Mười Một Năm Chờ

CHƯƠNG 23



Đúng mười giờ sáng ngày thứ hai, Peter Vanderwild xuất hiện trước mặt bà Stern – anh tự đặt cho bà biệt danh là “Nhân sư” – để rồi anh phải đợi như một kẻ cầu cạnh bực bội cho đến khi bà công nhận sự có mặt của anh, cho đến khi bà sẵn sàng ngưng gõ bàn phím và bắn tia nhìn của một con rắn tới anh.
“Tôi có cuộc hẹn gặp ông Farrell vào lúc mười giờ,” anh thông báo với bà.
“Ông Farrell đang họp. Ông ấy sẽ gặp anh trong vòng mười lăm phút nữa.”.
“Bà nghĩ tôi có nên đợi không?”.
“Chỉ khi nào anh không có chuyện gì làm trong mười lăm phút tới,” bà trả lời một cách lạnh nhạt.
Bị xua đuổi như một nam sinh ngoan cố, Peter kiên quyết bước đến thang máy và quay về văn phòng của anh. Làm vậy có vẻ khôn ngoan gấp bội hơn việc tiếp tục ở lại tầng sáu mươi và để cho bà ta thấy là anh không có việc gì để làm trong mười lăm phút tới. Lúc 10 giờ 15 phút, bà Stern ra hiệu cho anh đi vào phòng làm việc bên trong, trong khi ba giám đốc cao cấp của Haskell vẫn còn đang ùa ra khỏi đó nhưng trước khi Peter có thể mở miệng, điện thoại trên bàn Matt Farrell chợt reo.
“Ngồi đi, Peter,” Matt nói. “Tôi sẽ nói chuyện với cậu trong lát nữa.” Điện thoại áp vào tai, Matt mở tập hồ sơ những công ty có tiềm năng thu mua mà Peter đã đưa cho anh. Tất cả chúng đều là các tổng công ty sở hữu các dãy bất động sản thương mại lớn, và Matt đã xem xét từng cái vào cuối tuần rồi. Anh rất hài lòng với vài lựa chọn của Peter, rất ấn tượng với sự nghiên cứu tĩ mỉ phi thường của cậu ta, và hơi choáng váng bởi một vài đề nghị của cậu ta. Khi gác điện thoại, Matt tựa người ra ghế và chăm chú nhìn Peter. “Cậu đặc biệt thích điều ở công ty Atlanta?”.
“Nhiều thứ lắm,” Peter trả lời, bị giật mình bởi câu hỏi vang lên đột ngột.
“Bất động sản của họ hầu hết là những tòa nhà thương mại cao tầng mới xây với tỉ lệ sử dụng cao. Hầu hết những người thuê ở đó là những công ty uy tín với hợp đồng thuê mướn lâu dài, và tất cả các tòa nhà được giữ gìn rất cẩn thận và quản lý tốt. Tôi chính mắt nhìn thấy chúng khi tôi bay đến Atlanta để kiểm tra chúng.”.
“Thế còn công ty Chicago thì sao?”.
“Họ đầu tư vào những chung cư cao cấp tại một vị trí hoàn hảo ở đây và lợi nhuận của họ rất cao.”.
Ánh mắt của Matt thu hẹp trên chàng trai trẻ khi anh thẳng thừng chỉ ra, “Từ những gì tôi có thể nhìn thấy trong tập hồ sơ này, nhiều tòa nhà của họ đã hơn ba mươi tuổi. Chi phí đổi mới và sửa chữa sẽ bắt đầu ăn dần vào lợi nhuận từ bảy đến mười năm.”.
“Tôi đã tính luôn chuyện đó khi tôi chuẩn bị bản lợi nhuận dự kiến trong hồ sơ,” Peter nói. “Hơn nữa, những miếng đất mà các toà nhà đó đang tọa lạc sẽ luôn đáng giá.”.
Hài lòng, Matt gật đầu và mở tập hồ sơ kế tiếp. Đó là bản kiến nghị đã làm anh tự hỏi liệu Peter có đúng là một thiên tài cùng với khả năng phán đoán của cậu ta hay không. Cau mày với Vanderwild qua tập hồ sơ, anh hỏi, “Điều gì đã làm cho cậu cân nhắc đến công ty Houston này?”.
“Nếu Houston cứ tiếp tục khôi phục từ sự trì trệ, giá bất động sản sẽ tăng lên và…”.
“Tôi nhận thức được điều đó,” Matt sốt ruột cắt ngang. “Những gì tôi muốn biết là tại sao cậu lại đề nghị chúng ta cân nhắc chuyện thu mua Thorp Development. Những người đọc tờ \’Wall Street Journal\’ ai cũng biết là công ty đó đã rao bán trong hai năm nay, và họ biết tại sao nó không bán được:
nó kêu bán với cái giá quá đắt và quản lý quá tồi.”.
