Tháng Mười một, năm 1989.
Vô số người dân Chicago đi bộ dọc theo đại lộ Michigan, những bước chân thong thả của họ một phần vì hôm nay là một ngày tháng Mười một dễ chịu, một phần vì đám đông mua sắm đang đứng chen chúc trước Bancroft Company để ngắm những mô hình trang trí cho lễ Giáng Sinh đằng sau những khung cửa kính.
Trong suốt nhiều năm kể từ khi cửa hiệu được khai trương vào năm 1891, Bancroft đã phát triển từ một toà nhà hai tầng với mái vòm cong và những tấm vải bạt màu vàng ở những khung cửa sổ thành một tòa nhà mười bốn tầng với cấu trúc bằng kính và đá cẩm thạch tọa lạc tại một khu vực rộng lớn bốn mặt phố. Nhưng cho dù Bancroft đã trải qua nhiều sự thay đổi, có một việc vẫn không hề thay đổi:
hai người gác cổng trong bộ đồ màu đỏ sậm đứng nghiêm trang ở ngay cánh cửa chính. Chi tiết nhỏ nhặt nhưng trịnh trọng và tao nhã này là một bằng chứng rõ ràng chứng tỏ Bancroft vẫn tiếp tục giữ vững những giá trị truyền thống và sự thanh lịch truyền lại từ bao đời.
Hai người gác cổng già, cạnh tranh với nhau dữ dội đến nỗi họ rất ít khi nói chuyện với nhau trong suốt ba mươi năm làm việc chung, kín đáo nhìn một chiếc xe BMW màu đen vừa mới đến, và bọn họ lặng lẽ sẵn sàng để mở cánh cửa ở phía mình.
Chiếc xe dừng lại và Leon, đứng một bên của cánh cửa, nín thở, rồi thở ra một cách bực tức khi chiếc xe lướt qua ông và dừng lại ngay trước cánh cửa của đối thủ. “Đồ già dịch!” Leon lẩm bẩm chửi đối thủ khi Ernest vội vã bước tới trước. “Chào buổi sáng, cô Bancroft,” Ernest nói một cách màu mè khi ông mở cửa cho Meredith. Hai mươi lăm năm trước, ông đã mở cửa xe cho cha cô, cũng đã nhìn thấy Meredith thế này, và cũng đã nói những lời này với cùng một giọng điệu cung kính.
“Chào buổi sáng, bác Ernest,” Meredith đáp lại, mỉm cười và đưa cho ông chìa khóa xe sau khi cô bước xuống xe. “Bác có thể nhờ Carl đậu xe giùm cháu không? Cháu có rất nhiều thứ phải mang theo sáng nay, và cháu không muốn xách chúng từ nhà xe lên.” Phục vụ đậu xe là một dịch vụ rất tiện lợi mà Bancroft cung cấp cho khách hàng.
“Dĩ nhiên rồi, cô Bancroft!”.
“Nói với bác Amelia là cháu gửi lời chào,” cô nói thêm, đang nói đến vợ ông. Meredith quen biết tất cả những nhân viên lâu năm của cửa hiệu:
bây giờ họ như là người nhà của cô vậy và cửa hiệu này – cửa hiệu chính với nhiều chi nhánh đang mọc lên, và đến ngay hôm nay thì đã có bảy cửa hiệu tại nhiều thành phố khác – cũng đã trở thành nhà của cô như tòa biệt thự mà cô từng lớn lên hay căn hộ của riêng cô.
Dừng lại trên vỉa hè, cô nhìn đám đông đang tụ tập trước những khung cửa kính của cửa hiệu. Một nụ cười hiện lên trên môi và tim cô tràn đầy vui sướng.
Nó là cảm giác mà cô luôn có mỗi khi nhìn lên mặt chính sang trọng của Bancroft, một cảm giác hãnh diện, nhiệt thành và muốn bảo vệ đến mãnh liệt.
Tuy nhiên hôm nay, sự vui vẻ của cô còn tăng lên bất tận vì tối qua Parker đã ôm cô trong tay và nói một cách dịu dàng trang nghiêm:
“Anh yêu em, Meredith. Em sẽ lấy anh chứ, em yêu?” Sau đó anh đã lồng chiếc nhẫn đính hôn vào tay cô.
“Những khung cửa kính năm nay được trang trí đẹp hơn mấy năm trước,” cô nói với Ernest khi đám đông di chuyển và cô nhìn thấy được kết quả đáng khâm phục nhờ tài năng và trí tuệ của Lisa. Lisa Pontini đã làm cho bao người cùng ngành phải thán phục vì những tác phẩm của cô ở Bancroft. Trong một năm nữa, khi cấp trên của Lisa về hưu thì Lisa sẽ nắm giữ vị trí giám đốc phòng trưng bày.
Nôn nóng muốn tìm Lisa và báo cho cô bạn biết cái tin về Parker, Meredith mở cửa xe lấy ra hai cái cặp và một xấp tài liệu, rồi đi vào cổng chính. Khi cô vừa bước vào cửa hiệu, một nhân viên bảo an nhìn thấy cô và bước lại gần, “Tôi có thể giúp gì cho cô không, cô Bancroft?”.
