Lời Tiên Tri Núi Andes
5. THÔNG ĐIỆP CỦA NHỮNG NHÀ THẦN BÍ
Sáng hôm sau, tôi thức dậy ngay khi Wil bắt đầu có vài cử động. Chúng tôi đã qua đêm trong một ngôi nhà của một người bạn của Wil. Wil ngồi trên nệm, mặc quần áo một cách mau lẹ. Bên ngoài, trời còn tối.
“Thu dọn hành lý thôi”, Wil nói nhỏ.
Sau khi thu xếp hành lý, chúng tôi vội vã đến nơi đỗ chiếc Jeep. Tuy chỉ cách trung tâm thị trấn vài trăm mét, nhưng những ánh đèn ở đây quả là hiếm hoi. Bình minh bắt đầu ló dạng một cách mơ hồ ở phương Đông. Ngoại trừ vài tiếng chim báo sáng, không còn một âm thanh nào khác.
Khi đến nơi đỗ chiếc Jeep, tôi vào xe trong khi Wil trao đổi ngắn ngủi với người bạn của ông đang đứng dưới cổng vòm, vẻ ngái ngủ. Thế rồi, đột nhiên, có một loạt âm thanh. Ba xe tải đang tiến vào trung tâm thị trấn Wil nói: “Có thể là Jansen. Chúng ta hãy đi bộ đến đó xem bọn y làm gì. Nhưng hãy cẩn trọng”.
Chúng tôi ngang qua nhiều con phố, rồi đến một hẻm dẫn vào ngả đường chính, cách các xe tải gần ba mươi mét. Hai trong ba xe đó đang đổ xăng, chiếc thứ ba đỗ trước cửa hàng. Có bốn hoặc năm người đang đứng bên ngoài. Tôi thấy Marjorie ra khỏi cửa hàng và để một thứ gì đó vào xe tải. Rồi nàng bình thản đi ngang qua phía trước chúng tôi, liếc mắt vào những cửa hiệu kế bên.
Wil nói nho nhỏ:
– Nào, hãy đến và tìm cách đưa cô ấy về đây. Tôi chờ anh ở đây.
Tôi men theo dãy nhà, và khi tiến đến gần Maijorie, tôi kinh hoàng: phía sau nàng, đứng trước cửa hàng, là nhiều thuộc hạ của Jensen, cầm tiểu liên trên tay. Tôi càng lo lắng hơn. Trên đường, phía trước mặt tôi, là những quân nhân vũ trang đang trườn mình từ từ tiến về nhóm thuộc hạ của Jensen.
Ngay khi Marjorie trông thấy tôi, nhóm người của Jensen cũng trông thấy các binh sĩ, và bọn chúng nhanh chóng phân tán. Một tràng tiểu liên vang lên. Marjorie nhìn tôi kinh hãi. Tôi lao đến, nắm lấy Marjorie dắt nàng chạy vào một con hẻm gần nhất. Những tiếng súng lại nổ giòn, tiếp đến là những tiếng la hét giận dữ bằng tiếng Tây Ban Nha. Ở đầu hẻm, có hai người đàn ông vũ trang đang núp quay lưng về phía chúng tôi, mắt hướng về con phố đối diện. Chúng tôi dừng lại, bất động- cuối cùng, hai gã đó chạy nhanh vào khu rừng kế cận.
Tôi biết chúng tôi phải quay về ngôi nhà của người bạn Wil, về chiếc Jeep, và tôi chắc Wil có ở đó. Chúng tôi thận trọng tiến về con phố kế bên. Ở phía bên phải vẫn còn tiếng la hét và tiếng súng, nhưng chẳng thấy bóng người. Tôi nhìn về phía trái: cũng chẳng thấy ai. Wil chắc đã đi.
Tôi nói với Marjorie:
– Chúng ta hãy chạy băng qua khu rừng, sau đó tiến theo bìa rừng để đi về phía trái, nơi để chiếc Jeep.
– Được.
Chúng tôi đã chạy thật nhanh, và sau đó đến cách ngôi nhà của người bạn Wil khoảng ba mươi mét. Chiếc Jeep vẫn còn đó, nhưng chẳng thấy ai. Khi sắp sửa chạy về phía sau ngôi nhà, chúng tôi thấy một xe quân sự đang rẽ vào con đường ở phía trái chúng tôi, và từ từ tiến về ngôi nhà. Cùng lúc đó, Wil chạy ngang qua sân, khởi động chiếc Jeep và lao đi. Chiếc xe quân sự bám theo.
Tôi thốt lên:
– Khốn kiếp thật!
Vẻ hốt hoảng, Marjorie hỏi:
– Chúng ta phải làm gì bây giờ?
Tiếng súng nổ giòn trong các con phố, và càng lúc càng gần chúng tôi hơn. Phía trước chúng tôi, rừng dày đặc trải dài lên đỉnh núi sừng sững trên thị trấn, suốt từ bắc đến nam.
