Nhà Tiên Tri Cuối Cùng

CHƯƠNG 18: NGÀY 7 THÁNG 9,10:38 AM THÀNH PHỐ PRIPYAT, UKRAINA



Gray buộc chặt chiếc thắt lưng đen qua lớp áo khoác chiến trường của Nga, bộ quân phục ngụy trang đường rừng. Đôi ủng được giậm xuống nền đất cho thêm phần chắc chắn. Kowalski đưa cho ông chiếc mũ lông dày. Bộ quân phục đánh cắp khá vừa vặn và tươm tất với ông nhưng có vẻ như chỉ may sắp bung ra trên cơ thể người cộng sự. Hai tên lính Nga bị trói trước cổng chỉ còn lại trang phục lót trên người. Việc hạ gục bất ngờ không mấy khó khăn, hai bộ đồng phục trở thành chiến lợi phẩm.
“Đi thôi,” Gray tiến về chiếc mô tô.
“Súng săn,” Kowalski reo lên.
Gray liếc nhìn sang, nhận ra thứ anh chàng đang nói đến không phải là vũ khí. Họ đều mang bên mình súng trường tấn công AN-94 của Nga.
Kowalski quan sát thùng xe gắn trên chiếc mô tô ba bánh IMZ-Ural. “Lúc nào tôi cũng ước mơ được lái kiểu xe này,” anh chàng trèo ngay vào đấy.
Gray khoác súng, leo lên vị trí lái xe.
Một lúc sau, động cơ gầm vang, băng qua những cánh cổng nhà tù cũ nát, hướng về phía đường lộ rải rác cỏ dại của thành phố Pripyat. Gray nhìn đồng hồ đeo tay. Hai mươi phút.
Cúi thấp người, ông kéo ga tăng tốc, lướt đi giữa lòng thành phố hoen màu u ám. Nhựa đường nứt toác, những mảnh kính vỡ vụn đe dọa vòng quay bánh xe. Ở mỗi góc họ đều gặp phải những trở ngại không lường: bộ khung xe hơi gỉ sét nằm vạ vật, đồ dùng nội thất bám đầy rêu, thậm chí cả đống nhạc cụ kỳ quái.
Mặc cho độc hại bủa vây, Gray lái với tốc độ chóng mặt, đủ để nhấc thùng xe lên khỏi mặt đất ở những khúc cua. Mỗi lần rẽ, Kowalski lại khẽ reo hò. Họa hoằn lắm họ mới vượt qua một lính tuần tra trên đường và được bồng súng đón chào; có lần Gray còn nhìn thấy lấp ló sau khung cửa sổ vỡ nát, một con chim ăn xác thối đi lạc trong thành phố.
Đến vùng ngoại ô, Gray tăng tốc hướng thẳng về phía chân trời, vượt qua ba con hươu đang nối đuôi nhau chạy trốn trên những bước nhảy. Mục tiêu là cột tháp thông gió của lò phản ứng. Qua tiếng gầm của động cơ, ông vẫn nghe thấy những quãng âm thanh khuếch đại vọng lại từ khán đài. Theo như Masterson, Thượng nghị sĩ Nicolas Solokov đang lên kế hoạch tấn công những chức sắc có mặt tại đây chứng kiến lễ niêm phong lò phản ứng Chernobyl.
Nhưng kế hoạch là gì?
Hình hài của Chiến dịch Thiên Vương Tinh ra sao?
Lúc Gray chạm tới con đường mới trải nhựa, ông quan sát đống đổ nát cao ngất của Chernobyl hiện ra ngay trước mắt. Ông bị thu hút bởi thứ gì đó trông như túp lều Quonset khổng lồ nằm một bên. Mái vòm bằng thép biến thành tấm gương phản chiếu ánh mặt trời buổi sáng.
Đang dịch chuyển.
Nắng phủ lên những đường cong, trông như mảng dầu loang trên nước. Nó từ từ ôm lấy lò phản ứng Chernobyl. Khu phức hợp bê tông khoác lớp áo trắng xám, bức tường to lớn đen ngòm nhô cao một bên như chiếc răng sâu. Đó chính là nấm mồ dành cho lò phản ứng số bốn, cỗ Quan tài đen khổng lồ. Mái che di động đang chờ để nuốt gọn công trình nằm dưới vòm thép lồng lộng.
Càng gần, tâm trí Gray càng rối bời suy nghĩ. Archibald Polk chết vì phóng xạ cấp tính, có thể là nhiễm độc ngay tại đây. Chắc chắn hoạch định của Nicolas có liên quan đến lò phản ứng cũ. Mọi khả năng khác đều vô nghĩa.
Masterson cảnh báo rằng hàng rào an ninh bên ngoài sẽ nghiêm ngặt vì có sự tham dự của đông đảo các lãnh đạo cấp cao. Khu vực này cách lò phản ứng một phần tư dặm. Gray cân nhắc con đường phải đi: tiến về khán đài hay lò phản ứng. Nếu dự đoán về lò phản ứng của ông là sai lầm? Có khi nào bom được đặt giữa những khán đài?
Khi xe chạy qua bãi trống nằm giữa Pripyat và Chernobyl, ông nghe thấy một giọng nói trầm vang lên từ loa phát thanh, ca ngợi những thành quả của vấn đề hợp tác hạt nhân trong thế giới mới. Không còn nhầm lẫn nữa. Gray đã tham dự vài sự kiện ở Nhà Trắng.
Tổng thống Hoa Kỳ.
Gray ghi nhớ điều này. Cơ quan Mật vụ chắc chắn đã thăm dò khu vực, rà soát nhiều lần, áp dụng thủ tục an ninh nghiêm ngặt. Thêm nữa, Mật vụ sẽ cài gián điệp ở tất cả các hướng quanh lò phản ứng để loại trừ các mối đe dọa.
Gray quan sát biển số của các phương tiện lẫn rừng ăng ten thu vệ tinh. Khu vực khán đài bị bao vây bởi hàng rào, cổng và lính tuần tra – đi bộ hoặc trực chiến trên xe jeep. Gray ngờ rằng khả năng ngụy trang sẽ bị phát hiện nếu vượt qua. Ông không có chứng minh thư lẫn giấy thông thành dành riêng cho sự kiện.
Trong lúc cân nhắc những chọn lựa, ông tăng tốc hướng về khu đất rộng lớn, kinh ngạc bởi quy mô tuyệt đối của công trình. Mái che bằng thép đồ sộ chậm rãi lăn theo hai đường ray nhờ sức kéo của những đòn bẩy thủy lực kích cỡ con cá voi. Nó đã tiến sát và bắt đầu phủ lấy lò phản ứng chết chóc, lớp thép dày đen kịt dưới ánh nắng, tượng Nữ thần Tự Do nếu đứng trên vai mình cũng không thể nào đụng tới nóc của mái vòm.
Ngay cả Kowalski cũng phải chép miệng khen ngợi vẻ hoành tráng của công trình di động. Anh chàng vươn người hỏi to. “Kế hoạch là gì khi ta…?”
Gray lấy tay bịt miệng anh chàng (lái xe thì sao bịt miệng nhỉ?:-)).Một giọng nói khác xen giữa bài phát biểu của tổng thống. Người phát ngôn này cũng rất quen thuộc, ông nói tiếng Nga, rồi lặp lại bằng tiếng Anh trước đông đảo quan khách quốc tế.
Giọng nói của Thượng nghị sĩ Nicolas Solokov. “Tôi phản đối trò hề này!” Giọng ông ta sang sảng. “Tất cả chúng ta hiệndiện ở đây để chúc mừng cho việc xóa bỏ mảng lịch sử đáng hổ thẹn của Nga – che giấu nó, như nó chưa từng xảy ra, loại bỏ nó đằng sau một tấm lưới thép. Vậy còn những người đã hy sinh trong vụ nổ, hàng trăm con người chịu số phận bất hạnh vì ung thư và bệnh bạch cầu, hàng ngàn đứa trẻ sinh ra dị dạng, đau đớn, thiểu năng? Ai sẽ nói thay cho họ?”
Khoảng cách đã đủ gần để Gray nhìn thấy sân khấu dựng trước khán đài hình tròn. Quá nhỏ để nhận ra, nhưng bên sườn sân khấu có đặt những màn hình khổng lồ, một bên là tổng thống Nga, bên kia là nhà lãnh đạo Mỹ. Mỗi tổng thống đứng sau một bục phát biểu. Ngay giữa sân khấu còn một nhân vật khác. Nicolas Solokov. Nhân viên an ninh cố gắng lôi ngài thượng nghị sĩ ra khỏi sân khấu trong khi một số người khác lại bảo vệ quyết liệt để ông ta phát biểu. Nicolas chắc hẳn đã xông lên sân khấu hòng đưa ra lời phản đối ấn tượng này.