Meredith định từ chối, nhưng cánh tay của cô đang đau nhói, với lại, cô cảm thấy một thôi thúc mạnh mẽ muốn đi dạo một vòng trước khi đi tìm Lisa, và để hưởng thụ sự phấn khởi vì hôm nay có vẻ như là một ngày buôn bán đạt kỷ lục của Bancroft. “Cám ơn, Dan,” cô nói rồi đưa đống giấy tờ nặng trĩu và cả hai cái cặp cho anh ta.
Khi anh ta đi về hướng thang máy, Meredith vuốt lại chiếc khăn choàng mà cô đã thắt lại ngay ve chiếc áo khoác trắng và bỏ hai tay vào túi áo, rồi thả bộ dọc qua những quầy mỹ phẩm. Những người mua sắm chen lấn qua cô để đi đến cầu thang tự động ngay chính giữa cửa hiệu, nhưng những sự xô đẩy đó chỉ làm cho cô vui sướng hơn.
Ngẩng đầu, cô nhìn cây thông Giáng Sinh cao gần mười mét vươn thẳng qua những quầy hàng, mỗi nhánh cây đều được treo những ngọn đèn đỏ, những chiếc nơ đỏ to và những trái bóng tròn màu đỏ lấp lánh. Những vòng thông được trang trí bằng các cỗ xe và những cái chuông xinh xắn treo trên những cột vuông nằm rải rác trong cửa hiệu, và bản nhạc “Deck of Halls” đang phát ra từ hệ thống loa. Một cô gái đang ngắm túi xách bỗng nhìn thấy Meredith và thúc cùi chỏ vào cô bạn. “Đó không phải là Meredith Bancroft sao?” Cô ta thốt lên.
“Đó nhất định là Meredith Bancroft.” Cô gái kia tuyên bố. “Và những gì mà phóng viên đã viết là cô ta nhìn như Grace Kelly lúc còn trẻ thì chẳng sai tí nào.”.
Meredith nghe họ nói, nhưng cô không để tâm. Trong suốt mấy năm qua, cô đã quen bị mọi người nhìn và nói về mình. Tờ \’Women Wear\’ đã gọi cô là “hiện thân của sự tao nhã”, tờ ‘Cosmopolitant’ gọi cô là “sang trọng”, còn tờ \’Wall Street Journal\’ gọi cô là “công chúa ngự triều của Bancroft”. Sau cánh cửa phòng hợp ở Bancroft, những người giám đốc gọi cô là “phù thủy hắc ám”.
Chỉ có sự mô tả sau cùng là quan trọng với Meredith, cô không quan tâm đến chuyện báo và tạp chí viết gì về cô… ngoại trừ chuyện những đề mục của họ làm tăng thêm uy tín của Bancroft. Nhưng ban giám đốc thì rất quan trọng đối với cô, vì họ có thể gây trở ngại cho công việc của cô, ngăn cản giấc mơ tiếp tục mở rộng tại những thành phố khác của Bancroft. Tổng giám đốc của Bancroft đối xử với cô không có chút tình cảm hay thiên vị nào hơn so với những vị giám đốc khác. Và ông ta là cha của cô.
Tuy nhiên, ngày hôm ngay, thậm chí cả trận chiến đang tiếp diễn giữa cô với cha và ban giám đốc về kế hoạch mở rộng của cô cũng không làm cho tâm trạng cô trở nên tồi tệ. Cô cảm thấy rất hạnh phúc và cô phải ráng kìm không hát theo bản nhạc Giáng Sinh đang phát ra. Thay vào đó, cô hưởng thụ tâm trạng tốt đẹp của mình bằng cách làm một việc cô thường làm khi còn bé:
đi lại những cột trụ có bọc kính, tựa sát vào nó, nhìn vào trong gương và giả vờ như thể đang sửa lại tóc, rồi cô cười và nháy mắt với nhân viên bảo an đang ngồi bên cạnh cột trụ, theo dõi xem có ai ăn cắp không.
Xoay lưng lại, cô đi về phía thang máy. Ý tưởng của Lisa là trang trí mỗi tầng bằng một màu khác nhau, và điểm chính của màu sắc dựa vào mặt hàng tại tầng đó. Meredith nghĩ nó rất có hiệu quả… nhất là khi cô đi lên tầng hai, trưng bày những chiếc áo lông và những chiếc váy đầm thiết kế ở đây, tất cả những cây thông màu trắng được trang trí với màu hoa cà và những chiếc nơ màu vàng lấp lánh. Ngay trước thang máy, ngồi trên ghế là ông già Noel trong bộ đồ trắng và vàng. Trên đùi của ông ta là một mannequin xinh đẹp khoác áo choàng tắm bằng đăng ten đang chỉ vào chiếc áo khoác lông chồn lót vải màu hoa cà trị giá $25,000.
