Chernobyl?” Elizabeth ngạc nhiên hỏi. “Cha tôi đã làm gìở Nga?”
Cô tập trung vào hai người đàn ông đang ngồi đối diện cô ở bàn cà phê. Cô lọt thỏm trong chiếc ghế bành, xoay lưng lại ôcửa sổ nhìn ra cánh rừng thuộc Công viên Rock Creek. Họ đã lái xe đến đây sau khi rời khỏi bảo tàng. Gray đã dùng cụm từ “nhà lánh nạn” với mục đích khiến cô cảm thấy an toàn chút ít. Giống như một tình tiết trong tiểu thuyết trinh thám, vẻ quyến rũ của ngôi nhà – một tác phẩm thủ công hai tầng xây bằng gạch nung và ốp gỗ sôi đỏ được đánh bóng – cũng giúp cô trấn tĩnh.
Phần nào.
Cô đã tắm rửa khi vừa tới đây, mất vài phút để kỳ cọ bàn tay và té nước lên mặt. Nhưng tóc cô vẫn ám mùi khói, móng tay vẫn bết sơn. Sau đấy, cô ngồi yên lặng năm phút trên ghế, tay úp mặt, cố gắng hình dung lại vài giờ trước đây. Cô không biết rằng mình đang khóc cho đến lúc nhận ra hai bàn tay ướt nhẹp. Tất cả đều quá sức tưởng tượng. Cô còn không có cơ hội nhìn thấy cha lần cuối. Mặc dù không nghi ngờ sự thật về cái chết của cha, cô vẫn chưa chấp nhận nổi thực tế.
Cho đến khi nào chưa có câu trả lời.
Câu trả lời chính là những gì hối thúc cô nhanh chóng ra khỏi phòng tắm.
Cô ngước mắt nhìn người đàn ông đang tiến đến bàn với tách cà phê trên tay. Ông được giới thiệu là cấp trên của Gray, Giám đốc Painter Crowe. Cô quan sát ông. Gương mặt ông góc cạnh, da rám nắng. Là một nhà nhân chủng học, cô thấy được nét kế thừa của dòng dõi bản địa từ đôi mắt ông, bất kể màu xanh băng giá ánh lên trong đó. Mái tóc sẫm màu điểm một vệt tráng trông như một sợi lông diệc cài bên tai.
Gray ngồi cùng ghế sô pha với ông, khom người và lướt qua chồng giấy trên bàn.
Kowalski chân đeo vớ dài quay trở ra từ trong bếp, trước khi có câu hỏi nào được đặt ra. Đôi giày vừa mới đánh bóng của anh chàng đang nằm trên nền lò sưởi lạnh lẽo. “Tôi tìm thấy bánh quy Ritz với cả thứ gì trông giống như phô mai. Không chắc nữa. Nhưng họ có xúc xích khô.”
Anh chàng cúi xuống đặt chiếc đĩa trước mặt Elizabeth.
“Cảm ơn, Joe,” cô tỏ lòng biết ơn đối với hành động rất đơn giản mà thực tế, không giống những bí ẩn phức tạp đang chờ đón cô.
Anh chàng to lớn hơi đỏ mặt ngại ngùng.
“Không có gì,” chất giọng khàn khàn cất lên khi anh chàng đứng thẳng người lại. Mắt vẫn hướng vào chiếc đĩa như quên mất điều gì muốn nói, anh chàng bỗng dưng lắc đầu, bỏ đi kiểm tra lại đôi giày.
Painter ngồi ngay ngắn hơn, lôi kéo sự chú ý của Elizabeth. “Về vấn đề Chernobyl, chúng tôi không biết tại sao cha cô đến đó. Thật ra, chúng tôi đã lướt qua hộ chiếu của ông. Không có dấu tích nào cho thấy ông đến Nga hay nhập cảnh vào Mỹ. Chúng tôi chỉ có thể nhận định ông đã đi bằng hộ chiếu giả. Ghi chép cuối cùng chúng tôi biết được là ông đã di chuyển cách đây năm tháng, ông bay sang Ấn Độ. Đó là tin tức cuối cùng chúng tôi biết được về nơi ở của ông.”