Nhân viên an ninh trong trang phục đen vây quanh hai vịtổng thống.
Kế hoạch của Nicolas đã bắt đầu. Gray cúi người tăng tốc. Chiếc xe lao vụt xuống mặt đường rải nhựa hướng về khán đài. Điều chỉnh micrô, Nicolas tiếp tục sang sảng. “Tất cả mọi người tin rằng chiếc quan tài đẹp đẽ này là đánh dấu kết thúc cho một di sản đổ vỡ, nhưng tất cả chỉ là giả tạo! Con quái vật đã sổng chuồng! Cho dù khóa có lớn, thép có cứng bao nhiêu thì cũng không ai ngăn được con quái vật đằng sau lớp song sắt. Kết thúcduy nhất dành cho di sản chỉ là cơ bản thay đổi thái độ của chúng ta, lập ra một chính sách thực tế và bền vững. Buổi lễ này không gì khác hơn là một trò chơi tẻ nhạt! Mang tính kiểu cách, thiếu thực tế! Chúng ta nên cảm thấy hổ thẹn!”
Cuối cùng, nhân viên an ninh cũng áp đảo được những nhân vật ủng hộ thượng nghị sĩ, tước lấy micro từ tay Nicolas. Ông ta bị kéo lê khỏi sân khấu.
Tổng thống Nga bắt đầu phát biểu bằng tiếng mẹ đẻ, có vẻ giận dữ pha lẫn áy náy. Tổng thống Mỹ ra hiệu cho các đặc vụ giải tán, không muốn bản thân bộc lộ sợ hãi trước một chính trị gia khoe khoang. Diễn văn được khởi động lại.
Sau lưng họ, mái vòm tiếp tục nuốt chửng lò phản ứng.
Gray đi chậm lại. Ông vẫn còn phải lựa chọn giữa quyết định tiến về khán đài hay lò phản ứng. Ông xem xét phản ứng của Nicolas, cách ông ta rút lui. Rõ ràng là vở kịch khéo léo. Viên thượng nghị sĩ đã sắp đặt một lý do để không có mặt tại sự kiện, để an toàn rút lui. Nhưng về đâu? Không thể là tình cờ bỏ đi. Không thể bị vây hãm trong hiểm nguy. Người kéo Nicolas khỏi sân khấu phải là nhân viên của ông ta và đang đưa ông ta đến nơi an toàn.
Từ đằng xa, phía bến đỗ của những chiếc xe lưu động, Gray phát hiện một chiếc xe jeep quân đội màu xanh lá cây đang lao vọt ra khỏi khu vực truyền thông. Nó tiến về con đường đất song song với đường ray cao hai mét rưỡi nằm dưới mái vòm khổng lồ. Con đường bạc màu đi về hướng cách xa lò phản ứng, đoạn cuối ngoặt vào mặt sau của khu phức hợp. Gray nhận ra nhân vật chính.
Nicolas.
Ông ngước nhìn lên. Cấu trúc bằng thép chói chang giờ đã bọc lấy một nửa cỗ Quan tài đen ngòm. Mười lăm phút nữa hầm mộ sẽ bị che khuất. Khán đài nằm cách đó một phần tư dặm.
Gray buộc phải lựa chọn.
Ông hình dung Nicolas Solokov lúc ngồi sau chiếc bàn thẩm vấn trong lán canh.
Lời phát biểu tự tin và ngạo mạn trong bài diễn văn kiểu cách cho thấy cái tôi muốn nắm giữ quyền lực của con người ấy đang lan tỏa.
Nicolas muốn được chứng kiến những điều sẽ diễn ra.
Nhưng tại sao ông ta lại đi về phía sau lò phản ứng?
Trừ khi…
Gray cho xe băng qua mặt đường rải nhựa, đâm ngang bãi trống, ông hướng thẳng đến khúc cua với ý định chặn đứng chiếc xe.
“Pierce!” Kowalski hét lên. “Ta đi đâu vậy?”
“Đi cứu tổng thống.”
“Nhưng khán đài đằng này mà!” Kowalski chỉ tay về hướngđối diện.
Gray phớt lờ, chiếc chiến mã vẫn lao đi giữa bãi đất hoang trải dài. Kowalski bám chặt vào tay vịn. Gray kéo ga tăng tốc. Bùn và cỏ loạt soạt phía sau.
Chiếc xe jeep bon bon trên quãng đường gần bốn trăm mét trước mặt. Đã gần kề mục tiêu. Gray vẫn như một quả bóng lăn khỏi mặt đường.
Họ bị phát hiện.
Một tay súng nhắm về hướng họ. Từ khoảng cách xa, có vẻ như Gray và Kowalski là những tên lính Nga đang hứng khởi dạo chơi. Hoài nghi bao trùm lên chiếc jeep. Không thể khác hơn.
“Kowalski!”
“Gì vậy?”
“Anh có thể bắn hạ một lốp xe khi họ rẽ phải không?”
“Ông điên à?” Giọng anh chàng lắc lư theo tình trạng củachiếc xe.
“Giữ chặt vào.”
Gray bẻ lái, rẽ vào bãi đất bồi khô cằn. Triều cường đã san phẳng mặt đường. “Bắn đi!” Ông ra lệnh cho Kowalski.
Anh chàng to lớn đã sẵn sàng. Kowalski tì vào thùng xe, nâng súng trên vai. Gray nghe thấy tiếng anh chàng nựng nịu khẩu súng. “Cưng ơi, khiến Bố yêu tự hào đi nhé.”
Chiếc jeep vừa chạm đến khúc ngoặt, chầm chậm chuyển hướng. Khúc cua khó nhằn khiến tài xế phải giữ chặt tay lái.
Hai tiếng nổ đanh thép phát ra từ thùng xe. Khẩu AN-94 của Nga hoàn thành nhiệm vụ sau hai cú siết cò. Chiếc jeep bất ngờ bật lên mất kiểm soát, lốp bên trái phía sau bốc khói, bung vành. Nó trượt sang một bên, đâm sầm vào cột bê tông cuối đường.
Kowalski hú lên sung sướng, xoa xoa khẩu súng. “Cảm ơncưng nhé!”
Chiếc mô tô rời khỏi bãi bồi, quay trở lại địa hình cằn cỗi. Bánh xe xuyên qua lớp đá vụn, mất vài giây để leo lên mặt đường.
Chiếc xe jeep của Nga nằm im lìm, một bên bẹp rúm, tên lính ngồi phía trước chết tại chỗ. Ba người còn lại đã thoát ra, rút lui sau hàng rào bê tông đổ nát, vài lán kim loại nhỏ dựng lên giữa hai trục đường ray.
Tiếng vỗ tay từ khán đài, tiếng reo hò cổ vũ vang lên khi Gray đến gần. Buổi lễ đã đến cao trào. Bị bao vây bởi tiếng ồn xung quanh, Gray hầu như không nghe được những phát đạn nhắm vào họ. Lốp trước của chiếc xe nổ tung, nhưng Gray đã đoán trước được vụ tấn công nên đã dừng lại từ khoảng cách khá xa chiếc jeep vừa bị hạ gục. Ông gạt chân chống, cho xe đứng nghiêng một bên.
Kowalski cũng nhào xuống, cả hai cùng nhau nấp sau chiếc xe bẹp rúm.
Vài viên đạn nữa bay vèo phía trước chiếc jeep.
Gray liều lĩnh nhìn hé qua chắn bùn phía sau. Ông phát hiện một nhân vật mặc com lê đang tháo chạy về phía trục đường ray xây bằng bê tông và thép cao hai mét rưỡi.
Nicolas Solokov lao nhanh trên đoạn đường khoảng ba trăm mét để tiến về mục tiêu – phần cổng chắn của mái vòm di động. Gray toan nhắm bắn nhưng một tiếng nổ bỗng đập vào thanh giảm chấn, dội lại bên tai. Ông thoáng thấy khẩu súng lục bốc khói đang giơ cao trên tay người phụ nữ có mái tóc đen nhánh.
Là Elena.
Ông lùi lại, nguyền rủa.
Kowalski kêu rên vì phát đạn sượt qua vai.
Elena cùng một tên lính đã giữ chân họ lại.
Gray kiểm tra đồng hồ.
Còn mười phút.
Nicolas nghe tiếng súng nổ sau lưng, cố chạy vào khoảng giữa hai đường ray nhưng mắt cá chân bên trái đã bị trẹo sau cú đâm xe. Ông ta phải hoàn toàn phụ thuộc vào nỗ lực của Elena.
Hai công nhân đi bộ ở mặt sau căn hầm thép. Kiến trúc khổng lồ vẫn chầm chậm lăn mình dọc đường ray, nhích được khoảng ba mươi centimét mỗi phút trên vòng đệm Teflon, hai bên được kéo bởi những đòn bẩy thủy lực khổng lồ.