Tôi nói:
– Hãy lên đỉnh núi, nhanh đi!
Sau khi vượt nhiều trăm mét, chúng tôi đến một điểm có thể quan sát toàn bộ thị trấn, ở mỗi ngã tư đều có xe quân sự đổ về từ nhiều hướng và hình như binh lính đang khám xét từng nhà. Từ điểm cao này, tôi nghe văng vẳng những tiếng nói.
Chúng tôi lại tiếp tục leo lên.
Suốt buổi sáng, chúng tôi vẫn tiến theo sườn núi phía bắc, chỉ dừng lại để áp sát đất khi có xe xuất hiện ở sườn núi song song, bên trái chúng tôi. Hầu hết đều là những quân sự màu xám bạc, nhưng thỉnh thoảng cũng có xe dân sự. Con đường đó là điếm mốc duy nhất trong không gian hoang dã vây quanh chúng tôi.
Phía trước, hai sống núi tiến lại gần nhau trong khi vươn lên thẳng đứng. Những đỉnh lởm chởm đá che chở thung lũng phía dưới. Đột nhiên, chúng tôi thấy một chiếc Jeep, tương tự như chiếc của Wil, tiến đến từ phía bắc và rẽ vào một đường mòn đi xuống thung lũng.
Tôi nói:
– Hình như xe của Wil.
Marjorie đáp:
– Chúng ta hãy xuống đó xem.
– Hãy chờ một lúc, để xem liệu có phải là một cái bẫy? Hay là bọn chúng đã lấy chiếc Jeep của Wil, và dùng nó để nhử chúng ta?
Vẻ mặt Marjorie tối lại. Tôi nói tiếp: “Cô hãy ở yên đây, để tôi xuống đó xem sao. Nhưng đừng rời mắt khỏi tôi. Nếu mọi sự đều ổn, tôi sẽ ra hiệu cho cô xuống”.
Marjorie miễn cưỡng gật đầu, và tôi xuống theo sườn con dốc thẳng đứng để đến nơi chiếc Jeep đang đỗ. Qua những lá cây, tôi mơ hồ thấy một bóng người bước ra khỏi xe. Bám vào những bụi cây, tôi tiến xuống, thỉnh thoảng trượt trên lớp rêu dày.
Cuối cùng, tôi thấy rõ chiếc xe trên sườn dốc đối diện, cách tôi khoảng ba mươi mét. Tựa trên cái chắn bùn phía sau, tài xế đang núp mình. Tôi tiến sang bên phải và thấy rõ: đó là Wil. Cảm thấy bị trượt, tôi vươn tay nắm lấv một thân cây nhỏ. Vẫn nắm thân cây, tôi tìm cách thu hút sự chú ý của Wil. Ông hướng mắt lên sổng núi phía trên tôi, rồi hạ tầm mắt và trông thấy tôi. Ông giật mình, nhổm dậy và đi về phía tôi, trong khi tôi chỉ tay về phía khe.
Wil quan sát thung lũng và nói:
– Ở đây không có lối đi. Anh phải đi xuống rồi ngược trở lên.
Tôi gật đầu và đang định gọi Marjorie khi nghe từ xa có tiếng xe quân sự. Wil nhảy vội vào chiếc Jeep và phóng nhanh về con đường chính. Tôi vội vã tiến đến phía Marjorie. Qua những cành lá, tôi thấy nàng đang đi về phía tôi.
Thế rồi, tôi nghe có những tiếng la hét – bằng tiếng Tây Ban Nha – ở phía sau Marjorie, cùng tiếng chân người đang chạyMarjorie núp mình dưới một mái đá nghiêng. Tôi đổi hướng, chạy thật nhanh về phía trái. Tôi đảo mắt tìm Maijorie qua những hàng cây. Khi nhìn thấy nàng, nàng đang bị hai người lính túm lấy cánh tay và buộc phải ở yên.
Tôi tiếp tục chạy lên phía trên, đầu cúi thấp, bị ám ảnh bởi khuôn mặt hoảng sợ của Marjorie. Khi đã lên đến đỉnh sống núi, tôi chạy về hướng bắc, tim đập đập vì lo sợ.
Chạy được một kilômet, tôi dừng lại để nghe ngóng Chẳng có tiếng động nào. Nằm dài trên đất, tôi cố thư giãn và tập trung đầu óc, nhưng cảnh tượng Maijorie bị bắt giữ vẫn ám ảnh tâm trí tôi. Tại sao tôi đã để nàng ở đó một mình? Giờ phải làm sao đây?
Tôi ngồi dậy và hít thở sâu trong khi nhìn con đường trên sông núi đôi diện. Trong cuộc chạy trối chết, tôi không thấy một chiếc xe nào. Tôi lại chăm chú nghe ngóng. Chỉ có những âm thanh của rừng! Tôi dần dần trầm tĩnh lại. Marjorie đã bị bắt, nhưng nàng chẳng có tội tình gì ngoài việc cô thoát khỏi những làn đạn. Người ta sẽ trả tự do cho nàng sau khi biết rõ nàng là một nhà khoa học.