Nụ cười trong trái tim của Meredith lan lên gương mặt khi cô nhìn thấy sự sang trọng toát ra từ cách trưng bày rất tinh tế và hiệu quả như mời gọi khách hàng đi vào đây để nuông chiều sự tiêu pha phung phí quen thuộc của họ. Dựa theo con số đám đàn ông đang nhìn những cái áo lông và số phụ nữ đang mặc thử những bộ đầm thiết kế, lời mời này đã được chấp nhận. Trên tầng này, mỗi nhà thiết kế đều có được một gian hàng riêng trưng bày toàn bộ những tác phẩm của họ. Meredith bước vào lối đi chính, thỉnh thoảng gật đầu với những nhân viên mà cô biết. Trong gian hàng của Geoffrey Beene, hai người đàn bà vận áo khoác lông chồn đang ngắm một chiếc áo màu xanh đính hạt cườm có giá $7,000. “Cậu sẽ trông như một cái túi đựng khoai tây trong chiếc áo đó đấy, Margaret,” một người cảnh báo người kia. Lờ người bạn, người đàn bà quay sang cô bán hàng. Cô có cái này cỡ hai mươi không?”.
Trong gian hàng kế tiếp, một người đàn bà đang cố thuyết phục con gái bà ta, một cô gái khoảng mười tám tuổi mặc thử bộ đầm nhung của Valentino, trong khi người bán hàng kín đáo đứng ở phía sau, đợi để giúp họ. “Nếu như mẹ thích nó,” cô con gái trả lời, ngồi phịch xuống chiếc ghế sofa, “thì mẹ mặc đi, con không đi dự buổi tiệc chán phèo của mẹ đâu. Con đã nói với mẹ là con muốn mừng lễ Giáng Sinh ở Switzerland rồi!”.
“Mẹ biết, con yêu,” mẹ cô ta trả lời, nhìn có vẻ hối hận, khi nói với đứa con gái đang bực bội, “nhưng chỉ là lần này mẹ nghĩ cả nhà chúng ta nên ăn mừng Giáng Sinh ở nhà.”.
Meredith nhìn đồng hồ trên tay, nhận ra đã 1 giờ chiều, cô đi về phía thang máy để tìm Lisa và kể cho cô bạn chuyện của mình. Cô đã trải qua cả buổi sáng ở văn phòng kiến trúc sư bàn về kế hoạch cho cửa hiệu ở Houston, và cô có mộ buổi chiều bận rộn đang chờ đón.
Phòng thiết kế thật ra là một phòng chứa đồ lớn nằm ở dưới tầng hầm, chứa đầy những chiếc bàn thiết kế, những mannerquin thiếu tay chân, những cuộn vải to đùng và những đồ trang trí đã từng dùng để trang trí cửa sổ trong suốt mười năm qua. Meredith bước xuyên qua những món đồ mà cô đã từng rất quen thuộc. Một phần vì trong đợt tập huấn trước kia, cô đã làm việc tại mỗi bộ phận trong cửa hiệu. “Lisa?” Cô kêu lên, và cả hàng chục cái đầu phụ tá đang giúp việc cho Lisa ngẩng lên.
“Tớ đây!” Một giọng nói như bị nghẹt mũi hét lên, rồi một bức màn quanh một cái bàn được đẩy ra và mái tóc xoăn đỏ của Lisa ló ra. “Bây giờ là chuyện gì đây?” Một giọng nói bực bội, và đôi mắt màu hạt dẻ nhìn vào hai chân Meredith, “Làm sao tôi có thể làm được việc gì khi cứ bị phá đám mãi thế này chứ?”.
“Tớ làm sao mà biết được!” Meredith vui vẻ đáp lại, tựa hông vào cạnh bàn và mỉm cười với khuôn mặt sửng sốt của Lisa. “Tớ chưa bao giờ nghĩ được là cậu có thể tìm thấy được thứ gì ở đây, chứ đừng nói chi là thiết kế.”.
“Chào cậu,” Lisa trả lời, nhìn có vẻ ngượng ngập khi cô bò ra từ dưới bàn.
“Tớ đang cố nối những sợi dây ở dưới đó để chúng ta có thể nghiêng cái bàn lại cho bữa tiệc đêm Noel ở bộ phận trưng bày. Tối qua cậu đi chơi với Parker ra sao?”.
“Ồ, rất tuyệt,” Meredith trả lời. “Cũng như thường lệ, không hơn, không kém,” cô nói dối, rồi làm điệu bộ kéo ve áo lại bằng bàn tay trái đang đeo chiếc nhẫn đính hôn gắn đá sapphire. Cô đã nói với Lisa vào ngày hôm qua là cô có linh cảm Parker sẽ cầu hôn.
Lisa chống tay lên hông, “Như thường lệ thôi à! Chúa tôi, Mer, anh ta đã ly dị hai năm rồi, và cậu cũng đã cặp bồ với anh ta hơn chín tháng rồi. Cậu cũng bỏ ra rất nhiều thời gian với các cô con gái của anh ta như anh ta. Cậu thông minh và xinh đẹp… đàn ông đổ nhào khi họ nhìn thấy cậu, nhưng Parker đã nhìn cậu suốt mấy tháng nay rồi… nhìn cự li gần… và tớ nghĩ là cậu đang lãng phí thời gian với anh ta. Nếu gã ngu ngốc đó muốn cầu hôn thì anh ta đã làm…”.