Một lối đi công vụ rộng bằng cửa gara mở sẵn phía trước, dẫn vào bên trong bức tường đồ sộ. Lý do chính đưa chân Nicolas tới đây. Không thể đứng ngoài cánh cửa đó khi Chiến dịch Thiên Vương Tinh bắt đầu. Ông ta tập tễnh bước xuống con đường lấp đầy sỏi trải giữa hai đường ray. Phải đi qua cánh cửa, lọt vào Hầm trú ẩn và thoát ra từ lối sau trước khi nó đóng lại.
Chính ông ta cũng không ngăn được Chiến dịch ThiênVương Tinh.
Chỉ còn cách thoát khỏi nó.
Kế hoạch này được xây dựng từ năm 1999 khi Dự án sửa sang hầm trú ẩn lần đầu được triển khai. Mục tiêu của dự án là củng cố và khuất lấp cỗ Quan tài cũ. Các kĩ sư đã cảnh báo nhiều năm trời về tình trạng hầm mộ cũ có thể sụp đổ bất cứ lúc nào, hai trăm tấn phóng xạ uranium sẽ phát tán ra không khí. Cùng lúc đó, vài phần của chiếc Quan tài cũ đã rạn vỡ.
Những lỗ nhỏ và khe nứt hình thành. Thời kỳ đầu tiên của dự án yêu cầu phải củng cố Quan tài. Điều đó có nghĩa là phải vá những lỗ hổng, chống đỡ những cột trụ tường bên trong và bảo đảm gia cố cho tháp thông gió khỏi lung lay. Mái vòm khổng lồ vì thế được thiết kế như một két an toàn dài gần bốn trăm mét.
Công trình hoàn tất lần đầu vào năm 1999 nhưng vài bí mật được giấu kín. Sau khi Liên bang Xô viết sụp đổ, tham nhũng lan tràn. Phải tốn ít nhiều cho việc lắp đặt bí mật bốn tụ điện tạo chấn vào cột trụ tường. Chúng vẫn nằm im lìm bất động cho đến ngày hôm qua. Đêm trước, người của Nicolas đã truyền tín hiệu vào những tụ điện giấu kín, định giờ cho khớp với thời điểm Hầm trú ẩn khép lại trên cỗ Quan tài. Một khi đã cài đặt, không có cách nào thoái lui.
Chính xác là hai phút trước khi Hầm trú ẩn bị niêm phong, các tụ điện nổ tung. Không một ai nghe thấy. Báo cáo sẽ được che giấu bằng lý do va chạm bê tông, kéo theo toàn bộ một bức tường của Quan tài bị đổ vỡ – phần có thể nhìn trực diện từ khán đài. Trong vòng hai phút, các khán đài sẽ chìm trong màn phóng xạ khủng khiếp trước khi Hầm trú ẩn hoàn toàn khép chặt vào cánh cổng bê tông phía sau cỗ Quan tài. Lượng phóng xạ đủ để gây ra những cái chết đau thương. Thật ra, sẽ không một ai cảm nhận được điều gì. Nhưng hai phút cũng chính là thời gian tất cả những nhân vật tham dự hứng trọn liều phóng xạ chết người.
Họ sẽ chết sau vài tuần.
Trong số đó có cả thủ tướng và tổng thống Nga, bên cạnh các lãnh đạo từ châu Mỹ và Liên minh châu Âu. Nếu thành công, nhiệm vụ của Nicolas là đưa những chính phủ chủ chốt vào trong tình trạng xáo trộn và một khi vụ nổ phóng xạ từ chiến dịch của mẹ ông được thực hiện tại Chelyabinsk 88, thế giới sẽ cần đến một tiếng nói mạnh mẽ, ai đó sẽ đứng ra gánh vác nhiệm vụ cảnh báo về thảm họa.
Tất cả sẽ ủng hộ cho kẻ sống sót duy nhất của Chiến dịch Thiên Vương Tinh. Sau vài tháng – dưới sự hỗ trợ của những nhà bác học bí mật – Nicolas sẽ có những dự đoán phi thường cộng với kiến thức trực quan và tầm nhìn lỗi lạc.
Không dừng ở đó, mục tiêu trọn vẹn là nhanh chóng chiếm vị trí quyền lực ở Nga, sau đó nới rộng ảnh hưởng ra toàn cầu. Đế quốc Nga sẽ đứng dậy từ những lớp tàn tro phóng xạ để dẫn dắt thế giới theo một hướng đi mới.
Suy nghĩ hiện tại khiến Nicolas kích động. Ông ta khập khiễng theo sau hai người công nhân về phía cuối hầm, rút khẩu súng lục trong túi. Hai phát đạn nhắm thẳng lên đầu. Hai thân hình nặng nề đổ gục trên nền đá dăm. Không có nhân chứng.
Nicolas vội vã đi vào lối công vụ khoét sâu vào bức tường nằm dưới mái che. Mất khoảng chục bước để băng qua. Lớp tường thép của Hầm trú ẩn dày mười hai mét.
Khoảng trống trung tâm đã mở ra trước mắt Nicolas.
Ông ta sửng sốt khi lọt thỏm vào không gian bốn bề bao la. Vòm thép cao đến một trăm mét và rộng gấp hai lần rưỡi. Không thể mô tả nơi này như một hang động. Hàng trăm ngọn đèn tỏa sáng như sao giữa bầu trời đêm, lắp dọc theo những giàn giáo bằng thép bên trong Hầm trú ẩn. Phía trên cao, một loạt những cánh tay vàng chạm tới nóc. Những cần cẩu tự động khổng lồ đứng im chờ, sẵn sàng dỡ bỏ chiếc Quan tài cũ. Móc câu với kích thước bằng móc neo tàu cùng tay hãm hình răng cưa treo trên cần cẩu.
An toàn trong Hầm trú ẩn, Nicolas dừng một lúc rồi mới nhấn nút đỏ để khép cánh cửa công vụ. Nó từ từ trượt xuống trên những bánh răng khổng lồ.
Theo kế hoạch ban đầu, Nicolas và Elena phải đi lên từ một trạm điều khiển ở phía xa Hầm trú ẩn. Đây là trạm điều khiển tời nâng được bọc chì chắc chắn, tránh màn phóng xạ, đồng thời được đặt đối diện khu vực tụ điện tạo chấn, nên khả năng phơi nhiễm là tối thiểu.
Nicolas cần phải đến được trạm, nhưng Elena vẫn còn kẹt lại bên ngoài, khó tránh khỏi lớp phóng xạ sắp sửa lan ra. Mặc dù không trực tiếp phơi nhiễm như khu vực khán đài, phóng xạ vẫn phát tán đến vị trí của cô thông qua cửa hậu, có thể không đủ mạnh để gây ra cái chết nhưng sẽ không cho cô cơ hội có được những đứa trẻ khỏe mạnh.
Để bảo vệ dòng giống di truyền tương lai, Nicolas phải tìm cách bảo vệ cô. Nhưng hơn thế, ông không thể phủ nhận tình cảm sâu nặng với người phụ nữ này. Mẹ ông sẽ cho rằng những cảm xúc ủy mị ấy là yếu đuối, nhưng Nicolas không thể để con tim phải gượng ép.
Cánh cửa hạ thấp, Nicolas tiến về phía trước.
“Elena!” Gray gọi vọng lại từ phía sau xe jeep, “Cô phải giúp chúng tôi!”
Không có lời đáp.
Từ phía Elena.
“Pierce, tôi không nghĩ là ông sẽ nhượng bộ kiểu này,” Kowalski phàn nàn. Anh chàng đang gập người lại cách đó vài bước. Máu chảy trên vai thấm vào áo khoác Kowalski nhưng chỉ là vết trầy xước. “Một con chó điên. Lũ điên sao lúc nào cũng bắn trúng vậy chứ?”
“Tôi không cho là cô ta điên,” Gray lẩm bẩm.
Ít ra là ông đang hy vọng.
Ông đã nhìn thấy phản ứng của cô khi phát giác ra Sasha chính là con gái theo nghĩa sinh học của Nicolas. Một biểu hiện hoang mang pha chút cảnh giác. Có mối liên hệ nào đó giữa Elena và đứa trẻ, hơn là tình chị em trong một gia đình cấy ghép.
Ông buộc phải tin là linh cảm của mình đúng.
“Sasha đã đến chỗ tôi!” Gray hét lên. “Đã cố tìm tôi. Cô bé chỉ lối cho chúng tôi tới đây vì một lý do nào đó.”
Im lặng vẫn bao trùm. Một giọng nói nhỏ nhẹ cất lên sau đó. “Làm thế nào? Sasha dẫn các ông tới đây bằng cách nào?”