Tiếp tục đi về hướng bắc, tôi cảm thấy đau nhức ở lưng. Tôi cảm thấy mệt lả và đói. Trong suốt hai giờ, tôi bước đi, không suy nghĩ và cũng chẳng gặp một bóng người.
Sau đó tôi nghe có tiếng chân người đang chạy, xuất phát từ sườn dốc phía phải. Tôi đứng im. Cây cối ở đây to lớn và tán rộng che khuất nắng trời, vì thế chẳng có chỗ cho những bụi rậm. Tầm nhìn của tôi không đến ba mươi mét. Chẳng có động tĩnh gì. Tôi men theo một mỏm đá lớn ở phía phải, ngang qua những hàng cây, cố không gây tiếng động. Sừng sững phía trước tôi là ba mỏm đá lớn; tôi vượt qua hai trong số ba mỏm đá đó – mọi sự vẫn yên tĩnh. Khi lên đến đỉnh của mỏm đá thứ ba, tôi nghe có tiếng những cành cây gãy ở phía sau tôi. Tôi từ từ quay lại.
Đứng gần mỏm đá là gã râu ria to lớn mà tôi đã gặp ở trang trại. Ánh mắt y hoảng loạn, hai tay run rẩy khi y chĩa họng súng tiểu liên vào bụng tôi . Y cố nhớ ra tôi.
Tôi nói:
– Hãy khoan. Tôi quen Jensen.
Y xem xét tôi, rồi hạ súng xuống. Có một tiếng động ở phía sau và gã râu ria bỏ chạy về hướng bắc, súng trên tay. Không suy nghĩ, tôi chạy theo y, men theo những mỏm đá, thỉnh thoảng nhìn lại phía sau.
Chạy được hai mươi mét, gã râu ria vấp ngã, và tôi vượt qua y để sau đó té nhào giữa hai tảng đá. Tôi nhìn ra sau và thấy một người lính, cách đó hai mươi mét, chĩa súng về gã râu ria đang cố đứng dậy.
Trước khi tôi kịp báo cho gã râu ria, người lính đã nổ súng, phát đạn từ phía sau xuyên thủng ngực gã.
Tiếng súng vang vọng trong núi.
Gã râu ria sững người trong chốc lát, mắt đứng tròng, rồi ngã sấp xuống. Không suy nghĩ, tôi lao về hướng bắc, cố chạy thật xa nơi có những tiếng súng. Sườn núi càng lúc càng hoang dã và lởm chởm đá, dốc đứng.
Toàn thân tôi run rẩy vì mệt và khiếp sợ khi leo lên những mỏm đá. Tôi trượt ngã và nhìn ra sau. Người lính đang tiến đến bên cái xác và tôi vội núp sau một tảng đá khi hắn nhìn về phía tôi. Sườn dốc phía trên ít thẳng đứng hơn và che khuất tôi khỏi tầm nhìn của người lính. Vì vậy, tôi tiếp tục chạy trốn, tâm trí hốt hoảng. Tôi chỉ nghĩ đến chạy trốn. Không dám lui, tôi cho rằng người lính đang đuổi theo .
Sườn dốc lại thẳng đứng, và tôi vẫn leo lên. Tôi bắt đầu cảm thấy xuống sức. Sau khi đến đỉnh của sườn dốc, mặt đất trở nên bằng phẳng hơn, với nhiều cây lớn. Đằng sau những đại thụ là một mũi đất dựng đứng lởm chởm đá, mà tôi phải vượt qua. Khi lên đến đỉnh tinh thần tôi hoàn toàn sụp đổ trước điều đang chờ tôi một sườn dốc thẳng đứng ba mươi mét chắn trước mặt. Không một lối thoát nào khác.
Tiếng đá sỏi rơi xuống ở sườn dốc phía sau cho biết người lính đang tiến lên. Tôi quị xuống, kiệt sức, và chấp nhận số phận. Tôi chờ viên đạn và trong một cách nào đó, như chờ một sự giải thoát. Lúc đó, tôi nhớ lại những ngày chủ nhật trong tuổi thơ của tôi và sự trong trắng ngây thơ khi đọc kinh cầu nguyện. Vậy, cái chết sẽ như thế nào? Tôi cố mở rộng lòng để đón nhận nó.
Tôi chờ đợi trong một thời gian tưởng chừng bất tận, và chẳng có gì xảy ra. Tôi nhìn quanh và đột nhiên nhận thấy đang ở trên một điểm cao nhất của những dãy núi. Quanh tôi là những đỉnh núi và những vách đá cheo leo, với những cảnh quan đẹp không thể tả.
Có một chuyển động thu hút sự chú ý của tôi. Rất xa, ở phía nam, tôi thấy người lính đang bước đi một cách lặng lẽ, súng trên vai. Y đã bị bắt giữ bởi thuộc hạ của Jensen.