Elizabeth gật đầu. “Ông thường đến đó, ít nhất hai năm một lần.”
Gray rướn người lên. “Tới Ấn Độ. Tại sao?”
“Nghiên cứu. Ông là một nhà thần kinh học đang nghiên cứu vấn đề cơ sở sinh học của năng khiếu, ông làm việc chung với một giáo sư tâm lý tại Đại học Mumbai.”
Gray thoáng nhìn sang người cấp trên.
“Tôi sẽ xem xét kĩ hơn,” Painter đáp lời. “Nhưng tôi có nghe nói đến mối quan tâm của cha cô dành cho vấn đề năng khiếu và khả năng trực giác. Thật ra, đó là mấu chốt của mối liên hệ giữa ông với Nhà Jason.”
Phát ngôn cuối cùng hướng về Gray nhưng Elizabeth bỗng hóa đá khi nghe nhắc đến tên tổ chức. Cô không giấu nổi sự ghê tởm. “Vậy là ông biết về họ – Nhà Jason.”
Painter nhìn Gray rồi lại nhìn cô. “Phải, chúng tôi biết cha cô làm việc cho họ”
“Làm việc ư? Ám ảnh về họ thì đúng hơn.”
“Ý cô là sao?”
Elizabeth giải thích về thời gian làm việc trong quân đội đã dấy lên niềm đam mê thiêu đốt cha cô ra sao. Mỗi mùa hè, cứ đúng thời điểm đó ông lại biến mất hàng tháng trời, có khi lâu hơn. Thời gian còn lại trong năm, ông cống hiến bản thân cho nhiệm vụ của một giáo sư tại M.I.T. Kết quả là ông hiếm khi ở nhà. Điều đó đã khiến cho mối quan hệ giữa cha mẹ cô căng thẳng. Những nghi ngờ, buộc tội dẫn đến cãi vã, lục đục. Mẹ cô tin rằng ông đang ngoại tình.
Căng thẳng gia đình chỉ khiến cha cô thêm xa cách. Một cuộc hôn nhân lung lay bỗng trở thành đống đổ nát. Mẹ cô, gần như một con sâu rượu, đã trượt dài qua cả giới hạn. Khi Elizabeth mười sáu tuổi, bà say rượu và lao cả chiếc xe suv của gia đình xuống sông Charles. Chẳng ai xác định được đó là một vụ tai nạn hay tự tử.
Nhưng Elizabeth biết rõ ai là người phải gánh chịu trách nhiệm.
Từ ngày đó trở đi, cô hiếm khi nói chuyện với ông. Mỗi người thu mình vào một thế giới riêng. Giờ đây ông cũng đã ra đi. Mãi mãi. Dù mất mắt, cô cũng chẳng thể nguôi ngoai chút oán hận nào cô dành cho ông. Ngay cả khi cái chết kỳ lạ của ông bỏ lại quá nhiều điều chưa giải thích nổi.
“Ông có nghĩ là mối liên hệ với Nhà Jason dính dáng đến cái chết của cha tôi?” Cô cất tiếng hỏi.
Painter lắc đầu. “Khó nói lắm. Cuộc điều tra chỉ mới bắt đầu. Nhưng tôi đã khám phá ra cha cô được giao dự án quân sự cấp độ nào. Nó được gọi là Dự án…”
“… Stargate” Elizabeth kết thúc hộ ông. Cô có chút hài lòng khi thấy biểu hiện bất ngờ từ phía ông.
Kowalski ngồi thẳng người bên lò sưởi. “Này, tôi có xem một bộ phim về nó… có người ngoài hành tinh và các thứ, đúng không?”