Elena đang làm phép thử đối với ông.
Gray hít một hơi thật sâu. Ông nâng súng vứt sang một bên.
“Pierce…” Kowalski gầm lên. “Nếu ông nghĩ là tôi cũng vứt súng, ông đúng là mất trí giống cô ta.”
Gray đứng dậy.
Cách đó một quãng, súng của tên lính Nga chuyển hướng về phía ông. Elena nhỏm dậy hét lên, ngăn không cho hắn nổ súng. Cô muốn biết thêm thông tin về Sasha. Đối phương đứng ở giữa những cột bê tông chắc chắn như một pháo đài. Elena vẫn chĩa súng lục vào ông.
Gray trả lời câu hỏi cô đưa ra. “Làm cách nào Sasha chỉ đường ư? Cô bé vẽ những bức tranh. Đầu tiên là dẫn những người Gypsy đến cửa nhà tôi. Rồi cô bé phác họa ngôi đền Taj Mahal, đưa chúng tôi sang Ấn Độ để khám phá ra dòng dõi cũng như lịch sử của tổ tiên cô. Cô phải hỏi bản thân tại sao. Sasha rất đặc biệt đúng không?”
Elena nhìn chằm chằm vào ông bằng ánh mắt đen láy kiên cường.
Gray coi đó như là một chấp thuận, ông tiếp tục kể cho cô nghe sự thật. “Tại sao chúng tôi lại được đưa đến Ấn Độ? Sao lại liên quan đến tất cả chúng tôi? Tại sao là lúc này? Phải có một lý do. Tôi nghĩ Sasha – dù tỉnh táo hay không tỉnh táo – cũng đang cố ngăn những gì các người sắp thực hiện.”
Elena không bộc lộ một chút đồng tình, nhưng Gray vẫn còn sống sót.
“Cô bé cho chúng tôi manh mối để khám phá ra cội nguồn của cô: từ Nhà Tiên tri Delphi đến những người Gypsy, và bây giờ là ở đây. Tôi nghĩ có vài lý do khiến nòi giống những người như cô được sinh ra. Có lẽ là để biến một lời tiên tri thành hiện thực.”
“Lời tiên tri nào?” Elena chưa hiểu ra vấn đề.
Gray nhận thấy có chút thừa nhận xen lẫn sợ hãi trong cô. Phải chăng họ bị nỗi ám ảnh nào đó khắc sâu vào tâm khảm? Gray nhớ lại bức vẽ trên tường mang biểu tượng Hy Lạp ở Ấn Độ, một bóng hình rực lửa hiện lên trong làn khói mờ ảo tỏa ra từ cái rốn trung tâm vũ trụ. Gray nắm lấy cơ hội và miêu tả thật nhanh những gì họ tìm thấy. “Hình hài của một cậu bé với đôi mắt bùng cháy.”
Khẩu súng trong tay Elena bỗng run rẩy – dù không rời mục tiêu trên ngực ông. Gray nghe thấy Elena lẩm nhẩm cái tên có vẻ như là Peter.
“Peter là ai?” Gray tiếp tục.
“Pyotr,” Elena sửa lại. “Em trai của Sasha. Đôi lúc cậu bé gặp ác mộng. La hét khi tỉnh dậy, nói rằng mắt cậu bắt lửa. Nhưng…nhưng mà…”
“Gì vậy?” Gray cố trì hoãn mặc cho áp lực thời gian.
“Lúc cậu bé tỉnh dậy, mọi người đều thức. Trong một khoảnh khắc, chúng tôi thấy Pyotr bốc cháy.” Cô lắc đầu. “Nhưng cậu bé có khả năng thấu cảm. Rất mạnh mẽ. Chúng tôi cho là những cơn ác mộng đã thức tỉnh, khiến năng lực của cậu bé bộc lộ ra ngoài. Một tiếng vọng của thấu cảm.”
“Nhưng không dội lại từ Pyotr,” Gray bỗng nhận ra. “Đó là tiếng vọng xuất phát từ cội nguồn. Nhưng rồi tiếng vọng sẽ chạm đến đâu?” Gray không rời mắt khỏi Elena. “Điều sắp xảy ra có khi là điều cô không thực sự mong muốn. Chắc chắn Sasha cũng vậy. Cô bé đã mang tôi đến đây. Nếu muốn kế hoạch của Nicolas diễn ra, cô bé chỉ cần im lặng. Nhưng cô bé không làm thế. Sasha đưa tôi đến với cô, Elena. Đến với cô. Vào chính lúc này. Cô có cơ hội giúp Sasha hoặc phá hủy mọi thứ cô bé cất công gầy dựng. Đó là lựa chọn của cô.”
Elena quyết định ngay lập tức, có lẽ ngọn lửa trong đầu cô đã cháy bừng. Cô quay người nổ súng. Tên lính Nga ngã xuống, chết tức thì.
Gray vội đến gần. “Làm thế nào để chặn Chiến dịch ThiênVương Tinh?”
“Ông không thể,” giọng cô hơi chuếnh choáng, có lẽ bởi tình thế đảo ngược bất ngờ, hoặc là do vừa thức tỉnh sau một cơn mê dài.
Elena trao cho Gray khẩu súng lục của mình như thể biết rõ nơi ông sẽ phải đến. Ông tiến về con đường nằm giữa những đường ray. Nếu cô không biết cách chặn đứng Chiến dịch Thiên Vương Tinh, có lẽ Nicolas phải biết.
“Ông phải nhanh lên,” cô thúc giục. “Nhưng… có thể tôi biết một cách giúp ông.”
Cô xoay sang lối đi phía sau khu phức hợp nơi Nicolas băng qua lúc đầu.
Gray chỉ vào chiếc mô tô. Bánh xe trước đã xẹp lép nhưng vẫn tốt hơn là đi bộ. “Kowalski, giúp cô ấy.”
“Nhưng cô ta bắn tôi.”
Gray không có thời gian tranh cãi. Ông lấy hết sức chạy qua đám cột bằng bê tông. Lối vào đã mở ra trước mắt, đường ray nằm hai bên. Ông nhận ra Nicolas đang khập khiễng bước qua cánh cửa rộng khoét sâu vào khối sắt rồi biến mất trong bóng tối.
Gray lao nhanh theo hướng đó.
Còn chưa đầy sáu phút.
Vừa chạy ông vừa nhìn thấy lỗ đen trên tường bắt đầu hẹp dần. Cánh cửa đang đóng lại.
 
Họ vừa thoát khỏi nhà tù, mọi chuyện sẽ ra sao?
Elizabeth chạy theo Rosauro trong khi Luca lăm lăm súng bảo vệ phía sau. Masterson dùng gậy di chuyển tập tễnh bên cạnh Elizabeth. Cô nâng một khuỷu tay, cố gắng giúp ông đi thật nhanh.
Ưu tiên hàng đầu là tìm ra một chiếc điện thoại để kêu cứu. Cả thành phố khoác lên mình dáng vẻ hoang vắng và ma quái. Cáng lò mọc xuyên qua mặt đường nứt, cỏ dại khắp nơi, những tòa nhà phủ đầy địa y và nấm mốc. Làm thế nào họ tìm được điện thoại có thể hoạt động nơi đây? “Ngã tư tiếp theo!” Masterson thở hổn hển, vung gậy lò cò trên cẳng chân lành lặn. “Rẽ trái. Khách sạn Polissia chắc là ở cuối dãy nhà kế tiếp.”
Masterson nghĩ ra một địa điểm. Rõ ràng là khách sạn đã được sửa chữa, phục vụ sự kiện diễn ra vào đêm trước và sáng nay trở thành bến xe cho các vị khách được mời đến buổi lễ.
Còn những vị khách không mời?
Elizabeth thoáng thấy Gray và Kowalski lúc họ phóng mô tô ra khỏi nhà tù. Cô hy vọng họ vẫn ổn và kịp ngăn chặn hành động xấu nào đó đang diễn ra. Lúc chạy trốn, đầu cô đau như búa bổ, mắt mỏi nhừ. Căng thẳng và sợ hãi khiến cô kiệt sức.
“Tôi xin lỗi, Elizabeth,” Masterson thở khò khè.
Cô liếc nhìn ông. Cô biết rằng lời xin lỗi ấy xuất phát từ việc ông khiến cô và mọi người phải liên lụy.
“Tôi thực sự không nghĩ là cha cô dính vào nguy hiểm chết người,” ông lựa lời giải thích. “Tôi nghĩ rằng người Nga quan tâm về công việc của Archibald là vì muốn đánh cắp dữ liệu liên quan đến hoạt động tình báo. Không bao giờ nghĩ sẽ gây ra cái chết của ông ấy.”