Cảnh tượng đó khiến tôi cảm thấy an tâm, và tôi ngạc nhiên khi thấy mình cười lặng lẽ. Tôi đã thoát chết! Tôi ngồi xuống, duỗi hai chân, và thích thú với phút giây đó. Tôi muốn ở mãi nơi này, dưới bầu trời xanh này.
Hiện diện kề cận, hay đúng hơn là cảm giác kề cận với những ngọn đồi xanh nhạt ở xa khiến tôi ngạc nhiên. Tôi cũng có cảm giác đó đối với những đám mây trắng đang ngang qua trên tôi. Tưởng như tôi có thể chạm tay vào chúng.
Khi đưa tay ra, tôi cảm thấy có điều gì đó bất thường trong cơ thể tôi. Hai bàn tay tôi vươn ra một cách dễ dàng, không chút cố gắng. Trong chớp mắt, từ tư thế ngồi, tôi đứng thẳng dậy. Mọi sự đều nhẹ bỗng.
Ở phương xa, tôi thấy trăng lưỡi liềm đang lặn; lơ lửng ở chân trời. Ngay tức khắc, tôi hiểu ra lý do. Ở cách xa hàng tỉ kilômet, mặt trời chỉ chiếu sáng phần trên của trăng, và tôi không thấy chính xác điểm tiếp cận của ánh sáng. Khám phá đó làm cho ý thức của tôi trở nên bén nhạy hơn.
Tôi tưởng tượng trăng đã biến mất khỏi bán cầu bên này của trái đất, và tôi thấy hình ảnh của nó khi nó xuất hiện ở bên kia, ở phía tây. Rồi tôi hình dung nó ở phía đối xứng chỗ tôi đang đứng: một vầng trăng tròn vì mặt trời chiếu sáng toàn bộ bề mặt của mặt trăng.
Tầm nhìn đó lay tỉnh tôi và tôi cảm thấy lưng tôi trở nên nhẹ hơn, khi tôi hiểu rằng không gian ở trên đầu tôi cũng là không gian ở dưới chân tôi, ở phía bên kia trái đất. Đây là lần đầu tiên trong đời tôi thực sự trải nghiệm về cấu tạo hình cầu của trái đất.
Phát hiện đó làm tôi thích thú, nhưng đồng thời tôi cảm thấy nó có vẻ bình thường và tự nhiên. Tôi chỉ có một ao ước: được lơ lửng, trôi nổi trong một không gian mà tôi cảm thấy mình trải dài theo mọi hướng Tôi không có cái cảm giác thông thường là cưỡng lại trọng trường, trái lại tôi cảm thấy được chống đỡ bởi một cảm giác nhẹ bỗng nào đó ở bên trong, tựa như một khí cầu lơ lửng trên mặt đất.
Tôi lại ngồi xuống trên mỏm đá, và một lần nữa mọi sự có vẻ kề cận tôi: mỏm đá nơi tôi ngồi, những gốc cây trên các sườn dốc, núi non ở chân trời. Khi nhìn những cành lá đong đưa nhẹ nhàng trong gió, tôi cảm thấy chuyển động của chúng như là chuyển động của tôi, như thể chúng là tóc của tôi, như cơ thể của tôi là đầu mút của một thân xác lớn được hình thành bởi tất cả những sự vật hữu hình. Toàn bộ được nhìn qua đôi mắt của tôi.
Cảm nghĩ đó khơi dậy ký ức. Tôi nhớ lại mọi sự việc, ở bên kia chuyến đi này, ở bên kia thời thơ ấu của tôi và cả sự ra đời của tôi. Tôi biết cuộc đời tôi không bắt đâu bằng sự hiện hữu của tôi trên trái đất này, mà sớm hơn trước đó, với sự hình thành thực thể mà tôi đang là, hình thành thân xác đích thực của tôi, như của chính vũ trụ.
Thuyết tiến hoá là điều luôn làm tôi chán ngấy, nhưng những thị kiến vừa rồi khiến tôi nhớ lại tất cả những gì mà mình đã đọc về vấn đề đó, kể cả những tranh luận với người bạn trông rất giống Reneau. Tiến hoá luận là lĩnh vực ưa thích của anh ta.
Toàn bộ kiến thức hình như tan biến với một ký ức đích thực về các sự việc. Tôi nhớ về quá khứ, và điều đó cho tôi hiểu sự tiến hoá dưới một ánh sáng mới.
Tôi nhìn thấy vật chất đầu tiên bùng nổ trong vũ trụ, và tôi thấy, như mặc khải thứ ba giải thích, là nó không thực sự có tính vật chất. Đó chỉ là năng lượng đang dao động, và vào lúc đầu, nó tồn tại trong loại hình dao động sơ cấp của nó.