“Anh ấy đã làm,” Meredith nói với nụ cười rạng rỡ, nhưng khi Lisa tuôn ra một tràng chỉ trích kịch liệt thì phải mất một lúc cô mới nghe được những lời của Meredith. “Anh ấy không hợp với cậu. Cậu cần có một người đưa cậu thoát khỏi lớp bọc bảo thủ và khiến cho cậu phải làm những chuyện điên rồ và bốc đồng… như là bầu cho Đảng Dân Chủ một lần, hay là đi nghe nhạc vào tối thứ sáu thay vì tối thứ bảy chẳng hạn. Parker giống cậu quá, anh ta làm việc quá cứng nhắc, quá chín chắn, quá thận trọng nữa… Hả? Cậu đang giỡn chơi à! Anh ta đã cầu hôn với cậu à?”.
Meredith gật đầu, và ánh mắt của Lisa cuối cùng dừng lại trên viên đá sapphire được thiết kế theo kiểu cổ xưa. “Nhẫn đính hôn của cậu đấy à?” Cô hỏi, chụp lấy tay của Meredith, nhưng khi xem xét nó xong, nụ cười trên môi cô biến mất nhường chỗ cho cái nhíu mày khó hiểu. “Cái gì thế này?”.
“Đó là đá sapphire,” Meredith trả lời, bình thản bởi Lisa không có chút hứng thú với những món đồ cổ. Thứ nhất, cô luôn thích sự thẳng thắn của Lisa. Thứ hai là ngay cả chính Meredith cũng không thể tự thuyết phục mình là chiếc nhẫn ấy đẹp. Nó rất quý và cổ xưa, và là một món đồ gia truyền, cô hoàn toàn bằng lòng với chuyện đó.
“Tớ đã biết là đá sapphire, nhưng những hạt nhỏ là gì thế? Chúng không sáng lấp lánh như kim cương!”.
“Chúng được cắt theo kiểu xưa… không có nhiều cạnh. Chiếc nhẫn đã có từ lâu. Nó thuộc về bà ngoại của Parker.”.
“Anh ta không thể mua nổi một chiếc nhẫn mới hở?” Lisa trêu chọc. “Cậu biết không,” cô tiếp tục, “trước khi tớ gặp cậu, thì tớ luôn nghĩ những người có tiền luôn mua những món đồ tuyệt đẹp mà giá cả không thành vấn đề…”.
“Chỉ là những người mới giàu thôi,” Meredith càu nhàu. “Những người giàu từ xưa thì thường không thích lòe loẹt.”.
\’Vậy thì, quý tộc xa xưa có thể học những người mới giàu đi là vừa. Các người cứ giữ rịt những món đồ cho đến khi nó mòn đi. Nếu một gã đàn ông mang ra chiếc nhẫn cũ kỹ của bà nội anh ta để cầu hôn tớ, thì tớ sẽ chấm dứt mối quan hệ đó ngay. Còn nữa,” Lisa tiếp tục, “chiếc nhẫn được làm bằng gì thế, sao không sáng tí nào cả vậy?”.
“Là bạch kim,” Meredith trả lời qua tiếng cười.
“Tớ biết ngay mà… Tớ nghĩ là nó sẽ không bao giờ bị mòn, thế nên nó mới được mua cách đây hai trăm năm mà chả bao giờ sợ mòn.”.
“Đúng vậy,” Meredith trả lời, vai cô rung lên vì cười nhiều.
“Nói thật nhé, Mer,” Lisa trả lời, cười với Meredith, nhưng mắt cô lấp lánh, “nếu cậu không cảm thấy cậu như một mẫu quảng cáo biết đi của Bancroft & Company, thì cậu cũng sẽ còn mặc những bộ đồ từ thời còn học đại học.”.
“Chỉ khi nào chúng còn mặc được thôi.”.
Không giả vờ nữa, Lisa ôm choàng và xiết chặt Meredith. “Anh ta không xứng với cậu. Không có ai có thể cả.”.
“Anh ấy rất xứng với tớ,” Meredith cãi lại, cười và đáp lại cái ôm choàng của Lisa. “Buổi nhạc từ thiện sẽ diễn ra vào tối mai. Tớ sẽ lấy hai vé cho cậu và Phil,” Meredith nói, nhắc đến anh chàng chụp hình chuyên nghiệp mà Lisa đang hẹn hò. “Chúng tớ sẽ tổ chức một buổi tiệc đính hôn sau đó.”.
“Phil đang ở New York,” Lisa nói, “nhưng tớ sẽ đến đó. Suy cho cùng thì Parker sẽ trở thành một thành viên trong gia đình chúng ta, tớ phải tập thích anh ta.” Với một nụ cười không thể nén lại được, Lisa nói thêm, “Mặc dù lúc anh ta nhe răng cười khi tịch thu tài sản…”.
“Lisa,” Meredith nói một cách nghiêm nghị. “Parker ghét những lời nói đùa về ngân hàng lắm đấy, cậu cũng biết điều này mà. Bây giờ thì chúng tớ đã đính hôn, cậu có thể nào đừng chọc tức anh ấy nữa không?”.
“Tớ sẽ cố gắng,” Lisa hứa hẹn. “Không chọc tức và không có những lời nói đùa về ngân hàng nữa.”.
“Và không được gọi anh ấy là ông Drysdale nhé?”.
“Tớ sẽ không xem những bộ phim ‘Beverly Hillbillies’ chiếu lại nữa,” Lisa thề.