Mặc dù hiểu rõ vị trí của vị giáo sư này trong quá khứ và đủ thông minh để nhận ra những nguy cơ trong thế giới ngầm, cô vẫn chẳng thể tìm được lý do tha thứ cho ông ta. Không phải là vì cha cô hay vì những liên lụy không được báo trước. Cô mệt mỏi vì những bí mật – của cả người cha và người đàn ông này.
Đến gần ngã tư, có hai tên lính Nga bước ra khỏi bậc cửa. Một tên vứt đầu lọc xuống đất, lấy chân nghiền nát. Tên còn lại nâng súng hét lên bằng tiếng Nga.
“Kak tebya zavut?”
“Để tôi giải quyết vụ này,” Masterson ra hiệu cho Rosauro và Luca hạ vũ khí.
Vị giáo sư chỉnh lại chiếc mũ trắng và nặng nhọc ngả người xuống, ông run run tiến về phía trước, đáp lại bằng tiếng Nga. “Dobraye utrof”
Masterson nói khá trôi chảy. Elizabeth chỉ hiểu được ba từ Tạp chí London Times. Masterson đang cố gắng đánh lừa họ với vai trò nhà báo đến tham dự.
Tên lính hạ thấp vũ khí. “Các ông là người Anh.”
Masterson gật đầu, không quên nở nụ cười ngượng ngập. “Anh nói tiếng Anh. Tuyệt vời. Chúng tôi bị lạc, không tìm được đường về khách sạn Polissia. Mong là các anh giúp chúng tôi quay lại.”
Họ cau mày, có vẻ không hiểu rõ những gì ông nói. Masterson định lợi dụng vốn ngoại ngữ yếu kém để khiến họ phân tâm, làm chệch hướng câu chuyện. Nhưng tên mang súng hiểu được nội dung, liền hỏi lại.
“Polissia Gostineetsa?”
“May quá. Anh dẫn chúng tôi đến đó được không?”
Cả hai thảo luận với nhau rất nhanh bằng tiếng Nga. Cuối cùng một tên nhún vai, tên còn lại gật đầu.
Động cơ mô tô bỗng gầm rú phía sau, phá tan không gian yên tĩnh. Ngược về hướng nhà tù, chiếc mô tô thùng nhấp nháy đèn xanh, chở theo hai binh sĩ đội mũ lông lao trên đường. Họ đã bị phát hiện. Những tiếng la hét bằng tiếng Nga vọng lại.
Hai tên lính đơ người một lúc.
“Không ổn rồi,” Masterson đẩy Elizabeth xuống đường.
“Chạy đi!”
Rosauro xoay gót, bất thần đá vào mặt tên lính đứng gần nhất. Xương kêu rắc, hắn ngã bật về phía sau. Tên còn lại không kịp phản ứng vì Luca hành động nhanh hơn bằng khẩu súng lục trên tay. Máu tràn vai, hắn vặn mình như thể vừa chịu một cú đá cứng cựa, nhưng khẩu súng tự động vẫn lạch cạch nã đạn về phía họ.
Masterson đảo người che lấy Elizabeth, Luca và Rosauro nằm úp xuống đường. Vị giáo sư đổ ập, Elizabeth lảo đảo khụy xuống. Phát súng cuối cùng của Luca kết thúc loạt đạn.
Masterson trượt về một bên, ngã xuống đường. Elizabeth cảm thấy cơ thể ông run bắn vì cú va chạm mạnh, ông gượng người nằm ngửa lại, máu tuôn xối xả.
“Hayden!”
Ông phẩy tay, vẫn nắm chặt cây gậy. “Đi đi!”
Chiếc mô tô vẫn gào rú.
Rosauro bật người đứng dậy.
Luca nổ súng nhưng chiếc xe rẽ vào mấy đống ô tô và gạch vụn để ẩn nấp. Loạt đạn bắn trả từ thùng xe tóe lửa quanh vệ đường gần họ.
“Tôi xin lỗi, Elizabeth,” Masterson lặp lại, máu trào ra từ khóe môi ông.
“Hayden…” cô bịt miệng nức nở, không tìm được lời nào để cảm ơn lẫn tha thứ cho ông.
Ông nhận ra điều đó từ trong mắt cô, khẽ gật đầu đón nhận, nụ cười tối sầm chất chứa nhiều cảm xúc. “Đi…” giọng ông khàn khàn, mí mắt nhắm lại.
Rosauro hối hả tiến về phía ngã tư tiếp theo. Luca liên tiếp nổ súng bằng một tay cho đến khi nắp trượt trên súng bật mở, hết đạn. Loạt đạn oanh tạc phía sau lưng bắt đầu.
Rosauro dẫn đường, lấy một chiếc xe tải gỉ sét làm bia đỡ đạn. “Vòng qua góc!” Nhưng không kịp.
Ngừng bắn, mô tô rền vang hướng thẳng đến mục tiêu.
Elizabeth ngoái nhìn lại. Ngay chỗ rẽ cạnh những xác chết, Masterson bất ngờ lăn tròn bằng chút sức lực cuối cùng, thọc cây gậy vào bánh trước chiếc xe. Cây gậy chắc khỏe gãy rời, bánh xe lập tức ngừng quay. Chiêc mô tô lật nhào, trượt trên vệ đường gồ ghề, tóe lửa, để lại vệt máu loang lổ.
Rosauro hối thúc cả nhóm chạy tiếp. “Nhanh lên!”
Hy vọng tiếng gầm của động cơ át đi tiếng súng, cả nhóm phải thoát khỏi đây càng nhanh càng tốt. Qua ngã tư, họ đi dọc con đường hướng về phía khách sạn lấp lánh đèn, cách đó một phần tư dặm. Vài chiếc limo đen bóng bẩy đậu sẵn ở lề đường.
Luca quăng khẩu súng lục rỗng đạn, mọi người sửa sang lại áo quần chỉnh tề. Họ đi chậm lại khi đến gần khách sạn rồi sải bước thật nhanh vào trong với dáng vẻ của những khách quen. Không ai hỏi han điều gì. Khách sạn khá trống trải, chỉ có vài tài xế tha thẩn trong sảnh chờ. Một số nhân viên khách sạn làm việc sau quầy. Tất cả khách đang có mặt tại buổi lễ. Rosauro bước tới quầy lễ tân. “Chúng tôi có thể dùng điện thoại ở đây không? Chúng tôi… chúng tôi là người của tạp chí New York Times.
“Phòng báo chí… ở đằng kia,” một thanh niên trẻ với đôi mắt lờ đờ nói bằng giọng Anh ngập ngừng. Anh ta chỉ sang cánh cửa bên hông tiền sảnh.
“Spazeebo,” Rosauro cất lời cảm ơn.
Bà dẫn cả nhóm đi qua cánh cửa. Căn phòng vuông vức có một kệ thấp chạy dọc toàn bộ vòng ngoài. Chiếc bàn ở trung tâm xếp đầy đồ dùng văn phòng: vài xấp giấy in, những tập ghi chú, bút, dập ghim. Nhưng điều khiến Elizabeth chú ý là hai chiếc điện thoại bàn phím màu đen nằm trên tường.
Rosauro tiến lại gần, nhấc ống nghe, tín hiệu gọi đi dội vào tai. Bà gật đầu hài lòng. Lúc quay số, bà đã nói rằng, “Tôi sẽ cảnh báo cho trung tâm chỉ huy. Họ sẽ truyền tin và bắt đầu di tản.”
Elizabeth ngồi thụp xuống ghế. Trong phút yên tĩnh ngắn ngủi, toàn thân cô run lên, không thể ngừng lại. Cái chết của Masterson… đã khiến điều gì đó trong cô rạn vỡ. Nước mắt chảy dài – xót thương cho vị giáo sư lẫn người cha quá cố.
Rosauro chờ đầu bên kia nhấc máy. Vẻ trầm tư hiện lên, hai lông mày nhíu lại.
“Có chuyện gì vậy?” Luca hồi hộp.
Bà lắc đầu lo lắng. “Không có ai trả lời.”
12:50 sáng, giờ EST
Thủ đô Washington D.c.
Painter gõ nhẹ lên cánh cửa phòng thay đồ và đẩy vào thận trọng. Súng lục chĩa thẳng vào mặt ông. Kat hạ thấp vũ khí, mắt bà tỏ vẻ nhẹ nhõm.
“Mọi người thế nào rồi?” ông theo sau bà hỏi han.
“Đến giờ vẫn ổn.”
Người hộ lý quân y của Sigma thay vị trí đứng gác ở cửa. Kat dẫn Painter vào căn phòng lớn có những dãy tủ kim loại và ghế dài xếp dọc bờ tường. Cuối phòng là một cổng tò vò dẫn đến buông tắm và buông xông hơi.