“Không phải Stargate đó đâu, Joe,” cô đáp. “Đừng lo lắng, ngài Crowe. Cha tôi không tiết lộ giới hạn tuyệt mật của ông ấy. Tôi nghe cha tôi nhắc đến tên dự án vài lần. Sau đó một thập niên, tôi đọc được những báo cáo giải mật của CIA, tiết lộ nhờ Đạo luật Tự do Thông tin.”
“Dự án này như thế nào?” Gray hỏi.
Painter nhìn xuống chồng tài liệu trên bàn. “Mọi chi tiết đều nằm ở đây, quay về thời Chiến tranh lạnh. Nó được kiểm soát chính thức bởi đầu não lớn thứ nhì cả nước, Học viện Nghiên cứu Stanford, nơi vạch kế hoạch hỗ trợ phát triển những công nghệ tàng hình. Nhưng vào năm 1973, Học viện được CIA ủy thác điều tra tính khả thi của việc sử dụng siêu tâm lý học hỗ trợ cho hoạt động thu thập tình báo.”
“Siêu tâm lý học?” Gray nhướn lông mày.
Painter gật đầu. “Ngoại cảm, siêu năng… nhưng hầu như họ tập trung vào cảm quan từ xa, dùng cá nhân để định vị các khu vực và hoạt động từ xa chỉ bằng sức mạnh trí não. Một dạng gần như là thần giao cách cảm về mặt không gian.”
Từ bên kia phòng, Kowalski khụt khịt chế nhạo. “Những điệp viên lên đồng.”
“Nghe có vẻ điên rồ nhưng anh phải hiểu là suốt thời kỳ đen tối của Chiến tranh lạnh, bất cứ lợi thế nào lĩnh hội cho nhà nước Xô viết phải được tình báo của ta biến thành công cụ phù hợp. Bất cứ lỗ hổng công nghệ nào cũng không được phép dung thứ. Liên bang Xô viết đang rút khỏi mọi điểm dừng. Đối với Liên Xô, siêu tâm lý học là một lĩnh vực đa ngành, bao gồm cả kĩ thuật sinh học, vật lý sinh học, vật lý tâm thần học, sinh lý học và bệnh học thần kinh.”
Painter gật đầu tán thành những gì Elizabeth nói. “Tương tự công việc cha cô đã tiến hành đối với khả năng trực giác và năng khiếu. Bệnh học thần kinh nghiên cứu vấn đề đó.”
Elizabeth dõi mắt về Gray. Với ánh nhìn thận trọng, có vẻ như ông khó lòng bị thuyết phục nhưng vẫn tiếp tục lặng yên lắng nghe. Cô cũng vậy.
“Theo những báo cáo của CIA, Liên Xô bắt đầu tạo ra thành quả. Năm 1971, kế hoạch của họ bỗng nhiên chìm vào bóng tối. Thông tin cạn kiệt. Tất cả những gì chúng tôi biết chắc đó là nghiên cứu được tiếp tục ở Nga, do KGB tài trợ. Ta phải tham gia hoặc sẽ tụt hậu phía sau. Vì vậy Học viện Nghiên cứu Stanford được ủy thác để điều tra.”
“Vậy thành quả của họ là gì?” Gray thắc mắc. “Kết hợp thành công nhất,” Painter đáp.
Elizabeth cũng đã đọc những báo cáo giải mật. “Thật ra, thành công của dự án là khá nhỏ.”
“Không hoàn toàn đúng,” Painter phản bác. “Những báo cáo chính thức cho thấy cảm quan từ xa tạo ra kết quả hữu ích đến mười lăm phần trăm, vượt trên cả xác suất thống kê. Sau đó mới có những trường hợp ngoại lệ. Chẳng hạn như một họa sĩ ở New York, Ingo Swann. Anh ta có khả năng mô tả chi tiết những tòa nhà mặc dù chỉ đơn giản biết được tọa độ kinh tuyến và vĩ tuyến. Những thành công của anh này, như một số quan chức, là lên đến ngưỡng tám mươi lăm phần trăm.”
