lại trước cửa kính của Công ty Du lịch Đường Biển Hamburg-Amerika. Giữa cửa sổ là hình mẫu một con tàu. Nó nhấp nhô trên những đợt sóng giấy bồi xanh thẳm và ngay sau nó là bức ảnh phóng to những ngôi nhà chọc trời của Manhattan. Quanh cửa sổ, treo nhiều bản đồ lớn, màu sắc diêm dúa, với những lộ trình tô đỏ.
“Chúng ta cũng sẽ đi Mỹ,” Pat nói. “Đi Kentucky và Texas và New York và San Francisco và Hawaii. Và từ đó đi về Nam Mỹ. Bằng đường Mễ Tây Cơ và kênh đào Panama, tới Buenos Aires. Và từ đó trở về, qua Rio de Janeiro.”
“Vâng –“
Nàng nhìn tôi, rạng ngời.
“Anh chưa bao giờ tới đó,” tôi nói. “Anh giả vờ như anh đã đến những nơi ấy.”
“Em biết,” nàng trả lời.
“Em biết?”
“Dĩ nhiên là em biết, Robby. Em biết ngay lúc ấy.”
“Lúc ấy anh hơi điên. Không tự tin và ngu muội và điên rồ. Đó là lý do tại sao anh lại khoác lác.”
“Còn bây giờ?”
“Bây giờ, còn tệ hơn,” tôi nói. “Em nhìn kìa,” tôi chỉ con tàu trong cửa kính. “Thật đau lòng khi ta không thể viễn du trên con tàu ấy.”
Nàng mỉm cười và quàng tay lên cổ tôi. “Ach, anh yêu, tại sao chúng ta lại không giàu có? Chúng ta có những ý tưởng thật kỳ thú để sử dụng đồng tiền. Nhiều người dư tiền lắm của, nhưng họ chẳng biết làm gì khác hơn là đi đi về về, từ văn phòng đến ngân hàng.”
“Dĩ nhiên, chính vì thế mà họ giàu,” tôi nói. “Nếu hai đứa mình có tiền, cũng chẳng kéo dài được lâu.”
“Em cũng nghĩ vậy. Thể nào chúng ta cũng tiêu béng hết, bằng cách này hay cách khác.”
“Tội nghiệp mấy người giàu,” Pat nói. “Có lẽ chúng ta sung sướng hơn họ, hãy giả vờ như chúng ta có rất nhiều tiền nhưng đã mất sạch. Anh vừa phá sản tuần rồi và phải bán hết — nhà của chúng ta, nữ trang của em và xe của anh. Anh thấy sao?”
“Hợp với thời điểm này lắm, ít ra là thế,” tôi đáp.
Nàng cười to. “Vậy thì tiếp tục. Chúng ta, hai đứa tán gia bại sản đáng thương, đi về phòng trọ rẻ tiền của chúng ta và ôn lại những câu chuyện của thời vàng son.”
“Ý kiến hay.”
Chúng tôi thong thả đi trên những con đường càng lúc càng tối. Thêm nhiều ngọn đèn được thắp. Gần đến nghĩa trang, chúng tôi trông thấy một chiếc phi cơ, cửa sổ sáng, di chuyển ngang trời. Nó bay, đơn độc và xinh đẹp trên thiên đàng cô đơn, trong sáng, cao vút — như một loài chim tuyệt diệu đến từ ước muốn trong chuyện thần tiên. Chúng tôi đứng lại, và trông theo cho đến khi nó biệt tăm.
Chúng tôi về đến nhà chưa đầy nửa giờ đã có tiếng gõ cửa phòng. Tôi nghĩ chắc lại là Hasse và tôi ra mở cửa. Nhưng đó là Frau Zalewski. Trông bà bấn loạn.
“Cháu ra đây, nhanh lên,” bà thì thào.
“Có chuyện gì vậy bác?”
“Hasse.”
Tôi nhìn bà.
Bà nhún vai. “Ông ấy khóa cửa và không trả lời.”
“Chờ cháu một chút.”
Tôi trở vào và bảo Pat hãy nghĩ ngơi một chốc; trong khi ấy, tôi có việc cần bàn thảo với Hasse.
“Được, Robby. Em cũng thấy hơi mệt.”
Tôi theo sau Frau Zalewski trên hành lang. Trước phòng Hasse, toàn thể khách trọ đã đứng đó — Erna Bonig tóc đỏ hoe trong chiếc kimono thêu rồng sặc sỡ; ông kế toán thích sưu tập tem trong cái áo choàng mặc ở nhà kiểu nhà binh viền dây biểu chương; Orlov, xanh xao và bình tĩnh, vừa từ một buổi khiêu vũ trở về; Georgie, rụt rè gõ cửa và khe khẻ gọi tên Hasse; cuối cùng là Frida, mắt nheo lại vì kích động, sợ hãi và tò mò.