“Cám ơn cậu,” Meredith trả lời rồi đứng thẳng lên. Lisa đột nhiên quay lưng lại và trở nên trầm tư, vẻ mặt căng ra đến nỗi có thể làm thẳng một cuộn vải nhăn nheo. “Có chuyện gì sao?”.
“Chuyện gì à?” Lisa hỏi, quay lưng lại, nụ cười của cô quá rạng rỡ. “Chuyện gì có thể xảy ra chứ? Bạn thân nhất của tớ vừa mới đính hôn với người đàn ông trong mộng của cậu ấy. Cậu sẽ mặc gì cho tối mai?” Cô hỏi, hấp tấp thay đổi chủ đề.
“Tớ còn chưa quyết định. Tớ sẽ ghé qua tầng hai vào ngày mai và lựa một bộ đồ thật đẹp. Thật ra thì khi đến đó, tớ cũng sẽ xem áo cưới luôn. Parker cứ nhất quyết làm một hôn lễ long trọng với tất cả nghi thức. Anh ta không muốn tớ bị thua thiệt vì anh ấy đã từng có một hôn lẽ rất hoành tráng.”.
“Anh ta có biết về chuyện… về chuyện kia, cuộc hôn nhân trước kia của cậu không?”.
“Anh ấy biết,” Meredith nói, giọng nói của cô trở nên ủ rũ. “Parker đã rất tử tế và rất thông cảm,” cô bắt đầu, bỗng những tiếng chuông đột ngột vang lên qua hệ thống loa trong cửa hiệu. Những người khách đã từng nghe qua thì lờ chúng, nhưng mỗi một giám đốc đều có một tín hiệu đã được định trước, và họ sẽ trả lời một cách nhanh chóng nếu có thể. Meredith dừng lại, lắng nghe:
hai tiếng chuông ngắn, dừng lại, rồi thêm một cái nữa. “Đó là tín hiệu của tớ,” cô nói, thở dài và đứng lên. “Tớ phải đi đây. Có một cuộc họp trong một tiếng đồng hồ nữa, và tớ vẫn còn phải đọc tài liệu.”.
“Cho họ biết tay đi!” Lisa nói, và đột ngột bò lại xuống dưới gầm bàn, làm cho Meredith nhớ lại cô bé tóc đỏ từng chơi chung với cô trong túp lều mà cô đã dựng lên trong phòng ăn của gia đình. Meredith đi lại gần cái điện thoại treo trên vách ngay cánh cửa và gọi cho tổng đài của cửa hiệu. “Đây là Meredith Bancroft,” cô nói khi người trực điện thoại trả lời. “Cô vừa nhắn tin cho tôi.”.
“Vâng, cô Bancroft,” người trực điện thoại nói. “Ông Braden thuộc bộ phận bảo an hỏi xem cô có thể lập tức đến văn phòng ông ta ngay không. Ông ta bảo tôi nhắn với cô là có chuyện rất quan trọng.”.
Văn phòng bảo an nằm trên tầng sáu, sau quầy bán đồ chơi, nằm ẩn khuất sau một vách tường giả. Là giám đốc điều hành cao cấp, bộ phận bảo an thuộc quyền quản lý của Meredith, và khi đi qua các gian hàng có những người mua sắm đang xem xét những chiếc xe điện và những căn nhà búp bê thiết kế theo kiểu thời Victoria, cô nghĩ một cách bực bội là không biết nhân viên bảo an đã bắt được ai mà cần cô phải có mặt ở đó. Không thể nào là một kẻ ăn cắp vặt bình thường, vì họ có đủ thẩm quyền giải quyết mà không cần cô, cũng có lẽ là một nhân viên. Nhân viên cửa hiệu, từ giám đốc cho đến nhân viên bán hàng, đều bị theo dõi chặt chẽ bởi bộ phận bảo an. Mặc dù những người giả đi mua sắm để ăn cắp chiếm đến tám mươi phần trăm số lượng hàng hoá bị ăn cắp trong cửa hiệu, nhưng khi một nhân viên ăn cắp thì tổn thất nhiều hơn. Không giống những kẻ cắp giả làm khách mua hàng chỉ cỏ thể lấy những thử mà họ có thể giấu và cầm đi, nhân viên thì có rất nhiều cơ hội và hàng chục cách để đánh cắp mỗi ngày. Tháng rồi, bộ phận bảo an đã bắt được một nhân viên bán hàng trả tiền cho bạn bè khi đem trả lại những món hàng nhái, và tháng trước một người thu mua nữ trang đã bị đuổi vì nhận số tiền hối lộ $10,000 để nhập hàng kém chất lượng từ ba nhà cung cấp khác nhau. Meredith luôn cảm thấy có cái gì đó rất đê tiện và kinh tởm với một nhân viên là kẻ cắp, cô không dễ chịu chút nào khi cảm thấy bị phản bội. Tự cỗ vũ mình, cô dừng lại ngay cánh cửa để hàng chữ MARK BRADEN, GIÁM ĐỐC BỘ PHẬN BẢO AN VÀ NGĂN CHẶN MẤT MÁT và bước vào trong một căn phòng đợi liền kề với văn phòng của Mark. Hai kẻ cắp, một cô gái khoảng hai mươi tuổi và một bà già khoảng sáu mươi, đang ngồi trên chiếc ghế bọc nhựa đặt sát vách, dưới đôi mắt giám sát chặt chẽ của một nhân viên bảo an mặc đồng phục. Cô gái trẻ ngồi ôm bụng và có những vết nước mắt trên má cô ta, cô ta trông bẩn thỉu, nghèo nàn và hoảng sợ. Hoàn toàn trái ngược, kẻ ăn cắp già nua kia lại là một bức tranh vui vẻ, phách lối… một con búp bê bằng sứ già trong bộ đồ đen và đỏ của Channel, đang ngồi thẳng lưng trên ghế với cái túi xách đặt trên gối. “Chào buổi sáng,”.