Tôi thấy những nguyên tử hydro xoay quanh nhau như thể nguyên tắc chính yếu của năng lượng là tìm kiếm một chuyển động tiến đến trạng thái phức tạp hơn.
Rồi những ngôi sao đầu tiên ra đời, tự phá huỷ và nổ tung, phát tán hydro và heli vừa được tạo ra vào vũ trụ. Hydro và heli xoay quanh nhau cho đến khi nhiệt độ đủ cao để hình thành những ngôi sao khác.
Và cứ tiếp tục như thế, cho đến khi vật chất hình thành và phát tán khắp nơi. Vật chất được hình thành từ năng lượng, chuẩn bị cho giai đoạn tiến hoá kế tiếp là sự sống.
Bị giam hãm trong thế giới thuỷ sinh, sự sống chia thành hai loại hình. Một loại hình, mà chúng ta gọi là thực vật, sống bằng chất vô cơ. Một loại hình khác mà chúng ta gọi là động vật, thì chỉ hấp thụ sự sống hữu cơ. Ở đỉnh cao của đời sống động vật, xuất hiện loài người.
Vào lúc đó, thị kiến của tôi biến mất; trong thoáng chốc, tôi đã trông thấy toàn bộ quá trình tiến hoá, lịch sử của vật chất, như được điều khiển bởi một chương trình đưa nó đến những tần số dao động cao hơn, qua nhiều giai đoạn, trong khi tạo ra những điều kiện đúng và đủ để cho chúng ta, con người, có thể xuất hiện.
Ngồi ở đây, trên núi này, tôi hiểu về mặt vật chất bằng cách nào sự tiến hoá đó liên quan đến loài người. Ở một giai đoạn cao hơn, sự tiến hoá đó được gắn liền với với trải nghiệm những trùng hợp ngẫu nhiên của đời sống. Một điều gì đó trong những trùng hợp ngẫu nhiên khiến chúng ta tiến lên phía trước trong đời sống và tạo ra một dao động cao hơn. Nhưng dẫu cố tìm hiểu điều đó vượt khỏi tầm nhìn của tôi.
Tôi đã ngồi khá lâu trên mũi đất, say sưa với cảm giác yên bình và mãn nguyện. Đột nhiên, tôi nhận ra rằng mặt trời đang khuất ở phương tây, và ở phía tây bắc, cách tôi khoảng hai hoặc ba kilômet, có một thị trấn. Tôi thấy rõ những mái nhà, con đường men theo sườn núi phía tây hướng về thị trấn.
Tôi đứng dậy và đi xuống những mỏm đá. Tôi cười lớn tiếng vì thấy mình gắn liền với cảnh quan, và có cảm giác đang đi dọc theo thân xác mình, và có thể khám phá những điều bí ẩn. Cảm giác đó quả là kỳ lạ.
Tôi xuống đường trũng, đi dọc theo những cây xanh. Mặt trời hoàng hôn để lại những vùng âm u rộng lớn trên mặt đất rừng. Tôi dừng lại để nhìn rõ hơn cây cỏ, tập trung tầm nhìn vào cái đẹp và những hình thể của chúng. Lúc đó, tôi thấy những ánh sáng trắng và một loại khí vô hình màu hồng bao quanh, từng thảo mộc.
Tôi tiếp tục di chuyển và đến một dòng suối phát ra một ánh sáng màu xanh nhạt. Dòng suối này làm tôi tràn ngập thanh thản. Sau đó, tồi tới một thung lũng leo lên sườn dốc đối diện, và cuối cùng ra đến con đường. Tôi bước đi một cách tự nhiên về hướng bắc.
Xa hơn, phía trước, tôi thấy bóng của một người mặc áo nhà dòng đang khuất dần ở ngã rẽ. Hình ảnh đó khiến tôi thắc mắc. Không chút sợ hãi, tôi chạy về phía ông. Tôi cảm thấy hoàn toàn thư thái. Nhưng tôi ngạc nhiên khi thấy ông đã mất hút. Ớ phía phải, có một con đường nhánh, tiến vào thung lũng theo hướng ngược lại, nhưng ở đó cũng chẳng có bóng người. Tôi tiếp tục tiến theo con đường chính: chẳng có ai! Tôi nghĩ đến việc quay trở lại để đi theo con đường nhánh. Nhưng như thế, tôi sẽ không về được thị trấn nên tôi vẫn tiếp tục đi, trong khi không ngưng nghĩ đến con đường nhánh.
Đi được một trăm mét, khi đến một ngã rẽ thứ hai, tôi nghe có nhiều tiếng xe: qua các cành cây, tôi thấy có một đoàn xe quân sự đang lao nhanh đến. Tôi ngập ngừng, trong thoáng chốc nghĩ rằng có thể ở yên trên đường, nhưng rồi tôi bỗng nhớ đến nỗi khiếp sợ mà tôi đã trải khi nghe tiếng súng trên núi.