Painter chắc chắn đã nhận ra sự ngờ vực tiếp nối trong mắt cả hai người, ông vỗ vào tập tài liệu. “Kết quả của Học viện Nghiên cứu Stanford được nhân rộng thông qua kiểm nghiệm tại thành phố Fort Meade và Phòng Thí nghiệm Nghiên cứu Kĩ thuật Dị thường Princeton. Thêm nữa, có nhiều thành công nổi bật. Một trong những trường hợp được ca ngợi là vụ bắt cóc và giải cứu Chuẩn tướng James Dozier. Theo những nhà vật lý phụ trách dự án thì một người cảm quan từ xa đã xác định tên thành phố nơi vị tướng bị giam giữ, còn một người khác đã mô tả chi tiết tòa nhà, cả con đường xuống đến chiếc giường ông bị xích. Những thành công như vậy khó có thể bác bỏ.”
“Đúng vậy,” Elizabeth tiếp lời ông. “Theo hiểu biết của tôi, nghiên cứu dừng lại vào giữa những năm 1990. Chương trình bị gỡ bỏ.” “Không hoàn toàn,” Painter xen vào đầy khó hiểu.
Trước khi ông giải thích, Gray tiếp lời. “Nhưng trở lại từ đầu, tất cả những cái đó liên quan gì đến Nhà Jason?”
“À, tôi đang chuẩn bị nói chuyện đó. Có vẻ như Học viện Nghiên cứu Stanford, cũng giống như Liên Xô, đã bắt đầu triển khai các thông số nghiên cứu của họ, mở rộng nó đến những ranh giới khoa học khác.”
“Như là bệnh học thần kinh,” Gray thêm vào. “Công việc của giáo sư Polk.”
Painter gật đầu. “Trong quá trình dự án được phân loại rõ, họ đã tính đến hai thành viên Nhà Jason, những người đang nghiên cứu song song một vấn đề. Một trong số đó là cha cô, Elizabeth. Người còn lại là Tiến sĩ Trent McBride, chuyên gia y sinh trong ngành sinh lý học về não bộ.”
Elizabeth biết cái tên này. Cô nhớ những lần viếng thăm về khuya, cha cô cùng những đồng sự lạ mặt tách ra để họp bàn nghiên cứu, trong đó có Tiến sĩ McBride. Khó mà quên được ông vì giọng nói ồ ồ huyên náo nhưng lại rất nhiệt tình tốt bụng, ông thường mang quà cho cô khi cô còn nhỏ. Những tuyển tập đầu tiên của nhà văn Nancy Drew.
“Tôi đã cố liên lạc với Tiến sĩ McBride,” Painter tiếp tục.
“Chỉ biết được rằng không ai nghe thấy tin tức gì từ ông kể từ năm tháng trước.”
Elizabeth cảm thấy ớn lạnh. Năm tháng. “Cùng quãng thời gian cha tôi bay đến Ấn Độ.”
Cả cô và Gray đều nhìn nhau lo lắng.
Chuyện gì đã xảy ra?
9:40 tối
Yuri Raev bước ra khỏi thang máy tầng hầm thuộc cơ quan nghiên cứu. Sau khi gọi điện, ông mất bốn mươi lăm phút mới đến được Học viện Nghiên cứu Quân sự Walter Reed ở Maryland. Tòa nhà với diện tích khu thí nghiệm lên đến hơn hai trăm ngàn mét vuông, đa số được chỉ định dùng cho việc nghiên cứu những hiểm họa sinh học BL-3, nghĩa là tất cả các căn bệnh truyền nhiễm.