Bà ta reo lên khi nhìn thấy Meredith. “Hôm nay cô có khỏe không?”.
“Tôi rất khỏe, thưa bà Fiorenza Meredith nói, thấy khó thở vì quá giận dữ khi cô nhận ra người lớn tuổi. Chồng của Agnes Fiorenza không chỉ là trụ cột được kính trọng trong cộng đồng và là cha của một thượng nghị sĩ, ông còn là thành viên trong ban quản trị của Bancroft, điều này khiến cho mọi chuyện trở nên khó giải quyết, và đó là lý do là tại sao Meredith được triệu đến phòng bảo an. “Bà khỏe không?” Meredith hỏi trước khi cô nghĩ ra cách.
“Tôi không được vui đấy, Meredith. Tôi đã đợi ở đây gần nửa tiếng đồng hồ, và như tôi đã giải thích với ông Braden, tôi không thể nào ở lại lâu được. Tôi phải đi ăn trưa với thượng nghị sĩ Fiorenza trong nửa tiếng nữa, và cậu ấy sẽ rất bực bội nếu như tôi không có mặt. Sau đó, tôi còn phải đi nói chuyện với đội Junior League. Cô có nghĩ là cô có thể giải quyết nhanh chuyện giữa tôi với ông Braden không?”.
“Để tôi xem thử tôi có thể làm gì được cho bà hay không,” Meredith nói, giữ thái độ không hứa hẹn gì khi cô mở cửa bước vào phòng làm việc của Mark.
Mark Braden đang tựa người vào bàn, nhâm nhi cốc cà phê đang bốc khói và nói chuyện với một nhân viên bảo an, người đã nhìn thấy cô gái trẻ ăn cắp đồ.
Là một người hấp dẫn, to con ở tuổi bốn mươi lăm với mái tóc và đôi mắt màu nâu nhạt, Braden đã từng là nhân viên bảo an đặc biệt trong không quân và ông nắm giữ công việc này ở Bancroft một cách nghiêm túc như thể ông đang gánh trách nhiệm giữ vững an ninh quốc gia vậy. Meredith không chỉ tin tưởng và tôn trọng ông, cô thích ông và nó thể hiện qua nụ cười nhăn nhó trên mặt cô khi cô nói. “Tôi nhìn thấy Agnes Fiorenza trong phòng đợi. Bà ta muốn tôi nói với anh là anh đang giữ bà ta, không cho bà ta đi đến một buổi ăn trưa quan trọng.”.
Braden giơ một tay lên với cử chỉ kinh tởm và để nó rớt xuống. “Tôi đã chỉ thị là để cho cô đối phó với con dơi già đó.”.
“Lần này bà ta chôm món gì vậy?”.
\’Một dây lưng Lieber, một túi xách Givenchy, và thứ này nữa.” Ông đưa ra một đôi bông tai to bằng đá xanh lấp lánh từ quầy hàng nữ trang giả mà nó trông sẽ vô cùng kinh dị trên thân hình nhỏ xíu của người đàn bà kia.
“Chúng ta còn giữ của bà ta bao nhiêu tiền?” Meredith hỏi, nhắc đến cái tài khoản mà người chồng phiền nhiễu của bà ta đã mở ra tại cửa hiệu để trang trải trước cho những thứ mà bà vợ trộm cắp.
“Bốn trăm. Không đủ cho những thứ này.”.
“Tôi sẽ nói chuyện với bà ta, nhưng trước tiên, cho tôi một tách cà phê được không?” Trong thâm tâm, Meredith thấy bực bội vì phải chiều chuộng bà già đó trong khi những người khác, như cô gái trẻ ở ngoài đó cùng bà ta, sẽ bị xét xử theo luật pháp. “Tôi sẽ bảo người gác cổng không cho bà Fiorenza vào nữa sau vụ này,” Meredith quyết định lớn tiếng, biết chắc là có thể sẽ phải gánh chịu phản ứng phẫn nộ từ chồng bà ta. “Cô gái kia lấy thứ gì vậy?”.
“Một bộ áo ấm con nít, vớ tất, và vài cái áo ấm. Cô ta chối không nhận,” ông nhún vai nói, rồi đưa cho Meredith cốc cà phê của cô. “Chúng tôi quay được cô ta trên máy. Tất cả hiện vật đáng giá hai trăm đô la.”.