Còn một gian kế cận. ông thấy Malcolm yên vị bên chiếc ghế dài, Lisa ngồi trên sàn nhà, vòng tay ôm lấy Sasha. Cô bé nhìn ông bằng đôi mắt xanh to tròn, khẽ đung đưa, rồi lại quanh quẩn tìm Kat, toàn thân đã hết căng thẳng.
Lisa đứng dậy. Bà vừa thay trang phục mới không dính máu. Kat cúi xuống bế Sasha lên và ngồi cùng cô bé trên ghế dài. Bà thì thầm gì đó khiến bé mỉm cười. Lisa trượt vào vòng tay Painter rồi nhìn thẳng vào mắt ông. “Có chuyện gì?” Giọng nói nhỏ nhẹ chứa đầy lo âu.
Painter nghĩ rằng ông đã che giấu khá thành công, nhưng làm sao giận dữ và đau buồn dâng cao có thể đồng thời biến mất?
“Là Sean,” ông khẽ đáp.
Kat và Malcolm đều hướng về ông.
Painter hít thở sâu. “Tên khốn đã giết ông ấy.” Thậm chí ông còn nghe được tiếng súng nổ dội lại, chứng kiến người bạn chí cốt gục ngã.
“Ôi, lạy Chúa…” Lisa siết chặt lấy ông. “Mapplethorpe đang xuống đây để tìm đứa trẻ.” Painter kiểm tra đồng hồ.
Kat hiểu được mối bận tâm của ông lúc này. “Chương trìnhbảo vệ?”
“Được cài trong bốn phút nữa.” Painter cầu mong mọi thứ ông sắp đặt đều chuẩn xác. Không khí giờ đã tràn ngập mùi hương dịu ngọt của chất xúc tác.
“Nếu ta phải phòng thủ,” Kat tiếp lời, “ta có phải lo là đạn sẽ bắt cháy không?”
Ông lắc đầu. “Hợp chất có chức năng như là chất nổ C4 được sơn khí hóa. cần đến một tia lửa điện thật mạnh để gây cháy, không phải là tia lửa đạn.”
Lisa đứng cạnh ông. “Sau đó chúng ta làm gì ở đây?”
Painter ra hiệu cho họ ngồi chờ. Ông muốn bảo vệ họ an toàn nhất có thể. Ông sẽ không mất thêm ai khác. Nhưng cũng chẳng cho họ có được nhiều cơ hội.
“Tốt nhất là ta nên ẩn nấp.”
 
Mapplethorpe theo sau toán biệt kích đi xuống hành lang.
Hắn đã thuê nhóm này nhiều lần trước đây, một đội lính đánh thuê gồm những cựu sĩ quan đặc nhiệm Anh và lực lượng trinh sát đặc biệt ở Nam Phi. Họ là cánh tay mặt của hắn xuyên suốt cục diện chính trị dàn trải khắp thế giới. Họ không nao núng trước bất kỳ nhiệm vụ nào đặt ra: ám sát, bắt cóc, tra tấn, cưỡng bức. Bất cứ chiến dịch bí mật nào của Mapplethorpe cần được thực thi đều do lực lượng này hoàn thành. Sau đó, tốt hơn hết là biến mất, không dấu vết, chỉ còn lại bóng tối và sự vô hình.
Họ từng là những chiến sĩ thép tham gia vào công cuộc bảo vệ đất nước. Dù ai đó có lùi bước thì những con người này cũng không nản chí.
Tên lính dẫn đường đã chạm tới cánh cửa cuối hành lang. Biển hiệu có ghi PHÒNG THAY ĐỒ. Hắn giơ một nắm đấm, tay còn lại cầm theo một máy dò điện tử.
Trước đó, báo cáo củaTrent McBride cho hay thiết bị truyền phát vi mạch của đứa trẻ vẫn hoạt động. Không nơi nào có thể ẩn nấp. Tín hiệu của cô bé phát ra từ tầng này này.
Tên lính biệt kích đợi lệnh hành động. Mapplethorpe phất tay cho phép xông vào. Hắn kiểm tra đồng hồ. Chương trình bảo vệ còn ba phút nữa mới bắt đầu. Trường hợp Painter Crowe quyết định không cho đám cháy bắt đầu tức là đứa trẻ đã rút lui. Nếu hành động nhanh sẽ không vấn đề gì. Cửa thoát hiểm ở cuối hành lang dẫn ra khỏi một bãi đỗ xe ngầm.
Những tên lính phía trước xông qua cửa, cúi thấp người chạy thật nhanh vào căn phòng liền kề. Mapplethorpe đóng cánh cửa sau lưng. Hắn nghe thấy những mật lệnh rất khẽ truyền đi khi toán biệt kích tản theo từng dãy tủ.
Mapplethorpe bám gót tên lính có máy dò trên tay, hai bên sườn là hai người khác. Tên cầm đầu chạy dọc dãy tủ, một cánh tay giơ cao. Hắn chỉ về phía nguồn phát tín hiệu.
Mapplethorpe nghe thấy tiếng khóc thút thít phát ra từ bên trong tủ khóa.
Cuối cùng thì…
Có móc an toàn bảo vệ trên cánh cửa. Một tên lính thủ sẵn máy cắt khóa nhanh chóng phá tung.
Mapplethorpe vung tay ra hiệu. Đã hết thời gian. “Nhanh lên!”
Tên dẫn đầu giật mạnh tay nắm cửa. Mapplethorpe thoáng thấy một máy ghi âm kĩ thuật số, một máy phát vô tuyến cùng với khẩu súng lục Taser móc vào cánh cửa.
Một cái bẫy.
Mapplethorpe xoay người bỏ chạy.
Khẩu súng phát ra tiếng nổ gọn và đánh điện.
Mapplethorpe hét lên khi lửa phụt mạnh từ đằng sau với âm thanh của ga vừa bắt cháy. Hơi nóng lan tỏa, một quả cầu lửa bùng lên, chạm vào gót hắn trên đường tháo thân. Lớp quần áo phía sau bị thiêu rụi, lửa ngùn ngụt trong không khí, da đầu bốc cháy đến tận xương sọ. Hắn va vào tường, biến thành ngọn đuốc sống quằn quại giữa biển lửa.
Hắn lăn lộn trong đau đớn, những ngạo nghễ bất diệt lụi tàn, chỉ còn lại bóng tối của cái chết bủa vây.
Painter nghe thấy những tiếng thét vọng xuống từ phòng thay đồ của khu y tế, ở trực diện tầng trên. Chính ông đã đặt bẫy vì biết rằng Mapplethorpe sẽ lần theo tín hiệu của đứa trẻ. Ông đặt một đầu thu vô tuyến Cobra từng dùng để đánh lạc hướng đám trực thăng bay khỏi ngôi nhà lánh nạn. Thiết bị bắt chước tín hiệu phát ra từ cô bé.
Lúc còn nhỏ, Painter thường đi săn với cha ở Khu bảo tồn Mashantucket của tộc người da đỏ, quê hương ông. Ông thành thạo kĩ năng đặt bẫy và nhử mồi. Chuyến đi săn hôm nay không mấy khác biệt.
Dấu vết giả đã biến kẻ thù thành những con bướm đêm rực lửa.
Một kết cục bi thảm thiêu đốt những kẻ sát nhân.
Painter không hề hối tiếc vì những gì ông thực hiện. Hình ảnh Sean McKnight đổ gục xuống sàn vẫn như in trong tâm trí.
Hai cộng sự khác cũng bị giết hại. Painter nhìn đồng hồ. Kim dài vừa bước qua con số mười hai, kết thúc thời điểm hẹn khởi động chương trình bảo vệ.
Ông nín thở, nhưng chưa có gì xảy ra. Trước đó, sau khi thiết lập chương trình bảo vệ, ông sang phòng cơ khí ngắt hệ thống đánh điện bằng tay. Ông có ý định cho khí xúc tác thoát ra ở tất cả các tầng, nhưng ý kiến của Mapplethorpe đã đúng. Painter không thể để những con tin vô tội chết dưới tay đội biệt kích, dù là để bảo vệ đứa trẻ đến cùng. Vì thế ông đặt bẫy cho lửa bùng cháy trong căn phòng duy nhất đồng thời nhử Mapplethorpe và quân của hắn tới đó.
Một lực lượng đông đảo cùng kẻ cầm đầu bị kết liễu. Tình hình này sẽ khiến bộ phận còn lại giải tán và biến mất vào bóng đêm.
Lisa dựa vào ông. “Đám cháy có lan ra không?”
Câu trả lời nhanh chóng xuất hiện. Vòi phun khẩn cấp bắt đầu xối nước và bọt lên đầu họ.
“Kết thúc rồi phải không?” Bà cất tiếng hỏi.