Cảm giác như cái ghế anh đang ngồi thình lình trở nên có điện, Peter đằng hắng và kiên trì một cách bền bỉ, “Anh nói đúng, nhưng nếu anh chịu nghe tôi trình bày một lúc, anh có thể thay đổi ý kiến về việc muốn có nó.” Khi Farrell gật đầu dứt khoát, Peter tiến tới phía trước:
“Thorp Development được sở hữu bởi hai anh em thừa kế nó cách đây mười năm khi cha họ chết. Từ khi họ điều hành công ty họ đã đầu tư thất bại nhiều lần, và để có tiền đầu tư, họ đã thế chấp hầu hết các bất động sản mà cha họ đã thu mua trong suốt nhiều năm. Kết quả họ nợ ngập đầu với Continental City Trust ở Houston. Hai anh em không thể chịu đựng nhau, và họ không thể có cùng quan điểm trong bất cứ việc gì. Trong hai năm qua, một người thì đang cố gắng bán rẻ toàn bộ công ty với tất cả tài sản của nó cho bất cứ ai muốn mua trọn gói, trong khi người kia thì muốn chia cắt tài sản và bán rẻ từng mảnh cho bất cứ ai muốn mua. Tuy nhiên, lúc này họ không còn có bất cứ sự lựa chọn nào ngoại trừ thực hiện bán theo cách sau, và bán nhanh, vì Continental sắp sửa bắt đầu tịch thu.”.
“Làm thế nào mà cậu biết được tất cả những chuyện này?” Matt hỏi.
“Khi tôi bay đến Houston vào tháng Mười để thăm chị tôi, tôi đã quyết định xem xét Thorp kỹ hơn và kiểm tra một số bất động sản của họ. Tôi có được tên chủ ngân hàng của họ, Charles Collins, từ Max Thorp, và tôi liên minh với anh ta khi tôi quay về đây. Collins rất thiết tha muốn giúp Thorp tìm người mua, và anh ta cứ nói mãi. Trong khi trò chuyện, tôi bắt đầu nghi ngờ lý do mà anh ta quá sốt sắng có lẽ là vì anh ta muốn Thorp trả các món nợ trong sổ của anh ta.
Anh ta thúc giục tôi xem xét lại và chào giá với họ. Nếu chúng ta làm nhanh, tôi nghĩ chúng ta có thể mua được bất kỳ bất động sản nào của Thorp với cái giá thế chấp tài sản của họ, chứ không phải giá trị thực tế của chúng, vì Collins sắp sửa tịch thu và Thorp biết rõ chuyện đó.”.
“Chuyện gì làm cậu nghĩ là anh ta sắp sửa tịch thu?”.
Peter hơi mỉm cười. “Tôi gọi cho một chủ ngân hàng là một người bạn ở Dallas và hỏi anh ta xem anh ta có biết Collins tại Continental City Trust không.
Anh ta nói biết, và anh ta gọi một cuộc gọi điện thoại thân thiện với Collins, che đậy một cách khéo léo như để chia sẻ tình trạng tệ hại của nghiệp vụ ngân hàng ở Texas. Collins kể cho anh ta nghe những người giám sát ngân hàng đang gây áp lực với anh ta để tịch thu những số nợ lớn và không trả – bao gồm những tài sản của Thorp Peter ngừng lại trong sự im lặng chiến thắng, chờ một vài lời khen ngợi từ ông chủ không cảm xúc của anh cho sự tỉ mỉ và kết quả trong nghiên cứu của anh, và những gì anh nhận được là một nụ cười thoáng qua và hầu như là gật đầu như phê chuẩn. Anh có cảm giác như thể Chúa vừa mới ban phúc cho mình. Phấn chấn quá mức, Peter chồm người tới trên ghế. “Anh có muốn nghe thêm về một vài bất động sản mà Thorp sở hữu không? Vài cái trong chúng là những mảnh đất hoàn hảo có thể phát triển và bán được cả một gia tài.”.
“Tôi đang nghe,” Matt nói, mặc dù anh gần như không có hứng thú với việc mua và phát triển đất thô như anh thích mua những tòa nhà thương mại.
“Miếng đất tốt nhất trong số bất động sản của Thorp chiếm trọn mười lăm mẫu Anh, cách hai khu phố từ The Galleria là một trung tâm mua sắm sang trọng với khách sạn riêng. Cửa hiệu Neiman- Marcus nằm trong khu công nghiệp liên hợp Galleria, cửa hiệu Saks Fifth Avenue và nhiều cửa hàng bán quần áo thiết kế cao cấp gần đó, và xa lộ thì ở trong tầm nhìn. Bất động sản của Thorp nằm giữa hai trung tâm thương mại, và nó là một nơi hoàn hảo cho một cửa hiệu bách hóa tổng hợp chất lượng cao và khu phố buôn bán lớn nữa.”.