Tôi nhảy ra khỏi con đường và nép mình bên lề đường; mười chiếc Jeep lao nhanh qua. Chẳng ai trông thấy tôi. Khi đoàn xe đã đi khỏi, tôi bò đến một gốc cây lớn.
Tôi run rẩy; cảm giác an bình đã rời khỏi tôi. Nỗi khiếp sợ đã quay lại khiến dạ dày tôi quặn thắt. Sau đó, tôi lại men đến con đường, và hình ảnh hai chiếc Jeep đang lao đến từ xa khiến tôi phải một lần nữa lăn mình vào cỏ. Tôi cảm thấy buồn nôn.
Lần này, tôi cô lánh xa con đường và quay về nơi xuất phát, thận trọng tiến bước để đến con đường nhánh. Lắng nghe những tiếng động, tôi quyết .. di chuyển trong rừng, men theo con đường để qua thung lũng. Tôi cảm thấy tâm trạng nặng nề. Tôi tự hỏi, mình đã làm gì? Tại sao mình đi theo con đường này? Hãy thận trọng, tôi có thể gặp nguy hiểm.
Tôi đột ngột dừng lại. Tôi thấy vị linh mục đang ở phía trước tôi, cách ba chục mét. Ông đang ngồi dưới một gốc cây lớn, bao quanh bởi những tảng đá. Tôi đứng lặng nhìn ông khi ông mở mắt ra và nhìn tôi. Tôi sững người, nhưng ông ra hiệu cho tôi đến gần.
Tôi thận trọng bước đến. Ông hoàn toàn bất động. Khoảng ngũ tuần, ông là một người cao gầy, với mái tóc cắt ngắn có màu xanh như mắt ông.
Ông nói bằng một thứ tiếng Anh lưu loát:
– Hình như anh đang cần được giúp đỡ?
– Ông là ai?
– Linh mục Sanchez. Còn anh?
Trong khi quỳ một chân, bởi đã kiệt sức, tôi cho ông biết lai lịch của tôi và nơi tôi xuất phát.
Ông hỏi:
– Có phải anh liên quan đến chuyện đã xảy ra tại Cula?
Tôi nói bằng một giọng mệt mỏi, không biết mình có nên tin ông hay không:
– Linh mục biết gì về chuyện đó?
– Tôi biết chính phủ dứt khoát không muôn công bố Bản Sách Cổ Chép Tay.
– Tại sao chứ?
Sanchez đứng dậy:
– Hãy theo tôi. Trụ sở hội truyền giáo của chúng tôi ở gần đây. Anh sẽ được an toàn.
Tôi đứng lên một cách khó nhọc. Biết không còn một lựa chọn nào khác, tôi gật đầu. Linh mục từ tốn dẫn tôi đi. Ông rất lịch sự và thận trọng cân nhắc từng lời:
– Binh lính còn truy lùng anh không?
– Tôi không biết nữa.
Sau một lúc im lặng, linh mục nói:
– Có phải anh đang đi tìm Bản Sách Cổ Chép Tay.
– Không, tôi không tìm kiếm nữa. Tôi chỉ muốn sống sót để trở về nhà.
Linh mục mỉm cười và gật đầu. Bỗng nhiên, tôi cảm thấy tin tưởng ở ông. Tình người và sự quan tâm của ông dành cho tôi khiến tôi cảm động. Ồng làm tôi nhớ đến Wil.
Chúng tôi đến trụ sở hội truyền giáo, một cụm nhà nhỏ bao quanh một cái sân và một nhà thờ nhỏ, ở một địa điểm rất đẹp. Sanchez nói với những linh mục khác bằng tiếng Tây Ban Nha, và những linh mục đó vội vã ra đi.
Tôi muôn biết họ đi đâu, nhưng cảm thấy quá mệt; Sanchez đưa tôi vào một căn nhà gồm hai phòng và một buồng nhỏ; lửa đang cháy trong lò sưởi. Theo sau chúng tôi là một linh mục, tay bưng một cái khay có nhiều bánh mì và một liễn đựng xúp bốc khói. Tôi ăn trong khi Sanchez lịch sự ngồi cạnh tôi. Rồi, theo lời mời của ông, tôi nằm dài trên một trong những cái giường và ngay sau đó, chìm vào giấc ngủ.
Khi ra sân, tôi nhận thấy mọi thứ ở đây đều rất sạch. Những lối đi trải sỏi được viền bằng những loài cây chọn một cách khéo léo; không một cây nào bị cắt tỉa.
Tôi bước đến và ngồi xuống trên một trong những băng ghế đá đặt quanh sân. Mặt trời đã lên đỉnh những hàng cây sưởi ấm cơ thể tôi.
Có tiếng nói từ phía sau tôi:
– Anh ngủ có ngon không?
Sanchez đang đứng phía sau tôi, tươi cười. Tôi gật đầu:
– Tuyệt vời.
– Tôi có thể nói chuyện với anh
– Dĩ nhiên.