Yuri đã dùng đến một mật mã gây hoang mang – Pandora – để vào được Nhà Jason. Mất thêm mười phút để gửi đi tín hiệu cảnh báo cho những gì ông đang theo đuổi, một âm mưu của tổ chức từng hợp tác với Nga trong dự án vì lợi ích tốt đẹp hơn của cả hai quốc gia. Yuri hy vọng Nhà Jason sẽ thay mặt ông đưa Sasha ra khỏi bàn tay của Mapplethorpe. Với kinh nghiệm khoa học dày dạn, Nhà Jason hiểu rõ cần mềm mỏng ra sao trong cách đối xử với đứa trẻ, cả về mặt sinh lý và tâm lý.
Trong khi đó, Mapplethorpe chỉ biết đến chính sách “bên miệng hố chiến tranh”, những tham vọng chính trị và lợi ích cá nhân mù quáng. Yuri không tin tưởng người đàn ông đó.
Yuri cần đến những đồng minh trên đất Mỹ để hỗ trợ ông trong vụ mất tích của Sasha.
Ông được hướng dẫn đến gặp Tiến sĩ James Chen, một nhà thần kinh học đồng thời là thành viên của mạng lưới nội bộ, để vạch kế hoạch.
Họ sẽ cùng nhau tham gia.
Người có khả năng hỗ trợ, ông từng được bí mật mắch bảo.
Yuri nhận những chỉ dẫn cụ thể và nhanh chóng được thông hành đến địa điểm gặp gỡ. Ông bắt đầu đi xuống tiền sảnh. Vào giờ này, cửa đã đóng hết. Vài phòng thí nghiệm đặt ở tầng dưới. Mùi thuốc tẩy khiến ông nghẹt thở, át đi mùi xạ hương đâu đó. Đằng sau một cánh cửa, ông nghe thấy có tiếng kêu quen thuộc khẽ rúc lên như loài khỉ. Đây là nơi cư ngụ của những đối tượng nghiên cứu là động vật sống, vắng người vào giờ này.
Ông kiểm tra số phòng.
B-2 340
Ông gõ vào cánh cửa gắn kính mờ. Có bóng người đi ngang qua ô kính, cửa được mở tức thì.
“Tiến sĩ Raev. Cảm ơn ông đã tới.”
Yuri nhìn thoáng qua người đàn ông trẻ tuổi gốc châu Á khi anh này quay lưng lại. Anh ta mặc áo khoác thí nghiệm phủ ngoài chiếc quần bò màu xanh. Cặp mắt kính yên vị trên đỉnh đầu như đã bị quên lãng. Trong phòng có một chiếc bàn thực nghiệm dọc bờ tường, những lồng thép không gỉ chất đầy phía đối diện. Vài cái mũi đen đầy râu nhoi ra ngoài thanh chắn. Tiếng cào xước sột soạt của mấy móng chân bé tí khẽ phát ra từ những chiếc lồng. Phòng thí nghiệm chuột. Chỉ có điều là những con chuột thiếu lông, chỉ có râu.
Tiến sĩ Chen dẫn ông đi qua cánh cửa màu đen đã mở. Đó là một văn phòng bừa bộn: chiếc bàn thép với báo chí chất chồng, tấm bảng tráng chen chúc những việc cần làm được ghi vắn tắt và đóng khung, một cái kệ nhét đầy những bình mẫu vật bằng thủy tinh.
Yuri rất đỗi ngạc nhiên nhận ra nhân vật quen thuộc nặng nề đằng sau bàn làm việc, điện thoại di động trên tai. Người đàn ông ấy, quãng độ ngoài năm mươi, khổ người to lớn kế thừa từ dòng dõi Scotland, đôi gò má hồng hào bên cạnh bộ râu quai nón màu xám lấm chấm đỏ được tỉa gọn gàng quanh chiếc hàm bạnh. Ông là lãnh đạo của tổ chức Jason, được chỉ định hỗ trợ cho Nga – đồng thời là cộng sự và bạn lâu năm của Archibald Polk.
Tiến sĩ Trent McBride.
“Ông ấy vừa đến,” ông ta vừa nói điện thoại vừa gật đầu với Yuri. “Tôi sẽ liên lạc trong khoảng một giờ nữa.”