Painter gật đầu. “Ở đây đã xong.”
Painter hiểu rằng biến cố vẫn đầy rẫy ngoài kia.
10:53 sáng
Thành phố Pripyat, Ukraina
Gray phóng vào cánh cửa thép cuối đường hầm khổng lồ. Lối đi nằm giữa hai đường ray vươn cao. Ông vượt qua thi thể của hai người công nhân bị bắn vào đầu. Tai ông lùng bùng nhưng vẫn nghe được âm thanh reo hò dội lại từ khán đài đằng xa, giống như một cuộc tranh tài và ở đó ông đang lao về đích trên đường chạy bốn trăm mét. Nhưng trong cuộc đua này, mạng sống của những khán giả phụ thuộc vào thời điểm ông cán đích.
Với tốc độ nước rút, ông chạm đến lối vào, sấp người trườn dưới cánh cửa đang hạ thấp. Cảm giác như vượt qua một đường ống hẹp được lắp đặt trong nhà. Cánh cửa dày đến vài mét, cấu tạo bởi những vành thép, ông quờ quạng tiến về phía trước, gờ cửa đã gần chạm vào cơ thể. Nóng lòng, ông quẫy đạp, luồn lách để nhanh chóng thoát ra khỏi tảng thép nặng đang nhăm nhe đè bẹp.
Cuối cùng, ông cũng lăn được vào khoảng mênh mông của hang động bên trong. Tim ông vẫn đập dồn dập khi trông thấy mọi vật xung quanh: một không gian rộng lớn với giàn giáo xếp dọc, một công trình hình khối mười tầng xây bằng bê tông và cột thép đen ngòm. Đó chính là cỗ Quan tài khét tiếng, nấm mồ chôn của lò phản ứng số bốn. Lúc này, mái che đã được kéo gần khít, che khuất hầm mộ. Bức tường bê tông ở phía xa. Mái che sẽ ngừng sau khi khớp vào bức tường, niêm phong hoàn toàn cỗ Quan tài.
Một vạt nắng hình cánh cung đổ dài như mảnh cầu vồng rực lửa. Quang cảnh sự sống mà nó được tiếp xúc lần cuối. Mảnh cầu vồng dần thu hẹp trước mắt Gray.
Bên cánh trái, một giọng phát biểu bằng tiếng Nga sang sảng vang lên từ khán đài, đầy tự hào và dõng dạc. Ông nghe cả tiếng ồ ồ liên tiếp của đòn bẩy thủy lực đang kéo mái che đi nốt quãng đường chỉ còn vài mét.
Tiếng súng lục dội lại từ bên phải.
Gray hình dung cảnh tượng những con người ngã gục ngoài kia.
Dấu vết của Nicolas đã hiện rõ.
Gray lao theo hướng đó, cúi thấp người lắt léo di chuyển xung quanh những đống thép, một khoảnh bê tông vỡ vụn và một xe nâng hàng. Không khí đầy mùi dầu lẫn trong vị hoen gỉ. Chạm tới góc khuất của Quan tài, ông rút súng ra khỏi thắt lưng.
Hé nhìn quanh, ông nhận ra một hình hài đang tập tễnh hướng về vùng sáng cầu vồng, vẫn còn cách lối thoát khoảng hai mươi mét. Gray nâng súng nhắm thẳng mục tiêu.
“Nicolas!” Giật mình, Nicolas xoay người lại.
“Cấm cử động!” Gray hét lên.
Nicolas thoáng do dự rồi quay đầu bỏ chạy. Gray không thể liều lĩnh bắn hạ Nicolas chừng nào chưa biết được kế hoạch đang diễn ra. Phát đạn được cẩn trọng bắn vào cẳng chân lành lặn còn lại. Mục tiêu nằm sóng soài trên nền đất.
Gray nhanh chóng lao đến nhưng một nhân vật đang vươn tới đỉnh cao quyền lực như Nicolas chẳng thể nào bị khuất phục bởi hoàn cảnh. Viên thượng nghị sĩ quăng mình, nấp sau một đống xà thép hình chữ I. Đạn bắn trả về phía Gray buộc ông phải né sang một bên. Ông cố thủ sau một giá nâng hàng làm bằng gỗ xẻ. “Chyort! Rodilsya cherez jopu!” Nicolas chửi thề bằng tiếng Nga, giọng đầy kích động. “Ta không thể ở đây, đồ svolock! Chỉ còn không quá ba phút.”
Sau lưng Nicolas, mảng sáng giữa bức tường bê tông khổng lồ và mái vòm dần khép lại. Khoảng trống chỉ còn hơn một mét. Bởi thế mà Nicolas rất vội vàng.
“Nói cho tôi biết cách dừng Chiến dịch Thiên Vương Tinh!” Gray đáp trả.
“Khônq có cách nào ngăn cản! Tất cả đã “Không có cách nào ngăn cản! Tất cả đã được khởi động. Chỉ có thể ra khỏi đây… ngay bây giờ!”
“Nói cho tôi biết ông đã làm gì.”
“Tốt thôi! Mấy tụ điện tạo chấn! Được lắp trong những cột trụ ở mặt kia của Quan tài. Chúng sẽ phá một bức tường, những ai ở trong khu vực đối diện bức tường sẽ hứng trọn lớp phóng xạ chết người. Không thể tháo ngòi nổ. Ta PHẢI đi thôi!” Gray cố lọc lại thông tin nghe được, vắt óc tìm cách xử lý. Cho dù ông chạy được ra ngoài và cảnh báo sơ tán, cũng đã quá muộn.
“Chẳng có lý do nào bắt ta phải chết cùng lũ người kia,” Nicolas tiếp tục. “Thế giới cần một hướng đi mới. Cần những con người mạnh mẽ. Như ta. Như ông. Mục tiêu của ta là khai sáng nhân loại, tạo dựng một thời kỳ Phục hưng mới.”
Viên thượng nghị sĩ từng đề xướng việc một nhà tiên tri bước lên vũ đài thế giới. Đây chính là cách ông ta hoạch định, gây nên một thời đại hỗn mang, sau đó đưa ra giải pháp được xúc tiến bởi tên lãnh đạo bù nhìn, dưới sự dẫn dắt của những đứa trẻ có khả năng tiên đoán.
“Ngay cả khi ta chết ở đây,” Nicolas nhấn mạnh thêm, “sẽ chẳng có kết thúc. Mọi kế hoạch sẽ vẫn tiếp diễn. Cái chết của chúng ta mất đi ý nghĩa. Hãy gia nhập với ta. Hoan nghênh những người như ông.” Thực tế mà nói, Gray không thể nghĩ ra cách ngăn chặn sự việc sắp đến.
Những bức tường tiếp tục khép lại.
“Hai phút nữa!” ông ta hét lớn. “Có một trạm điều khiển bọc chì bên ngoài, vẫn còn cơ hội nếu ta đi ngay!”
Nicolas rời chỗ nấp, sẵn sàng bỏ chạy. Nhưng hắn ta hiểu rằng vết đạn trên chân và mắt cá bị trẹo chắc chắn sẽ đem đến cái chết với khoảng cách đó.
Chỉ còn cách ở lại.
Nicolas quăng súng, đối mặt với Gray, hai chân lảo đảo, tay dang rộng. “Nếu đây là cách sau cùng để được sống, vậy ôngthắng rồi đấy.”
Gray rủa thầm. Chẳng thể cứu vãn những số phận ngoài kia, cơ hội duy nhất ông phải nắm lấy chính là kẻ giết người hàng loạt, kẻ cầm đầu chiến dịch chết chóc này. Gray rời khỏi chỗ nấp, súng vẫn chĩa thẳng.
Ngay lúc đó, máy bơm thủy lực rậm rịch khởi động, phát ra âm thanh gào rú ầm ĩ. Khối thép khổng lồ hai mươi ngàn tấn bắt đầu rung lên.
Chuyện gì đang diễn ra?
 
Kowalski bước qua xác tên lính, đứng cạnh Elena bên bảng điều khiển. Trong lúc Gray đuổi theo Nicolas, Elena lái mô tô như một tay đua cừ khôi ở giải NASCAR. Kowalski phải bám chặt vào tay vịn thùng xe, mấy ngón tay vẫn còn run. Họ lao như bay sang mặt bên của mái vòm thép, dừng ở căn hầm bê tông chứa những sợi cáp rất to.
Đó là trung tâm điêu khiển đòn bẩy thủy lực.
Loạt súng hung tợn vang lên.
Kowalski chưa kịp hỗ trợ thì Elena đã xoay mình như một vũ công ba lê với khẩu súng liên thanh trên tay. Cô nhảy lên, nhón gót băng qua làn đạn như thể đoán trước được hướng đi của mỗi phát súng. Cô hạ gục bốn tên. Kowalski xoay xở giết được một.