Meredith gật đầu, nhâm nhi cà phê cầu nguyện với Chúa là người mẹ bẩn thỉu kia đã tự thú về chuyện ăn cắp. Khi chối không nhận, cô ta buộc cửa hiệu phải chứng minh – và sẽ khởi tố cô ta – để bảo vệ cửa hiệu khỏi chuyện sẽ bị thưa kiện trong tương lai vì đã giam giữ cô ta trái phép. “Cô ta có tiền án nào chưa?”.
“Người liên lạc của tôi ở sở cảnh sát nói là chưa.”.
“Vậy anh có chịu bỏ qua không truy cứu nữa nếu như cô ta đồng ý ký giấy là đã trộm cắp không?”.
“Tại sao chúng ta phải làm chuyện đó?”.
“Thứ nhất là, sẽ rất tốn kém khi truy tố cô ta trong trường hợp cô ta chưa có tiền án nào. Thứ nhì là tôi thấy khó chịu khi bà Fiorenza chỉ phải chịu một lời khiển trách vì đã ăn cắp những món đồ đắt tiền mà bà ta hoàn toàn có khả năng thanh toán, trong khi cô gái kia lại bị truy tố vì đã ăn cắp áo ấm cho con cô ta.”.
“Tôi và cô sẽ có một thoả thuận – cô không được cho bà Fiorenza bước chân vào cửa hiệu nữa và tôi sẽ bỏ qua chuyện kia, với điều kiện là cô ta thú nhận là mình đã ăn cắp. Đồng ý chứ?”.
“Đồng ý,” Meredith nói một cách dứt khoát.
“Mang bà già đó vào đây,” Mark ra lệnh cho nhân viên bảo an.
Bà Fiorenza bước vào phòng mang theo mùi dầu thơm Joy nồng nặc, mỉm cười nhưng nhìn có vẻ vội vã. “Chúa tôi, ông làm tôi mất nhiều thời gian quá đấy, ông Braden.”.
“Bà Fiorenza,” Meredith chịu trách nhiệm nói chuyện với bà ta. “Bà liên tục làm cho chúng tôi thấy khó xử vì bà cứ lấy cắp đồ ở các quầy hàng mà không trả tiền trước.”.
“Tôi biết là có lúc tôi cũng gây ra rắc rối, Meredith, nhưng chắc chắn là tôi không đáng phải nghe giọng điệu chỉ trích đó của cô.”.
“Bà Fiorenza!\’ Meredith nói, thấy càng bực tức vì bị đối xử như một đứa trẻ hư hỏng. “Mọi người phải vào tù… rất nhiều năm… vì đã trộm cắp những thứ còn ít giá trị hơn những thứ này…” Cô chỉ chiếc dây lưng, túi xách và đôi bông tai. “Có một cô gái ở ngoài kia đang đợi để mang áo ấm về cho con cô ta, và cô ta có nguy cơ phải bị ngồi tù. Nhưng bà… bà lấy những thứ lặt vặt mà bà không dùng đến!”.
“Chúa tôi, Meredith,” bà Fiorenza cắt ngang, nhìn thất kinh. “Cô không nghĩ tôi lấy đôi bông tai đó cho bản thân tôi chứ! Cô biết tôi không phải là một kẻ ích kỷ. Tôi làm việc thiện cho người khác đấy!”.
Lúng túng, Meredith do dự, “ý bà là bà sẽ đem quyên góp những thứ bà đánh cắp… giống như đôi bông tai… để làm việc thiện à?”.
“Chúa tôi!” Bà ta trả lời, khuôn mặt như búp bê sứ của bà làm một cử chỉ như bị xúc phạm. “Cái hội từ thiện nào sẽ nhận đôi bông tai đó chứ? Chúng quá xấu xí. Không, thật ra là tôi lấy nó cho người làm của tôi. Mắt thẩm mỹ của cô ta rất tệ. Cô ta sẽ thích chúng. Dù vậy, tôi nghĩ là cô nên nhắc nhở với người nào đã mua những đôi bông này cho cửa hiệu là họ chẳng làm gì để nâng cao thương hiệu Bancroft cả. Ở Goldblatt thì tôi nghĩ thích hợp hơn, nhưng tôi không hiểu tại sao Bancroft…”.
“Bà Fiorenza,” Meredith cắt ngang, lờ đi sự thay đổi một cách ngớ ngẩn về đề tài đang được bàn đến. “Tháng trước tôi đã cảnh cáo bà là nếu như bà bị bắt vì ăn cắp đồ một lần nữa, thì tôi sẽ bảo với người gác cổng không cho bà bước vào cửa tiệm nữa.”.
“Không phải là cô đang nói thật chứ!”.
“Tôi đang rất thành thật đấy.”.
“Tôi bị cấm không được mua sắm ở Bancroft nữa à?”.
“Đúng vậy.”.
“Thật là quá đáng.”.
“Tôi xin lỗi.”.
“Chồng của tôi sẽ được nghe chuyện này!” Bà ta nói, nhưng giọng điệu hơi run rẩy và tội nghiệp.
“Ông ta sẽ được nghe về chuyện này chỉ khi nào bà muốn nói cho ông ta biết thôi,” Meredith nói, cảm nhận được sự hăm dọa của bà ta vì hoảng sợ hơn là giận dữ.