“Tôi đã từng nhìn thấy khu vực đó khi tôi đến đó công tác,” Matt nói thêm.
“Vậy thì anh chắc chắn biết sẽ là một giao dịch tốt nếu chúng ta có thể mua miếng đất đó với giá hai mươi triệu mà Thorp đang thế chấp. Chúng ta có thể tự đầu tư hoặc giữ lại miếng đất và sau này bán với một khoản lợi khá cao. Cách đây năm năm, nó đáng giá bốn mươi triệu. Nếu Houston cứ tiếp tục phục hồi nền kinh tế, thì nó sẽ có cái giá đó mau thôi.”.
Matt đang ghi chép nhanh phần lưu ý trong tập tin Thorp và đợi cho Peter nói xong để anh có thể giải thích anh thích Intercorp đầu tư vào các toà nhà thương mại hơn. Peter bổ sung thêm, “Nếu anh có hứng thú thì chúng ta phải hành động nhanh, vì cả Thorp lẫn Collins đều nói là họ đang mong chờ một lời chào mua cho bất động sản đó vào bất cứ lúc nào. Tôi đã nghĩ là họ đang cố đẩy đưa tôi cho đến khi họ đưa cái tên ra. Rõ ràng là Bancroft & Company, ngay Chicago, rất muốn có miếng đất đó, và thảo nào chẳng có nơi nào khác ở Houston giống nó cả. Mẹ kiếp, chúng ta có thể tóm được nó với giá hai mươi triệu và vài tháng nữa bán nó cho Bancroft với giá hai mươi lăm đến ba mươi triệu, đó là cái giá xứng đáng với giá trị của miếng đất.” Giọng của Peter mất hút vì đầu của Matt ngẩng lên và anh đang nhìn chằm chằm vào Peter với phản ứng rất kỳ lạ trên khuôn mặt.
“Cậu vừa nói gì?” Anh hỏi lại.
“Tôi nói rằng công ty Bancroft cũng dự định mua miếng đất đó,” Peter nói, đề phòng cái nhìn lạnh lùng, tính toán, vẻ đáng ngại trong mắt của Farrell. Nghĩ là Farrell muốn có thông tin chi tiết hơn, anh nhanh chóng thêm vào, “Bancroft giống như Bloomingdale hoặc Neiman- Marcus, những cửa hiệu cũ sang trọng với phần lớn khách hàng thuộc giai cấp thượng lưu. Họ đã bắt đầu bành trướng vào…”.
“Tôi chẳng lạ gì Bancroft,” giọng của Matt sít lại. Tia nhìn của anh chuyển sang tập hồ sơ của Thorp và anh nghiên cứu bản thẩm định miếng đất ở Houston với sự thích thú tăng cao. Anh ngắm những con số trên bản thẩm định, và anh nhận biết đất đai là một vụ giao dịch có tiềm năng về lợi nhuận. Nhưng lợi nhuận không ở trong tâm trí anh lúc này. Với sự tức giận, anh đang nghĩ về hành động của Meredith hôm tối thứ bảy.
“Mua nó đi,” anh nói nhẹ nhàng.
“Nhưng anh có muốn nghe thêm vài mảnh đất khác không?”.
“Tôi không có hứng thú với bất cứ mảnh đất nào ngoại trừ mảnh đất mà Bancroft muốn. Nói với bộ phận cố vấn luật pháp phác thảo một bản đề nghị, tùy thuộc vào người định giá của mình có đồng ý với người định giá của Thorp về giá trị của nó hay không. Chính anh sẽ đưa nó đến Houston vào ngày mai và trình bày.”.
“Ra giá à?” Peter hầu như nói lắp. “Bao nhiêu?”.
“Mười lăm triệu, và cho họ hai mươi tư tiếng đồng hồ ký hợp đồng, nếu không thì chúng ta sẽ hủy bỏ. Họ sẽ đòi hai mươi lăm. Đồng ý cái giá hai mươi, và bảo với họ là chúng ta muốn quyền sở hữu tài sản trong ba tuần nữa, hoặc vụ làm ăn hủy bỏ.”.
“Tôi thật sự không nghĩ…”.
“Còn có một điều kiện khác. Nếu Thorp đồng ý đề nghị của chúng ta thì họ phải giữ bí mật toàn bộ vụ giao dịch này. Không ai được biết là chúng ta đang mua miếng đất đó cho đến khi vụ mua bán được hoàn tất. Nói với ban cố vấn đưa tất cả những điều khoản đó vào hợp đồng, cùng với những tình huống bất ngờ bình thường khác.”.
Đột nhiên Peter cảm thấy không yên tâm. Trong quá khứ, khi Farrell có hứng thú hay muốn mua những công ty mà Peter đề xuất, anh ta không bao giờ chỉ dựa vào vài đề xuất của Peter. Ngược lại là khác. Anh ta tự mình kiểm tra và rất thận trọng. Lần này, tuy nhiên, nếu có gì sai lầm, Peter là người duy nhất và hoàn toàn chịu trách nhiệm. “Ông Farrell, tôi thật sự không nghĩ…”.