“Cậu gọi cửa đã bao lâu rồi, Georgie?” tôi hỏi.
“Hơn mười lăm phút,” Frida mặt đỏ lừ, đột ngột xen vào, “và ông ấy đang ở trong phòng, từ trưa hôm qua đến giờ, ông ấy chưa bước ra ngoài một lần, chỉ lòng vòng đi tới đi lui rồi im thin thít.”
“Chìa khóa còn gắn trong ổ, mặt trong,” Georgie nói. “Khóa trái.”
Tôi nhìn Frau Zalewski. “Chúng ta phải nậy cho cái chìa ấy rớt ra. Bác có chìa khóa phụ không?”
“Tôi sẽ đem nguyên chùm lại,” Frida nói, lúc nào cũng sẳn sàng giúp đỡ. “Không chừng sẽ có một chìa mở được.”
Tôi lấy một cọng kẽm và dùng nó ngoáy cho chìa khóa nằm ngay ngắn trong ổ, rồi đẩy nó rơi xuống. Nó rớt xuống sàn nhà bên kia cánh cửa, đánh cạch một tiếng. Frida rú lên và lấy tay che mặt.
“Chị tránh ra, càng xa càng tốt,” tôi nói với bà ta, và tra thử từng chìa một. Có một chìa vừa khít. Tôi xoay một vòng và đẩy cửa.
Căn phòng nửa sáng nửa tối và với cái nhìn ban đầu, ta không thấy gì. Hai cái giường trắng xám lờ mờ, vài cái ghế trống trơn và cửa tủ khép kín.
“Ông ấy kìa!” Frida, lại xấn tới, rít qua vai tôi. Hơi thở nặng mùi hành phà nóng hổi lên má tôi. “Đàng sau đó, ở cửa sổ.”
“Không,” Orlow nói, ông vừa phóng tới mấy bước, đã quay trở lại. Ông va vào mình tôi, với lấy tay đấm và khép cửa lại. Rồi ông quay qua những người khác. “Các ông bà giải tán đi. Có lẽ tốt nhất là không nên xem.”
Ông nói rất chậm bắng thứ tiếng Đức đặt sệt âm sắc Nga, và đứng ở chỗ đối diện cửa phòng.
“Chúa ôi!” Frau Zalewski lập bập kêu lên, và lui lại. Erna Bornig cũng lùi lại vài bước. Chỉ có Frida cố xô tới và nắm tay đấm cửa. Orlow đẩy bà ta ra. “Tốt nhất đừng nhìn,” ông nhắc lại.
“Này ông!” người kế toán bỗng khịt mủi, bước tới. “Thật quá đáng! Một người ngoại quốc.”
Orlow nhìn ông ta, không lay chuyển. “Người ngoại quốc? ” ông nói. “Không ăn nhập gì tới chuyện này. Không gây ra –“
“Chết rồi, hả?” Frida rống lên.
“Frau Zalewski,” tôi nói. “Tôi cũng đồng ý rằng tốt nhất, chỉ có bà, và có lẽ Orlow và tôi là nên ở lại.”
“Goi bác sĩ ngay,” Orlow nói.
Georgie đã nhắc ống nói. Toàn bộ sự việc chỉ kéo dài trong năm giây. “Tôi cứ ở lại,” ông kế toán, mặt đỏ tím như củ dền nói to. “Với tư cách một công dân Đức, tôi có quyền –“
Orlow nhún vai và mở cửa. Rồi ông bật đèn. Hai người đàn bà thét lên, và lùi lại. Với gương mặt bầm tím, cái lưỡi đen thè giữa hai hàm răng, Hasse treo tòng teng ở cửa sổ.
“Cắt dây hạ ông ấy xuống,” tôi gào lên.
“Vô ích,” Orlow nói, từ tốn, cay nghiệt và đau đớn. “Tôi biết rõ — gương mặt ấy — đã chết, mấy tiếng rồi –“
“Nhưng ít ra chúng ta cũng phải cố –“
“Không nên. Để cảnh sát tới đã.”
Vào lúc ấy chuông cửa reo lên. Vị bác sĩ nhà bên cạnh đã tới. Ông nhìn qua cái cơ thể gầy gò, suy nhược. “Không còn cứu vãn,” ông nói. “Tuy thế, chúng ta cũng phải làm hô hấp nhân tạo. Gọi điện cho cảnh sát liền, và cho tôi con dao.”