Chúng tôi không nói năng gì trong vài phút. Nhiêu lần tôi liếc nhìn Sanchez, chực lên tiếng, nhưng ông đang ngắm mặt trời lên, đầu hơi nghiêng sang một bên.
Cuối cùng, Sanchez lên tiếng:
– Anh đang ngồi ở một nơi thật tuyệt. Tôi thốt lên:
– Thưa cha, tôi cần cha cho một lời khuyên. Tôi muốn biết cách nào an toàn nhất để trở về Hoa Kỳ.
Ông nhìn tôi, vẻ nghiêm trọng:
– Tôi không rõ, điều đó tuỳ thuộc vào việc nhà cầm quyền có xem anh là thành phần nguy hiểm hay không. Hãy cho tôi biết bằng cách nào mà anh đã có mặt tại Cula.
Tôi kể ra toàn bộ sự việc, kể từ khi tôi gặp Charlene. Tôi không nói nhiều về trạng thái sảng khoái mà tôi đã trải qua khi ở trên đỉnh núi, bởi giờ đây tôi cảm thấy nó không thực và có vẻ tưởng tượng. Nhưng Sanchez hỏi ngay về vấn đề đó:
– Anh đã làm gì khi người lính bỏ đi?
– Tôi đã ngồi ở đó trong nhiều giờ, cảm thấy nhẹ nhõm.
-Anh còn cảm giác gì khác?
– Không dễ để giải thích. Tôi cảm thấy sảng khoái với mọi sự, một cảm giác hoàn toàn yên ổn và thư thái. Sự mệt mỏi đã biến mất.
Sanchez mỉm cười:
– Anh đã có một trải nghiệm thần bí. Nhiều người ngang qua khu rừng gần đỉnh núi cao đó đã kể lại những chuyện tương tự. Đó là trải nghiệm mà các nhà thần bí của mọi tôn giáo đã mô tả. Anh có đọc những bài viết về vấn đề đó?
– Vâng, cách nay đã lâu…
Nhưng cho đến hôm qua, chuyện đó đối với anh chỉ là một ý niệm trừu tượng?
– Vâng, hẳn thế.
Một linh mục trẻ bước đến, gật đầu chào tôi rồi nói nho nhỏ với Sanchez. Sau đó, linh mục trẻ ngang qua sân dưới ánh mắt nhìn theo của Sanchez, để đi vào một trang viên rộng khoảng ba mươi mét. Tôi nhận thấy nơi đó cũng được chăm sóc rất chu đáo và có nhiều thảo mộc. Linh mục trẻ có vẻ lưỡng lự như thể đang tìm một thứ gì đó. Rồi ông ngồi xuống, như đang trong một bài tập luyện.
Sanchez mỉm cười, vẻ hài lòng. Rồi quay sang tôi ông nói:
– Theo tôi, quả là nguy hiểm cho anh khi tìm cách ra đi vào lúc này, nhưng tôi sẽ cố tìm hiểu tình hình và xem có ai đã nghe nói về những người bạn của anh. Tôi sẽ có nhiều việc để làm. Hãy an tâm, chúng tôi sẽ cố hết sức để giúp anh. Hãy nghỉ ngơi ở đây và lấy lại sức khoẻ.
Tôi gật đầu.
Sanchez thọc tay vào túi, lấy ra một xấp giấy và trao cho tôi:
– Đây là mặc khải thứ năm. Nó nói về loại trải nghiệm mà anh đã gặp. Tôi nghĩ nó sẽ làm anh quan tâm.
Tôi cầm lấy trong khi ông nói tiếp: “Anh có hiểu những mặc khải mà anh đã đọc trước đây?”.
Tôi ngập ngừng, không muốn nghĩ đến Bản Sách Cổ Chép Tay vào lúc này. Rồi tôi nói:
– Nó cho biết rằng con người bị lôi kéo vào một sự tranh giành năng lượng với những người khác. Khi ta hướng những người khác theo quan điểm của mình thì họ đang đồng nhất hoá với ta. Điều đó giúp ta hấp thụ năng lượng của họ và mạnh hơn lên.
Ông mỉm cười:
– Vậy vấn đề là mỗi người tìm cách lấy đi năng lượng của người khác bằng cách chế ngự họ. Và tất cả chúng ta đều thiếu năng lượng.
– Đúng.
– Nhưng còn có một giải pháp, một nguồn năng lượng khác.
– Hình như đó là điều bản văn muốn nói đến.
Sanchez gật đầu và đi vào nhà thờ, không nói gì thêm. Tôi ngồi đó một lúc, không nhìn bản văn. Những sự cố của hai ngày qua đã làm nguôi đi niềm phấn khởi của tôi, và tôi muốn nghĩ đến những thức để trở về Hoa Kỳ. Rồi tôi nhìn vào trang viên và thấy linh mục trẻ đang đứng dậy và từ từ đi xa hơn vài mét. Sau đó, anh hướng về tôi và ngồi xuống.