“Peter,” Matt cắt ngang với vẻ dứt khoát. “Mua bất động sản chết tiệt đó đi.”.
Gật gù, Peter đứng lên, nhưng sự lo lắng của anh đang càng lúc càng tăng.
“Điện cho Art Simpson tại bộ phận pháp lý của chúng ta ở California, đưa cho anh ta những điều kiện, và bảo anh ta là tôi muốn tờ hợp đồng ở đây vào ngày mai. Khi họ đến thì đưa họ vào đây và chúng ta sẽ thảo luận bước kế tiếp.”.
Khi Vanderwild rời khỏi, Matt xoay ghế của anh lại và nhìn ra cửa sổ. Rõ ràng, Meredith vẫn nghĩ về anh như một người thấp kém, dưới sự khinh miệt của cô. Cô có quyền làm vậy. Cô có quyền thể hiện rõ ràng những cảm nghĩ của cô cho tất cả những ai đọc báo chí ở Chicago, đó là những gì cô đã làm. Tuy nhiên, thực hiện các quyền đó sẽ làm cho cô sắp phải chi ra khoảng mười triệu đô- la… một cái giá cao hơn mà cô sẽ phải trả Intercorp cho miếng đất mà cô muốn ở Houston.
“Ông Farrell bảo tôi đem các bản hợp đồng này đến cho ông ấy ngay khi nhận được chúng,” Peter thông báo với bà Stern bằng giọng quyết đoán, vào cuối buổi chiều hôm sau.
“Trong trường hợp đó,” bà trả lời với cặp chân mày xám mỏng nhướng lên, “thì tôi đề nghị cậu nên làm ngay.”.
Tức giận vì lại thua bà ta thêm một lần nữa, Peter quay gót gõ vào cánh cửa bằng hồng mộc của Matt Farrell và mở nó ra. Trong tâm trạng rất muốn can ngăn Farrell đừng khăng khăng mua ngay miếng đất Houston, Peter không nhận ra Tom Anderson đang ngồi ở phía bên kia căn phòng rộng lớn, đang xem xét một bức tranh vừa mới được treo trên tường. “Ông Farrell,” Peter bắt đầu, “tôi phải nói với ông rằng tôi vô cùng lo lắng về vụ Thorp này.”.
“Cậu có mang bản hợp đồng đến không?”.
“Vâng, tôi có mang đến.” Miễn cưỡng, Peter trao bản hợp đồng cho Matt.
“Nhưng ít ra anh sẽ lắng nghe những gì tôi nói chứ?”.
Farrell gật đầu ra dấu cho Peter đến ngồi xuống một trong những chiếc ghế da màu đỏ sậm phía trước bàn của anh. “Ngồi đi, trong khi tôi đọc những thứ này, và sau đó cậu có thể nói những gì cậu muốn.”.
Trong sự im lặng căng thẳng, Peter nhìn Matt đọc những tài liệu dài, phức tạp cam kết việc Intercorp sẽ chi ra hàng triệu đô la mà không có chút phản ứng gì trên khuôn mặt của anh. Đột nhiên, Peter tự hỏi liệu người đàn ông này có bao giờ từng mắc phải những nhược điểm của con người như hối tiếc, sợ hãi, nghi ngờ, hay có một cảm xúc mãnh liệt nào khác không.
Kể từ khi Peter tham gia vào Intercorp, anh đã thấy khi Matt Farrell quyết định hoàn thành một việc gì, một khi anh ta đã quyết định, thì anh ta có thể giải quyết mọi rắc rối để giữ cho nhân viên của mình khỏi mất công chạy lòng vòng, gạt bỏ bất kỳ chướng ngại vật nào còn lại, và hoàn tất vụ giao dịch trong một hay hai tuần. Khi muốn đạt đến mục tiêu, anh ta đạp qua bất kỳ chướng ngại vật nào trên đường đi của anh ta, con người hay các doanh nghiệp, giống như một cơn gió lốc chết người – với sức mạnh kinh hồn và hoàn toàn không có cảm xúc.
Những người đàn ông khác làm việc ngay bên cạnh Farrell với vai trò là thành viên của “nhóm tái tổ chức” giỏi che đậy nỗi sợ hãi và việc không hiểu rõ ông chủ của họ hơn Peter nhưng Peter cảm thấy họ cũng có cảm nghĩ giống như anh. Cách đây hai đêm họ đã làm việc cho đến mười giờ khuya, và đã mời Peter đi ăn khuya cùng. Tom Anderson tới phút chót đã quyết định tiếp tục ở lại làm việc. Suốt bữa ăn tối đó lần đầu tiên Peter nhận ra một cách rõ ràng rằng không có người nào trong bốn người đàn ông đó biết Farrell nhiều hơn những gì mà bản thân anh biết. Chỉ có Tom Anderson dường như là có đặc quyền nhận được tình bằng hữu và lòng tin của Farrell, cho dù không ai biết làm thế nào mà ông ta có được nó.