Quân của Nicolas, Elena nói vậy lúc cuộc đọ súng kết thúc.
Đến nơi, Elena lập tức hành động. Cúi xuống bảng điều khiển, cô điều chỉnh mức thủy lực về vạch đỏ để đóng nhanh mái vòm.
Bên ngoài cửa sổ căn hầm, một động cơ cao ngất bốc khói như muốn nổ tung. Cảnh báo màu đỏ nhấp nháy trên màn hình.
Có lẽ là không ổn.
Kowalski không rời mắt khỏi một dãy hình ảnh được truyền từ bên trong mái vòm. Anh chàng nhìn thấy hai bóng người nhỏ xíu ngay trung tâm.
Gray và gã người Nga.
Từ góc máy này, Kowalski nhận ra tình huống Gray không thể ngờ tới.
Ôi, khỉ thật!
“Elena!” Kowalski hét lớn. “Có chút việc cần cô giúp!”
Bất ngờ Kowalski nhìn thấy cô thụp người xuống sàn. Anh chàng vòng tay quanh eo nâng cô dậy, phát hiện lớp vải sơ mi bên dưới áo khoác đen ướt đầm, nóng hổi. Kowalski cởi áo khoác giúp cô, nhìn thấy máu tràn ra bên hông. Có vẻ cuộc đọ súng không hoàn mỹ như tưởng tượng. “Sao cô không nói gì?” Giọng Kowalski xót xa.
Cô hướng về màn hình. “Chỉ cho tôi.”
 
Gray bất ngờ trước chuyển động đột ngột tăng dần của mái vòm. Sức nặng hai mươi ngàn tấn không thể đi nhanh một cách dễ dàng như vậy, nhưng rõ ràng tốc độ đã lên cao cùng với tiếng gầm của động cơ thủy lực.
“Không!” Nicolas bất thần thét lớn.
Gray nhận ra nỗi đau nhân đôi từ trong giọng nói ấy: sợ hãi rằng sẽ không kịp thoát ra, và suy sụp bởi nguy cơ đổ vỡ kế hoạch nếu mái vòm được đóng vào quá sớm.
“Đi thôi!” Gray vừa nói vừa chĩa súng. Nicolas hạ thấp hai cánh tay dang rộng – để lộ một thứ được giấu kín đằng sau đống xà chữ I. Hai bàn tay đã bị che khuất cho đến tận lúc này.
Khẩu súng lục thứ hai nhắm thẳng vào bụng Gray mà bắn.
Gray lập tức trở người nhưng viên đạn vẫn xoạc một đường ngang bụng, ông xoay súng đáp trả. Viên đạn trật hướng bởi đòn tấn công bất ngờ, nảy bật ra khỏi nền bê tông. Tệ quá, khe trượt của súng đã bật mở.
Đã hết đạn.
Rủi ro tương tự xảy ra cho Nicolas là không thể.
Viên thượng nghị sĩ người Nga chĩa súng vào Gray.
Nicolas mải tập trung không nhìn thấy chuyển động phía trên mái vòm. Một cần cẩu đẩy màu vàng lướt qua, thả chiếc móc khổng lồ từ trên xuống.
Tiếng rít của dây cáp khiến Nicolas chú ý. Hắn ngước nhìn lên quả móc to như mũi neo tàu đang đâm sầm xuống đống xà kế cận, cố nhảy sang một bên nhưng quá nửa số thanh xà đổ sập, đè lên chân.
Khẩu súng đáp xuống sàn.
“Cứu tôi với!” Hắn rên rỉ, tuyệt vọng và sợ hãi.
Không còn thời gian.
Khoảng cách giữa mái vòm thép và bức tường bê tông chỉ còn rộng hơn nửa mét. Gray nhảy qua đám xà, lao ra ngoài.
Khi ông chạm đến khe hở, Nicolas hét lên. “Lũ các người không thể chiến thắng, đồ svoloch. Hàng triệu người vẫn sẽ chết!” Gray không còn thời gian để chất vấn. Ông len lỏi vượt qua khoảng trống chật chội giữa thép và bê tông dài gần mười hai mét, dùng hết sức luồn lách thật nhanh. Áp lực bắt đầu đè nặng lên ngực ông, cố giữ ông lại vào phút cuối.
Gray hít vào và trút hơi ra thật mạnh cho ngực xẹp xuống, ông đẩy người lao ra, cúi gập mình thở dốc.
Cảm giác như vừa được tái sinh.
Ông không để ý đến một người đứng khuất sau mái vòm. Cô lẻn vào bên trong khe hở ông bỏ lại phía sau.
Gray vội đảo người. “Elena! Không! Cô sẽ không làm được!”
Ông lao mình về phía cô. Nhưng cô đã trượt sâu vào đó, ông không còn níu kéo kịp nữa. Cô di chuyển thật nhanh, vóc dáng mềm mại nhạt dần.
Gray cầu mong cô sẽ thoát ra an toàn từ lối bên kia, nhưng cái chết vẫn là điều chắc chắn. Ông phát hiện vệt máu lăn dài đến tận khe hẹp.
Một giọng nói ồm ồm cất lên.
“Elena đâu rồi?” Kowalski lo lắng.
Gray thấy cô đã khuất dạng, ông lắc đầu. Kowalski ngước lên rồi lại nhìn xuống công trình trước mặt. “Cô ấy bỏ tôi lại, sau khi cản phát súng của tên khốn đó bằng cái mỏ neo. Nói là cô ấy xuống đây để giúp.”
Gray quay đầu. “Tôi nghĩ đó đúng là nơi cô ấy cần phảixuống.”
 
Nicolas nằm im một chỗ, nửa tấn xà thép đè bẹp hai chân. Trong cơn hoang mang đau đớn, hắn nghe thấy có tiếng bước chân. Elena đang tiến đến gần.
Hắn cau mày, ánh mắt đau thương hơn cả những khúc xương gãy nát. “Ôi, milaya moya, em làm gì ở đây?”
Cô ngồi thụp xuống bên ông.
Máu thấm đẫm chiếc áo sơ mi.
“Lubov moya…” hắn nói trong cơn đau đớn lẫn khoan dung. Nicolas nhấc một cánh tay, cô ngả người vào cái ôm ghì. Siết chặt lấy Elena, hắn ru cô nhẹ nhàng khi ánh nắng cuối cùng vụt tắt.
Tiếng thép va vào thành bê tông thật mạnh mẽ, dứt khoát, âm thanh kết thúc của cái gọi là Hầm trú ẩn được niêm phong. Vài giây sau, một bức tường Quan tài đổ sụp. Những tụ điện tạo chấn đã hoạt động theo như kế hoạch, nhưng Hầm trú ẩn đã đóng nhanh, kiên cố xung quanh, nên nguy cơ đe dọa những tính mạng người bên ngoài đã không còn nữa. May mắn không chào đón hắn.
Nicolas ngước nhìn lên nóc vòm sáng đèn. Mặt trong của lớp thép được bọc polycacbonat, cách tốt nhất để phản chiếu và giữ lại phóng xạ bên trong.
Điều đó chẳng còn ý nghĩa, nhưng Nicolas lật nắp chiếc huy hiệu định lượng cất trong túi áo khoác. Bề mặt hiển thị màu trắng lúc kiểm tra sáng nay, giờ đã đen kịt.
Hắn buông tay, ôm lấy Elena chặt hơn.
“Tại sao?” Giọng hắn nghẹn ngào.
Biết bao nhiêu chất vấn đằng sau câu hỏi đó. Tại sao Elena lại phản bội hắn? Nicolas biết rằng cô có câu trả lời. Nhưng mọi thứ đã mất hết ý nghĩa. Và tại sao cô lại quay về đây?
Elena vẫn im lìm. Hắn cựa quậy nhận ra mắt cô đã đờ đẫn.
Chết.
Hắn cũng chẳng khác hơn. Cái chết sống.
Hắn hiểu rõ kết cục nào đang chờ đợi. Hắn đã sống quãng đời vinh quang tìm kiếm những cái chết. Thêm đau đớn vì ô nhục.
Có thứ gì đó trượt khỏi tay Elena, rơi lên đùi hắn khi hắn kéo cô sát lại. Hắn vươn tay nắm lấy món quà cuối cùng.
Khẩu súng lục.
Cô đã nhặt lên từ dưới sàn.
Cũng là lý do cô đến đây.
Để chào tạm biệt và trao cho hắn con đường giải thoát.
Hắn nép mình hôn vào đôi môi lạnh cóng một lần cuối. “Tymoyo solnyshko…”
Cô là mặt trời thật sự.
Ghì chặt Elena, hắn nâng khẩu súng lên môi.
Tìm kiếm sự giải thoát.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.