Hasse đã treo cổ với một sợi thắt lưng to dầy bằng lụa hồng. Thắt lưng của cái áo choàng trong nhà của vợ anh, và anh đã cột rất khéo vào cái móc trên cửa sổ. Xà phòng được xát vào. Hẳn anh đã đứng trên bệ cửa rồi buông mình xuống. Hai bàn tay nắm chặt và gương mặt anh trông thật kinh khiếp. Trong giây phút ấy, kỳ lạ làm sao, nhưng tôi lại nhận thấy rằng anh đã thay một bộ y phục mới, khác với bộ sáng nay. Đó là bộ đồ lớn lịch sự nhất của anh, bằng len xe màu xanh đậm mà tôi đã quen mắt. Anh cũng cạo râu gọn gàng, và mặc áo lót sạch. Trên bàn, xếp theo thứ tự rất mẫu mực, là thẻ căn cước, sổ chi phiểu, bốn tờ giấy mười marks và mấy đồng kim loại bạc. Hai lá thư nằm song song — một dành cho vợ anh và một, cho cảnh sát. Kế đó, là cái hộp đựng thuốc lá bằng bạc và chiếc nhẫn cưới.
Hẳn anh đã cân nhắc kỹ và xếp đặt mọi thứ thật quy cũ; căn phòng ngăn nắp đến độ hoàn hảo, và sau khi xem xét cẩn thận, chúng tôi tìm thấy ở bồn rửa mặt một ít tiền và một mảnh giấy trên đó có ghi hàng chữ: “Tiền thuê nhà còn lại của tháng này.” Anh đã làm thêm một việc, như muốn chứng minh rằng tiền thuê nhà chẳng liên can chi đến cái chết của mình.
Chuông cửa reo và hai viên cảnh sát mặc thường phục đi vào. Bác sĩ, trong lúc ấy đã cắt dây hạ thi thể xuống, đứng lên. “Chết,” ông nói; “không còn nghi ngờ gì nữa, tự sát.”
Người cảnh sát không trả lời. Sau khi đóng cửa phòng, họ khám xét khắp nơi. Họ lấy mấy bức thư trong ngăn kéo và so sánh nét chữ với hai lá thư trên bàn. Người cảnh sát trẻ gật gù. “Có ai biết lý do không?”
Tôi kể lại những gì tôi biết. Ông ta gật đầu và ghi địa chỉ của tôi.
“Chúng ta có thể mang ông ấy đi được chưa?” bác sĩ hỏi.
“Tôi đã gọi xe cứu thương từ bệnh xá,” người cảnh sát trẻ nói. “Xe sẽ tới trong vài phút nữa.”
Chúng tôi chờ. Cả phòng im lặng. Bác sĩ quỳ gối trên sàn, cạnh Hasse. Ông đã cởi hết áo của anh và tuần tự dùng khăn bông chà sát lên ngực, và cố gắng hồi sinh. Chỉ còn nghe tiếng rít như tiếng huýt sáo và tiếng òng ọc của không khí thổi vào và hút ra từ hai lá phổi chết.
“Cái chết thứ mười hai trong tuần,” người cảnh sát trẻ nói.
“Cùng một nguyên nhân?” tôi hỏi.
“Không. Hầu hết là do nạn thất nghiệp. Có hai gia đình, một gia đình với ba đứa con. Hơi đốt, dĩ nhiên. Chết tập thể luôn luôn bằng hơi đốt.”
Các y công khiêng cáng vào. Frida thừa dịp lẻn theo. Như thể thèm thuồng, bà ta nhìn chòng chọc vào thi thể đáng thương của Hasse. Bà ta có những đếm đỏ trên má, và rịn mồ hôi. “Nhà chị muốn gì?” viên cảnh sát lớn tuổi cộc cằn hỏi.
Bà giật nẩy mình. “Tôi cần phải đưa lời khai,” bà lắp bắp.
“Đi ra,” người sĩ quan khịt mủi.
Các y công phủ một tấm chăn lên mình Hasse và mang anh đi. Rồi hai người cảnh sát cũng bỏ đi. Họ đem theo tất cả giấy tờ. “Ông ấy có để lại tiền làm đám tang,” người cảnh sát trẻ nói. “Chúng tôi sẽ chuyển tiền qua bộ phận quản lý. Nếu vợ ông ấy về đây, xin vui lòng bảo bà ấy đến ty cảnh sát. Ông ấy có để tiền lại cho bà ta. Trong lúc này, có thể nào giữ y các thứ đồ đạc còn lại không?”
Frau Zalewski gật đầu. “Sẽ không bao giờ cho thuê phòng ấy nữa.”
“Rất tốt.”
Hai viên cảnh sát chào từ giã rồi đi. Chúng tôi cũng đi theo. Orlov khóa cửa, đưa chìa khóa cho Frau Zalewski. “Ta cũng cần giữ chuyện này càng kín càng tốt,” tôi nói.
“Bác cũng nghĩ thế,” Frau Zalewski nói.