Suy nghĩ của anh bị gián đoạn khi Farrell thay đổi hai điều khoản trong bản hợp đồng, ký nháy tại chỗ sửa rồi ký vào bản hợp đồng, và đẩy bản hợp đồng qua bàn cho Peter.
“Đây là tất cả những điều khoản cần phải sửa đổi. Cậu có vấn đề gì với vụ làm ăn này?”.
“Có một vài vấn đề, ông Farrell,” Peter trả lời, ngồi thẳng lưng trên ghế và cố gắng lấy lại thái độ quyết đoán trước đây của anh. “Trước hết, tôi có cảm giác anh xúc tiến vụ làm ăn này là bởi vì tôi đã làm cho anh tin rằng chúng ta có thể kiếm được lời nhanh và dễ dàng bằng cách bán lại đất cho Bancroft & Company. Hôm qua, tôi nghĩ đó là việc chắc chắn sẽ xảy ra, nhưng tôi đã nghiên cứu hoạt động của Bancroft cả ngày rưỡi qua, xem qua bản báo cáo tài chính của họ, và tôi cũng đã gọi vài cuộc điện thoại đến một số bạn bè của tôi trên Phố Wall. Cuối cùng tôi đã nói chuyện với một người biết rõ Philip và Meredith Bancroft…”.
“Và?” Farrell thắc mắc một cách bình thản.
“Và bây giờ tôi không tự tin hoàn toàn là Bancroft & Company sẽ có đủ tài chính để có thể mua miếng đất Houston. Dựa trên mọi thứ tôi tìm hiểu được, tôi nghĩ là họ đang gặp rắc rối nghiêm trọng.”.
“Rắc rối gì?”.
“Giải thích dài dòng lắm và tôi chỉ có thể phỏng đoán, dựa trên những dữ liệu tôi có được và linh cảm của tôi.”.
Thay vì nhiếc móc anh vì không đi thẳng vào vấn đề, Farrell nói, “Nói tiếp đi.”.
Hai lời khuyến khích nhỏ tống khứ đi sự ngần ngại của Peter, và anh trở nên tự tin, bộ não thiên tài trong lĩnh vực đầu tư của anh ngay lập tức hoạt động lại.
“Vâng, đây là tóm tắt chung:
trước đây vài năm, Bancroft có một vài cửa hiệu trong khu vực Chicago, và công ty này gần như là dậm chân tại chỗ. Kỹ thuật tiếp thị của họ rất lỗi thời, nhóm quản lý của họ trông cậy quá nhiều vào ‘uy tín’ thương hiệu, và họ, giống như khủng long đang trên đà tuyệt chủng. Philip Bancroft, người vẫn còn là Tổng giám đốc, điều hành cửa hiệu như một người cha giống như một triều đại gia đình không cần thay đổi theo xu hướng thời đại.
Rồi cô con gái của ông ta – Meredith – thay vì tiếp tục học một cái gì đó và cống hiến cho xã hội, cô ta quyết định rằng cô ta muốn giành lấy vị trí thuộc về mình tại Bancroft. Cô ta vào đại học, chuyên ngành bán lẻ, tốt nghiệp với tấm bằng xuất sắc, và lấy được bằng cao học… nhưng không việc nào làm cho cha cô ta thích cả. Ông ta cố dập tắt ý tưởng vào làm việc cho Bancroft của cô con gái bằng cách buộc cô ta bắt đầu làm ở cửa hiệu như một nhân viên trong bộ phận đồ lót.”.
Ngừng lại trong chốc lát, Peter giải thích, “Tôi đang nói với anh tất cả những gốc gác để anh hiểu được ai chính là người lèo lái cửa hiệu… thật sự.”.
“Tiếp tục đi,” Farrell nói, nhưng anh nghe có vẻ chán – anh nhặt lên một bản báo cáo trên bàn và bắt đầu đọc.
“Trong những năm tiếp theo,” Peter tiếp tục một cách dai dẳng, “Meredith Bancroft làm việc và leo lên từng cấp bậc, và dọc đường cô ta học được rất nhiều điều liên quan đến chuyện bán lẻ. Khi được đề cử vào bộ phận hàng hóa, cô ta bắt đầu thúc đẩy Bancroft bán hàng với nhãn hiệu riêng của mình – một việc mang lại lợi nhuận cao mà lẽ ra họ nên làm từ lâu. Khi ý tưởng đó sinh ra lợi nhuận cao, ông bố đưa cô qua bộ phận đồ gỗ đang thua lỗ trong cửa hiệu.