McBride tắt điện thoại di động, đứng dậy và chìa tay về phía Yuri. “Tôi đã cập nhật tình hình của ông, Yuri. Đây là ưu tiên hàng đầu vì tình trạng sức khỏe yếu ớt của cô bé. Chúng tôi sẽ làm hết sức có thể để tìm ra đứa trẻ.”
Yuri bắt tay ông và ngồi xuống. Dù hơi giật mình nhưng ông cảm thấy nhẹ nhõm vì đã tìm thấy McBride ở đây. Bên dưới dáng vẻ đôn hậu của con người này là một trí tuệ nhạy bén và thực tế.
“Vậy là ông đã hiểu,” Yuri tiếp lời “việc giành lại được cô bé quan trọng ra sao? Và cấp thiết.”
Ông gật đầu. “Cô bé có thể sống sót trong vòng mấy giờ nếu không có thuốc?”
“Ba mươi hai giờ.”
“Đợt tiêm cuối cùng khi nào?”
“Cách đây bảy giờ,” ông trả lời dứt khoát.
Chỉ còn lại hơn một ngày để tìm thấy Sasha.
“Vậy thì ta phải hành động thật nhanh,” McBride kiên quyết. “Có thể ông biết, Mapplethorpe đã gọi cho tôi. Thực ra đó là lý do tôi ở đây một mình.”
“Tôi nghĩ là ông ở Geneva. ông không quyết định để lộ danh tính đấy chứ? Ý tôi là ẩn danh?”
“Chỉ vì những vấn đề của Archibald phát sinh.” Mắt ông hơi xoáy vào Yuri. “Điều gì đến phải đến thôi. Cho dù kết quả có thể tốt đẹp hơn. Ông ấy là bạn tôi.”
“Ông cũng như tôi đều biết rằng giáo sư Polk sẽ không thể sống sót trong vài ngày nữa. Tôi phải làm điều cần thiết.”
McBride có vẻ xoa dịu đôi chút.
“Hẳn ông còn nhớ,” Yuri biện minh, “Tôi đã bỏ phiếu chống đối việc tiếp cận giáo sư Polk ngay từ địa điểm đầu tiên.”
McBride ngồi thụp xuống ghế, chiếc ghế phát ra âm thanh kin kít. “Tôi thực sự nghĩ là Archibald phải chịu trách nhiệm nhiều hơn thế, đặc biệt là khi ông ấy trực tiếp nhìn thấy dự án.” Cuối cùng thì đó lại là một phần công việc phụ trội trong cuộc đời ông ấy. Xét đến mối đe dọa mà ông ấy tạo ra thì lựa chọn duy nhất là…”
Thêm một cái nhún vai đau buồn.
Giáo sư Polk đã đặt chân quá gần đến cốt lõi của dự án nghiên cứu. Gần hơn cả những gì McBride được biết. Họ chỉ còn hai lựa chọn: thu nạp hoặc trừ khử ông.
Lựa chọn thu nạp đã thất bại… thảm hại.
Sau khi được mang đến căn cứ Warren, vị giáo sư đã trốn thoát với những tin tức tình báo có giá trị. Họ không còn cách nào khác là phải dồn ông vào con đường cùng.
“Tôi lấy làm tiếc về Archibald,” Yuri thành khẩn.
Và ông thực sự tiếc thương. Cái chết của giáo sư Polk vẫn là một tổn thất to lớn dù là cần thiết. Đối với riêng ông, vị giáo sư này đã làm được quá nhiều điều, thậm chí dám bóc trần những sự thật mà Nga đang giấu kín trước Mỹ. Rốt cuộc thì cả hai bên đều đánh giá thấp giáo sư Polk.
Trước khi tóm được ông và cả sau đó.
Yuri tiếp lời, “Về việc cô bé bị mất tích..
McBride xen vào. “Tối đoán cô bé là một trong những đối tượng Omega của ông.”