Đầu bà ta ngẩng lên một cách kiêu hãnh, nhưng giọng nói thì hơi khác, “Tôi không có hứng thú mua sắm ở cửa hiệu này nữa. Tôi sẽ mua ở Magnin. Có nằm mơ họ cũng không bao giờ phí chỗ cho những đôi bông tai xấu xí này!”.
Bà ta nhặt cái túi xách lúc nãy để trên bàn, vuốt lại mái tóc bạc và rời khỏi.
Cong lưng tựa vào vách tường, Meredith nhìn hai người đàn ông trong phòng rồi uống một ngụm cà phê, cảm thấy buồn và bối rối… như thể cô vừa tát vào mặt một bà già. Suy cho cùng thì chồng bà ta cũng đã trả tiền cho bất cứ thứ gì mà bà ta ăn cắp, vì thế Bancroft không mất mát gì ít ra là khi họ bắt được bà ta.
Sau một lát cô nói với Mark, “Anh có thấy bà ấy có vẻ tội nghiệp quá không?”.
“Không.”.
“Tôi nghĩ làm vậy thì chỉ tốt cho bà ta thôi,” Meredith tiếp tục, nhìn phản ứng kỳ lạ trên khuôn mặt ông ta, “Ai mà biết chứ, có lẽ là chúng ta đã dạy cho bà ta một bài học bằng cách trừng phạt bà ta thay vì lờ đi những gì mà bà ta đã làm, đúng không?”.
Braden từ từ mỉm cười, như thể ông thấy rất thích thú, rồi sau đó không trả lời cô, ông nhặt điện thoại lên và nhấn bốn số. “Dan,” ông nói với một người bảo vệ của mình ở tầng chính, “Bà Fiorenza đang đi xuống. Chặn bà ta lại và bắt bà ta phải trả lại chiếc thắt lưng Liever bà ta vừa bỏ vào trong túi xách.
Đúng,” ông nói trong điện thoại, cười với vẻ mặt kinh sợ của Meredith, “chính là chiếc thắt lưng mà anh đã bắt được bà ta lấy cấp lúc nãy đấy. Bà ta vừa đánh cắp nó từ bàn của tôi.”.
Khi ông gác điện thoại, Meredith gạt bỏ sự tức giận của mình và nhìn đồng hồ, đầu óc cô quay lại với buổi họp đã được sắp xếp vào chiều nay. “Tôi sẽ gặp anh tại buổi họp nhân viên sau. Bản báo cáo của anh xong chưa?”.
“Rồi. Bộ phận của tôi ổn cả. Con số mất mát giảm xuống khoảng tám phần trăm so với năm ngoái.”.
“Tốt quá,” cô nói rất thật lòng.
Bây giờ, hơn bao giờ hết, Meredith muốn bộ phận do cô phụ trách được quản lý thật tốt. Bác sĩ tim mạch của cha cô đã yêu cầu ông từ chức Tổng giám đốc Bancroft, nếu không thì ít nhất cũng phải tạm thời nghỉ ngơi sáu tháng. Ông đã quyết định tạm thời nghỉ ngơi, và hôm qua ông đã họp với ban quản trị để bàn về chuyện ai sẽ làm Tổng giám đốc lâm thời trong khi ông đi nghỉ. Cô biết là cô rất muốn có được một cơ hội thay thế ông sau khi ông đi khỏi. Có ít nhất là bốn giám đốc khác cũng muốn ngồi vào chỗ này. Cô đã làm việc siêng năng – siêng năng hơn bất cứ người nào trong bọn họ, không lâu như hai người trong số bọn họ, nhưng cô cần cù và thành công hơn. Hơn nữa, bao giờ cũng là một người nhà Bancroft ngồi vào cái ghế Tổng giám đốc, và nếu cô không phải là một đứa con gái, thì Meredith biết chắc là cái ghế Tổng giám đốc lâm thời sẽ tự nhiên thuộc về cô. Ông nội của cô còn trẻ hơn cả cô khi ông ngồi vào chiếc ghế này, nhưng ông không bị cha ông cản trở bởi giới tính hay là vì ban quản trị có quyền quyết định. Sau cùng cũng một phần là lỗi của Meredith. Cô là người đã vận động và đấu tranh cho sự mở rộng của Bancroft tại các thành phố khác. Để làm được việc này cô cần phải có một số vốn lớn, mà cách duy nhất có thể thành công được là đưa Bancroft & Company thành một công ty cổ phần – bán cổ phiếu của nó trên thị trường chứng khoán. Bây giờ bất cứ người nào cũng có thể mua cổ phiếu của cửa hiệu và mỗi cổ phiếu là một lá phiếu bầu. Kết quả là ban quản trị là những người được bầu bởi những người nắm giữ cổ phiếu thay vì chỉ là những con rối được cha cô chọn lựa hay sa thải. Thật không may cho Meredith là tất cả những người trong ban quản trị đều nắm giữ nhiều cổ phiếu, vì thế họ có quyền bầu và từ đó có nhiều thẩm quyền quyết định hơn. Nói về mặt tốt thì đa số thành viên trong ban quản trị chính là mười hai người đã ngồi trong ban quản trị của Bancroft nhiều năm qua, họ là bạn bè và những người làm ăn quen biết với cha cô hay ông nội cô, vì thế họ vẫn làm theo những gì cha cô đề nghị.