Thay vì thất bại ở đó, cô ta xúc tiến làm một quầy bảo tàng đồ cổ, đặc biệt, nó được báo chí tán thưởng và kéo rất nhiều người mua đến cửa hiệu để xem những món đồ cổ, mà thật ra là mượn từ viện bảo tàng. Trong khi ở đó, người mua theo lẽ tự nhiên đi lang thang đến các bộ phận đồ gỗ thường xuyên hơn, và đột nhiên họ mua sắm đồ đạc bằng gỗ ở Bancroft thay vì tại cửa hàng đồ gỗ ở ngoại ô.”.
“Ông bố sau đó đưa cô ta lên làm quản lý của bộ phận quan hệ công chúng, là một vị trí vô nghĩa chỉ hơi liên quan đến việc phê duyệt những khoản quyên góp thỉnh thoảng gửi đến cho một số nhà từ thiện và giám sát buổi trình diễn Giáng Sinh hàng năm trong hội trường. Cô Bancroft bắt đầu tổ chức những sự kiện đặc biệt hàng năm để thu hút người đi mua sắm vào cửa hiệu… nhưng không chỉ là những việc thông thường như những cuộc trình diễn thời trang. Cô ta sử dụng sự quen biết của gia đình mình trong xã hội với ban nhạc giao hưởng, opera, bảo tàng tranh, v.v… Ví dụ, cô ta đã làm cho viện bảo tàng Chicago Art di chuyển một khu triển lãm tranh vào cửa hiệu, và cô ta còn nói chuyện với những nghệ sỹ ballet biểu diễn vở \’Kẹp hạt dẻ\’ vào mùa Giáng Sinh trong hội trường của cửa hiệu. Tự nhiên, tất cả những việc đó gây ra tiếng vang trong giới truyền thông, mà lần lượt, làm cho nhiều người Chicago biết về Bancroft & Company hơn, thậm chí làm cho cửa hiệu trở nên quen thuộc hơn với mọi người. Người đi mua sắm bắt đầu đến cửa hiệu với con số kỷ lục, và cha cô ta chuyển cô ta qua bộ phận thời trang, nơi mà cô ta còn thể hiện vượt trội hơn. Ở đó, thành công của cô ta có lẽ là do diện mạo cũng như năng khiếu đặc biệt về thời trang. Tôi đã từng nhìn thấy những tờ báo in hình cô ta, cô ta không chỉ lịch lãm, mà còn hấp dẫn nữa. Một vài nhà thiết kế Châu Âu rõ ràng cũng đã nghĩ vậy, khi cô ta đi đến đó để thảo luận với họ về việc để cho Bancroft độc quyền bán mặt hàng của họ. Một người đã chấp thuận để cho Bergdorf Goodman độc quyền kinh doanh… anh ta đã đồng ý dành cho Bancroft quyền đại diện, với một yêu cầu là cô Bancroft xuất hiện trong chiếc đầm dạ tiệc của anh ta. Sau đó anh ta thiết kế toàn bộ bộ sưu tập cho cô ta, mà đương nhiên cô ta sẽ chụp ảnh tại các buổi tiệc xã giao khác nhau trong xã hội. Giới truyền thông và công chúng trở nên điên cuồng khi họ nhìn thấy cô mặc quần áo do anh ta thiết kế, và từng đoàn phụ nữ bắt đầu kéo đến các bộ phận bán đồ thiết kế của Bancroft. Lợi nhuận của nhà thiết kế châu Âu tăng, lợi nhuận của Bancroft tăng, và nhiều nhà thiết kế khác chạy theo phong trào và mang hàng của họ từ những cửa hàng khác đến bán ở Bancroft.”.
Farrell gửi cho anh cái nhìn hết kiên nhẫn qua bản báo cáo anh đang đọc.
“Anh nói tất cả những chuyện này để làm gì?”.
“Bây giờ tôi đang đi vào vấn đề chính đây:
Meredith Bancroft là một người buôn bán, như tổ tiên của cô ta, nhưng tài năng đặc biệt của cô ta thật ra là ở việc mở rộng và hoạch định cho tương lai, và đó là chuyện mà cô ta đang tiến hành vào lúc này. Bằng cách nào đó, cô ta đã thuyết phục được cha cô ta và ban quản trị Bancroft, những người chấp nhận mọi chuyện ngoài việc tiến lên, lao vào một chương trình mở rộng và mở cửa hiệu tại những thành phố khác. Để tài trợ cho kế hoạch đó, họ cần hàng trăm triệu đô la và đã làm theo cách thông thường – vay mượn những gì họ có thể từ ngân hàng, sau đó đem công ty ra với công chúng và bán cổ phiếu trên thị trường chứng khoán New York.”.
“Tất cả những chuyện này thì có khác biệt gì?” Farrell hỏi ngay.