Ông gật đầu xác nhận. “Được kiểm tra ở ngưỡng vi phân chín mươi bảy. Cô bé là yếu tố sống còn đối với dự án của chúng ta. Cho công việc của cả hai ta. Tôi e rằng Mapplethorpe không hiểu được mức cân bằng nhạy cảm cần có để giữ cho một đối tượng Omega sống sót và hoạt động.”
McBride chà chà lên sống mũi. “Khi tôi nói chuyện điện thoại với ông ta, Mapplethorpe đã ám chỉ bộc trực rằng chúng ta muốn giành giật đứa trẻ cho riêng mình.”
“Tối ngờ là ông ta sẽ làm điều gì đó tương tự.”
Cánh cửa nối với văn phòng bên ngoài bật mở phía sau Yuri.
Ông nghe thấy tiếng Tiến sĩ Chen đang chào đón ai đó, khá kiểu cách và hình thức.
Yuri xoay người lại, choáng váng khi thấy đối tượng vừa trò chuyện đứng ở cửa. Khuôn mặt trũng sâu của Mapplethorpe trông khắc khổ hơn thường thấy. Một nỗi e sợ đến rùng mình chợt dâng lên trong ông.
McBride đứng dậy. “John, chúng tôi vừa nhắc đến ông. Quân của ông có may mắn lấy được thêm cái đầu lâu nào không?”
“Không. Chúng tôi đã lùng sục cả hai bảo tàng.”
“Kỳ lạ thật,” McBride cau mày lo lắng. “Có tin gì về đứa bé gái?”
“Trực thăng đã rà soát hết các vị trí trong thành phố, từng khu một, bắt đầu tỏa ra từ vườn thú. Vẫn không có kết quả nào hiển thị trên thiết bị theo dõi.”
Yuri tập trung vào đoạn thông tin cuối. “Theo dõi… thiết bị theo dõi nào?”
McBride bước quanh bàn. Ông đưa một bàn tay nắm chặt về phía Yuri – rồi xòe ra, để lộ một vật thể nhỏ xíu nằm giữa lòng bàn tay.
Chỉ lớn hơn đầu một cây kim.
Đến nỗi Yuri phải cúi người xuống gần hơn để thấy được nó.
“Những điều kỳ diệu từ công nghệ nano,” McBride giải thích. “Một máy thu phát thụ động cực nhỏ với bộ giảm xung đột ngột, tất cả được gắn trong một ống polymer vô trùng. Lần cuối đến căn cứ Warren, tôi đã cho tiêm vào người lũ trẻ.”
Yuri không mảy may hay biết việc cấy ghép ấy, và rồi ông không thể giữ được bình tĩnh. “Savina chấp thuận những thiết bị theo dõi này sao?”
Ông ngước nhìn một bên lông mày của McBride nhướn lên có vẻ ngụ ý. “”Tôi chắc là ông phải thông minh hơn thế, tiến sĩ Raev”.
Yuri nhận ra vị tiến sĩ người Mỹ đang bóng gió điều gì. Savina hoàn toàn không biết vấn đề này. Chỉ có McBricde, kẻ đã bí mật tiêm cho những đứa trẻ, ngoài ra không còn ai khác biết. Ông ta đã nhiều lần tiếp xúc những đứa trẻ nhưng luôn nằm trong tầm kiểm soát. Yuri quan sát kích thước của máy thu phát siêu nhỏ. Nó quá nhỏ, người ta dễ dàng tìm ra hàng trăm cách để gắn vào đâu đó.
Làm sao McBride có thể…?
Yuri nhanh chóng kết nối những khả năng, gợi ý và cả những hệ quả. McBride nhất định đã đặt thiết bị theo dõi lên tất cả lũ trẻ. Một khi đã cấy ghép xong, nhiệm vụ còn lại là tạo ra kịch bản phù hợp, khi ấy sẽ đòi hỏi một hay vài đứa trẻ phải rời xa tổ ấm của chúng.