Tôi thắc mắc chẳng hiểu anh đang làm gì. Tôi nghĩ, có lẽ anh đang thực hiện một nghi thức được mô tả trong Bản Sách Cổ Chép Tay.
Tôi đọc trang đầu của bản văn.
Bản văn mô tả một khái niệm mới về điều mà từ lâu nay người ta gọi là ý thức thần bí. Theo bản văn, trong những thập nhiên sau cùng của thế kỷ 20, ý thức đó thể hiện trong lối sống mà mỗi con người có thể tiếp cận và được minh hoạ bởi những người theo thuyết bí truyền của nhiều tôn giáo. Đối với phần đông, ý thức này vẫn là một khái niệm trừu tượng, một đề tài tranh luận. Nhưng đối với một số người, mà số này đang gia tăng, ý thức này tự nó sẽ tỏ rõ, bởi họ sẽ trải nghiệm những đột nhập ngắn ngủi vào chiều kích tâm linh.
Trải nghiệm như vậy có thể là bí quyết để chấm dứt những xung đột trên thế gian. Bao lâu trải nghiêm đó còn tồn tại, chúng ta sẽ nhận năng lượng từ một nguồn khác mà một ngày nào đó chúng ta có thể sử dụng tuỳ ý.
Tôi ngưng đọc bản văn và nhìn vị linh mục trẻ; mắt anh mở lớn và có vẻ như đang chăm chú nhìn tôi. Tôi gật đầu chào, tuy không thấy rõ chi tiết khuôn mặt anh. Tôi ngạc nhiên khi thấy anh mỉm cười, gật đầu chào lại. Sau đó, anh đứng dậy và đi về ngôi nhà; tránh nhìn tôi trong khi tôi dõi theo anh, đến lúc anh mất hút.
Tôi nghe có tiếng chân ở phía sau; Sanchez vừa ra khỏi nhà thờ. Ông mỉm cười:
– Không lâu lắm phải không. Anh có muốn tham quan đôi chút khu này?
– Vâng. Cha có thể cho tôi tham quan trang viên?
Tôi chỉ cho ông nơi ban nãy linh mục trẻ đã ngồi. Ông nói:
– Chúng ta hãy đến đó.
Khi ngang qua sân, Sanchez kể cho tôi về Hội Truyền giáo, đã tồn tại qua bốn thế kỷ, và đã được thành lập bởi một a sai Tây Ban Nha. Vị thừa sai đó đã tin rằng mình phải cải tạo những người dân bản địa bằng cách chạm vào tâm hồn của họ. Theo Sanchez, hoạt động truyền bá đức tin của vị thừa sai đã có kết quả tốt, một phần do chính cung cách của vị thừa sai, phần do sự hẻo lánh của vùng này, và vì thế ông có thể tiếp tục kinh nghiệm đó.
Ông giải thích:
– Chúng tôi luôn vun trồng truyền thống tìm kiếm
Trang viên thật đẹp, với những lối đi rải đá cuội lấy từ đòng sông gần đó. Tựa như trong sân, những cây ở đây được trồng rất thưa, làm nổi rõ hình dáng độc đáo của mỗi loài cây.
Sanchez hỏi:
– Anh thích ngồi ở đâu?
Tôi nhìn quanh. Trước mắt tôi có những góc thật đẹp, với cây cối được chăm sóc chu đáo. Mỗi góc đều có một không gian mở được viền bởi những loài cây rất đẹp, những tảng đá và đại thụ. Nơi vị linh mục trẻ đã ngồi lúc nãy có nhiều tảng đá hơn những nơi khác.
Tôi nói:
– Tôi thích ngồi ở chỗ kia.
Sanchez gật đầu và chúng tôi đến đó. Sau một lúc hít thở sâu, ông nói:
– Hãy cho tôi biết điều gì đã xảy đến với anh trên đỉnh núi.
Tôi do dự:
– Thưa cha, tôi đã kể cho cha mọi chuyện… Mọi sự đã xảy ra quá nhanh.
Ông nhìn tôi với vẻ nghiêm nghị:
– Có thế anh sẽ phải cố gắng đế tìm lại trạng thái ấy.
– Vâng, có thể. Nhưng quả là khó để tìm thấy cảm giác hoà nhập với vũ trụ khi người khác đang chĩa súng vào mình.
Ông cười và nhìn tôi bằng ánh mắt thân tình. Tôi hỏi:
– Ở Hội Truyền giáo, các cha có nghiên cứu Bản Sách Cổ Chép Tay
– Có chứ. Chúng tôi dạy cách theo đuổi loại trải nghiệm mà anh đã có trên đỉnh núi. Anh có muốn trải nghiệm lại?
Có tiếng gọi linh mục Sanchez ở cuối sân. Ông xin lỗi tôi để đi. Tôi lại ngắm cây cỏ và đá trong khi thử dịch chuyển tầm mắt. Ở bụi cây kề cận, tôi mơ hồ thấy một vùng ánh sáng.
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.