“Nó sẽ không có bất cứ sự khác biệt nào ngoại trừ hai điều anh Farrell:
họ đã mở rộng quá nhanh đến nỗi hầu như phải cầm cố hết mọi thứ họ có, và họ đang sử dụng hầu hết lợi nhuận để mở thêm cửa hiệu. Kết quả là không có nhiều tiền mặt dự trữ khi có những ảnh hưởng kinh tế lớn. Thực ra, tôi không biết làm thế nào mà Bancroft có thể trả tiền cho miếng đất Houston. Thứ hai, dạo này có nhiều sự thôn tính với một loạt cửa hàng bách hoá lớn nuốt lẫn nhau. Nếu ai đó muốn tiếp quản Bancroft, họ không có khả năng đấu tranh để giữ được nó.
Bancroft đã chín muồi cho một sự tiếp quản. Và,” Peter nói rõ, nhấn mạnh tầm quan trọng của những gì anh sắp sửa nói, “tôi nghĩ có người đã nhận thấy điều này.”.
Peter quan sát vẻ kỳ quặc hiện lên trên khuôn mặt của Farrell, một phản ứng có thể là thích thú hay là thoả mãn. “Có thật không?”.
Peter gật đầu, hơi bối rối bởi phản ứng kỳ lạ của Matt với những tin tức đáng báo động như thế. “Tôi nghĩ có ai đó đã bí mật bắt đầu mua hầu hết các cổ phần trong công ty Bancroft mà họ có thể chạm tay vào, họ đã và đang mua chúng với số lượng nhỏ từng đợt để không báo động Bancroft hoặc Phố Wall hoặc SEC.” Ra dấu về phía ba màn hình máy tính trên tủ ở đằng sau bàn, Peter nói, “Tôi có thể dùng máy không?”.
Farrell gật đầu và Peter đứng dậy đi đến tủ. Hai máy tính đầu tiên xử lý thông tin báo cáo từ các bộ phận Intercorp, và màn hình bật sáng với những dữ liệu Farrell vừa xem lúc nãy. Màn hình máy tính thứ ba trống không, và Peter sử dụng nó để nhập mật mã và những yêu cầu như anh dùng trong văn phòng mình. Một lát sau, mức điểm trung bình của Dow Jones hiện lên màn hình. Cắt ngang màn hình đó, Peter nhập vào một số yêu cầu khác và màn hình thắp sáng với đề mục:
LỊCH SỬ KINH DOANH:
MÃ GIAO DỊCH CỦA BANCROFT & COMPANY THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN NEW YORK “Nhìn này,” Peter chỉ cột dữ liệu trên màn hình. “Sáu tháng trước, cổ phiếu của Bancroft gần như đã được giao dịch trong hai năm… bán ở cái giá mười đôla một cổ phiếu. Cho đến lúc đó, số cổ phiếu trung bình buôn bán trong một tuần là một trăm ngàn. Bây giờ trông này,” anh nói, di chuyển ngón tay xuống cột bên trái. “Trong sáu tháng vừa rồi nó từ từ đi lên, cho đến bây giờ thì gần mười hai đô la một cổ phiếu, và khối lượng cổ phiếu giao dịch đạt đỉnh ít nhất một lần mỗi tháng.”.
Anh ấn phím khác, và màn hình chuyển sang đen, sau đó anh quay lại phía Farrell, cau mày. “Chỉ là một linh cảm, nhưng tôi nghĩ ai đó… một công ty nào đó… có thể đang cố nắm quyền kiểm soát công ty.”.
Matt đứng lên, đột ngột chấm dứt cuộc thảo luận. “Hoặc vậy hoặc các nhà đầu tư chỉ nghĩ đơn giản Bancroft & Company là một đầu tư lâu dài tốt. Chúng ta sẽ tiến hành với việc mua miếng đất Houston.”.
Peter, nhận ra là mình đã bị gạt đi, buộc lòng phải nhặt tờ hợp đồng đã ký trên bàn và nói những gì anh nghĩ. “Anh Farrell,” anh nói lưỡng lự, “tôi đã và đang phân vân không biết tại sao anh lại gửi tôi đến Houston để xử lý những cuộc đàm phán này… Nó không phải là sở trường của tôi…”.
“Đây không phải là một vụ giao dịch khó giải quyết,” Matt nói với nụ cười trấn an. “Và nó sẽ giúp cậu mở rộng kinh nghiệm. Như tôi nhớ lại, đó là một phần của lý do mà cậu đưa ra khi cậu muốn gia nhập vào Intercorp.”.
“Vâng, thưa anh, đúng vậy,” Peter trả lời, nhưng niềm tự hào của anh khi Farrell rõ ràng rất tin cậy giao cho anh xử lý mọi chuyện bất chợt bị thổi bay khi Farrell bổ sung, lúc Peter chuẩn bị bước ra cửa, “Đừng thất bại đấy, Peter.”.
“Anh yên tâm,” Peter đảm bảo với Matt, nhưng anh rùng mình bởi những lời cảnh báo ngầm trong giọng nói của Farrell.