“Đặc biệt là chị, Frida,” tôi nói thêm.
Frida như vừa tỉnh dậy sau cơn lơ đãng. Mắt sáng loang loáng. Bà ta không trả lời.
“Nếu chị tiết lộ dù chỉ một tiếng với Fraulein Hollmann,” tôi nói, “xin Chúa cứu chị.”
“Thế đàng ấy tưởng tôi không biết gì?” bà ta phun phì phì. “Cô bé đáng thương ốm nặng quá.”
Mắt bà ta nháng lửa. Tôi cố dằn lòng để không vả bộp vào mặt bà ta.
“Tội nghiệp Hasse,” Frau Zalewski nói.
Hàng lang tối om.
“Ông đã ăn nói khá lỗ mãng với Bá tước Orlow,” tôi nói với người kế toán. “Ông có muốn xin lỗi chăng?”
Ông già lườm lườm nhìn tôi. Đoạn ông ta đùng đùng nói, “Người Đức không bao giờ xin lỗi ai. Nhất là với tụi Á Châu,” rồi bỏ vào phòng, đóng sầm cửa.
“Chuyện gì đã xảy ra với ông già sưu tập tem của chúng ta vậy?” tôi lạ lùng hỏi. “Tại sao thế, trước đây ông ấy hiền như cừu non!”
“Mấy tháng nay, ông ấy thường tham dự các buổi họp chính trị,” George từ trong bóng tối, trả lời.
“Ach, thì ra thế!”
Orlow và Erna Bonig đã bỏ đi. Frau Zalewski thút thít khóc.
“Bác đừng quá đau lòng,” tôi nói. “Không thể nào cứu vãn.”
“Thật kinh khủng,” bà nức nở. “Bác phải dọn nhà. Bác sẽ không bao giờ quên được cảnh tượng ấy.”
“Không sao đâu, rồi bác sẽ chịu được,” tôi nói. “Cháu đã trông thấy một lúc hằng trăm người chết thảm thiết như thế. Lính Anh bị giết bằng hơi ngạt. Rồi cháu cũng quen.”
Tôi bắt tay Georg và trở về phòng. Phòng tối đen. Một cách vô thức, tôi liếc mắt nhìn ra cửa sổ trước khi bật đèn. Rồi tôi nghe ngóng phòng Pat. Nàng vẫn ngủ. Tôi đến tủ, lấy chai cognac và rót cho mình một ly. Rượu ngon, và có được rượu để uống là tốt. Tôi đặt chai rượu lên bàn. Lần cuối cùng, chai rượu này đã rót mời Hasse. Tôi ôn lại chuyện cũ, và nghĩ rằng nếu tôi đừng để anh một mình, có lẽ sự tình đã tốt đẹp hơn. Tôi cảm thấy buồn chán, nhưng tôi không thể trách móc mình. Tôi đã làm nhiều chuyện mà tôi biết rằng, một là tất cả những gì ta làm đều là lý do để bị khiển trách, hai là chẳng cần lý do nào cả. Hasse đã gặp vận xui vì chuyện ấy xảy ra với anh trong ngày Chúa Nhật. Nếu là ngày thường, có lẽ anh phải đến văn phòng làm việc và có lẽ sẽ vượt qua.
Tôi uống một ly nữa. Không ích lợi gì nghĩ ngợi mãi đến chuyện ấy. Ai biết được sẽ không có gì xảy ra cho bản thân hắn? Không ai biết, nhưng người mà hắn đang thương hại, biết đâu chẳng có một ngày sẽ được xem là may mắn.
Tôi nghe Pat cựa mình, và đi qua phòng nàng. Nàng ngước mắt nhìn tôi. “Em thật hết thuốc chữa, Robby,” nàng nói. “Em lại ngủ mê man.”
“Như vậy càng tốt chứ sao,” tôi trả lời.
“Không.” Nàng chống tay chỗi dậy. “Em không muốn ngủ nhiều đến thế.”
“Sao lại không? Có những lúc anh muốn được ngủ suốt năm mươi năm.”
“Nhưng anh không muốn già thêm năm mươi tuổi khi tỉnh dậy, phải không?”
“Anh không biết. Chùng nào xảy ra rồi mới biết.”
“Anh đang buồn phải không?” nàng hỏi.
“Không,” tôi nói. “Ngược lại là đàng khác. Anh vừa quyết định, mình sẽ thay y phục, ra phố và thưởng thức một bửa ăn ngon. Tất cả những món mà em thích nhất. Và chúng ta sẽ uống thật say.”
“Được lắm,” nàng nói. “Nhưng chuyện ấy có nằm trong kế hoạch phá sản của chúng ta không, hở anh?”
“Có,” tôi nói, “hậu quả trực tiếp.”