Tom Anderson, người đã lặng lẽ đứng gần cửa sổ trong suốt cuộc nghị luận của Vanderwild, nói ngay khi anh ta vừa rời khỏi, “Matt,” ông nói với cái chắt lưỡi khi ông quay về với chiếc ghế bị bỏ trống phía trước bàn của Matt, “anh làm cho thằng nhóc đó sợ khiếp vía đấy.”.
“Thằng nhóc đó,” Matt chỉ ra bằng một giọng chua chát, “có chỉ số IQ là một trăm sáu mươi lăm, và cậu ta đã kiếm được vài triệu đôla cho Intercorp. Cậu ta đang chứng minh là một đầu tư tuyệt vời.”.
“Và miếng đất ở Houston cũng là một đầu tư tuyệt vời hả?”.
“Tôi nghĩ vậy.”.
“Tốt,” Tom trả lời, ngồi xuống và duỗi chân trước mặt. “Vì tôi sẽ không thích nghĩ là anh đang chi quá nhiều tiền chỉ để trả đũa một cô gái đã sỉ nhục anh trước mặt phóng viên.”.
“Tại sao đột nhiên anh lại kết luận như thế?” Matt hỏi, nhưng có một tia nhìn thích thú mỉa mai trong mắt anh.
“Tôi không biết. Hôm chủ nhật, tôi có đọc trên báo thấy có một cô gái tên Bancroft đã tặng cho anh sự lạnh lùng ở buổi diễn opera. Và đêm nay, anh ở đây, ký một tờ hợp đồng mua cái mà cô ta muốn cho bản thân cô ta. Nói cho tôi biết đi Intercrop sẽ phải trả bao nhiêu cho miếng đất đó?”.
“Có lẽ là hai mươi triệu.”.
“Và cô Bancroft sẽ tốn bao nhiêu để mua nó từ chúng ta?”.
“Cao hơn rất nhiều.”.
“Matt,” ông nói lè nhè với vẻ ngẫu nhiên dễ làm cho người khác lầm lẫn, “anh có nhớ cái đêm cách đây tám năm, khi việc ly hôn giữa tôi và Marilyn kết thúc không?”.
Matt bị bất ngờ bởi câu hỏi đó, nhưng anh nhớ thời gian đó. Vài tháng sau khi Tom bắt đầu làm việc cho anh, vợ của Tom đột ngột tuyên bố rằng bà ta có một cuộc tình mới và muốn ly hôn. Quá sĩ diện để khẩn cầu và quá tổn thương để tranh đấu, Tom đã dọn đồ của ông ra khỏi căn nhà của họ, nhưng ông đã tin là cho đến ngày ly dị thì bà sẽ thay đổi suy nghĩ. Vào ngày hôm đó Tom không đi làm hoặc gọi điện thoại, và đến sáu giờ tối thì Matt hiểu tại sao… Tom gọi từ đồn cảnh sát, nơi ông bị bắt giữ chiều hôm đó vì tội say rượu và gây rối.
“Tôi không nhớ nhiều lắm về đêm đó,” Matt thừa nhận, “ngoại trừ chuyện chúng ta cùng uống say sưa với nhau.”.
“Tôi thì đã say,” Tom sửa lại một cách nhăn nhó, “sau đó anh bảo lãnh tôi ra khỏi tù, và cả hai chúng ta cùng say.”.
Quan sát kỹ Matt, ông tiếp tục. “Tôi có một ký ức mơ hồ về chuyện anh đã động lòng với nỗi bất hạnh của tôi đêm đó, bằng cách giải thích dài dòng về một cô gái tên Meredith người đã phụ tình anh, hoặc cái gì đó. Có điều anh không gọi cô ta là một cô gái, mà là một con chó cái nhỏ hư hỏng. Tại thời điểm trước khi tôi ngất đi, anh và tôi đã cùng đồng ý một cách say xỉn là những ả đàn bà có cái tên bắt đầu với chữ M đều không tốt cho bất kỳ ai.”.
“Trí nhớ của anh rõ ràng là tốt hơn tôi,” Matt nói với vẻ lẫn tránh, nhưng Tom nhìn thấy quai hàm Matt bạnh ra khi nghe nhắc đến tên của cô ta, và ông nhảy bổ vào một kết luận ngay tức thì và chính xác.
“Vì vậy,” ông tiếp tục với nụ cười rộng miệng, “bây giờ khi chúng ta đã xác minh cái cô Meredith đêm đó thật ra là Meredith Bancroft, anh có muốn kể cho tôi nghe chuyện gì đã xảy ra giữa hai người mà khiến cho các người vẫn còn ghét nhau không?”.
“Không,” Matt nói. “Không đâu.” Anh đứng lên và đi đến bàn để cà phê, nơi anh đã trải ra bản vẽ kỹ thuật của nhà máy ở Southville. “Hãy thảo luận cho xong chuyện của chúng ta về Southville đi.”.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.