Yuri hình dung ra khuôn mặt của Archibald Polk. Phát hiện đó đã giáng đòn đau vào ông như một cơn bão mặt trời.
“Toàn là âm mưu,” Yuri thở hổn hển. “Cả cuộc đào thoát của giáo sư Polk…”
McBride mỉm cười đồng thuận. “Rất tốt.”
Bóng của Mapplethorpe sụp xuống trước mặt ông như một sức nặng ngàn cân.
Yuri đã bị chơi xỏ, ông giận dữ nhìn sang McBride. “Chính ông có mặt ở Warren khi Archibald trốn thoát. Chính ông đã giúp ông ta trốn thoát.”
Một cái gật đầu. “Chúng tôi cần dùng cách nào đó để nhử một trong những đối tượng Omega của ông ra ngoài.”
“Chính ông đã lấy giáo sư Polk làm mồi nhử. Đó là bạn ông, đồng nghiệp của ông.”
“Một điều cần làm, tôi e là vậy.” “ông ấy… Archibald có biết ông ấy đang bị lợi dụng không?”
McBride thở dài, giọng mệt mỏi. “Tôi nghĩ là ông ta đã nghi ngờ… mặc dù ông ta không có nhiều lựa chọn. Hoặc là chết hoặc là chiến đấu. Đôi khi anh phải trở thành một kẻ ái quốc cho dù có muốn hay không. Phải nói là ông ta đã làm rất tốt. Gần đạt ranh giới mục tiêu.”
“Tất cả những việc này, chỉ nhằm bắt cóc một đứa trẻ?”
McBride lại cọ tay vào sống mũi. “Chúng tôi nghi ngờ người Nga các anh đang che giấu gì đó, đúng không?”
Yuri tỏ ra thờ ơ. McBride đã đúng, nhưng ông ta không hề biết phạm vi che giấu rộng lớn đến nhường nào.
“Chúng tôi sẽ dùng đứa trẻ này,” McBride vẫn tiếp tục, “để bắt đầu chương trình tại đây, ngay trên đất Mỹ. Để khai thác chi tiết hơn những gì các ông đã tác động đến nó. Mặc dù chúng tôi đã thẩm tra nhiều lần, nhóm của ông vẫn chưa cung cấp đủ tư liệu. Các ông đã che giấu dữ liệu then chốt ngay từ ban đầu.”
Và họ có cả những kế hoạch cho tương lai – không chỉ mỗi dữ liệu.
Yuri hỏi lớn, “Thế còn thuốc của Sasha thì sao?”
“Chúng tôi sẽ lo. Bên cạnh sự hợp tác của ông.”
Yuri lắc đầu. “Không bao giờ.”
“Tôi thấy tiếc vì ông nói thế.”
Cái nheo mắt của McBride khiến Yuri có cảm giác bất ổn phía sau.
Mapplethorpe cầm súng trong tay.
Phát đạn bắn thẳng.
9:45 tối
Gray không phải là người thích những trùng hợp ngẫu nhiên. Hai nhà khoa học của cùng một dự án bỗng đồng thời mất tích – sau đó một người trở lại Washington, bị nhiễm xạ và đối mặt với cánh cửa tử thần.
Gray xoa bóp chỗ đau sau thái dương. “Eliiabeth, tất cả phải có mối ràng buộc nào đó với nghiên cứu ban đầu của cha cô.”
Painter gật đầu. “Nhưng câu hỏi là như thế nào? Nếu ta biết thêm chi tiết… có lẽ là điều không nằm trong những ghi chép của cha cô.”
Câu hỏi lảng vảng vẫn không tìm được câu trả lời.
Elizabeth nhìn xuống chân. Hai bàn tay cô siết chặt. Cuối cùng cô nhận ra sự căng thẳng đang tôn tại, thả lỏng tay và duỗi ra đôi chút.
Cô lẩm nhẩm một cách buồn tẻ. “Tôi không biết nữa. Những năm cuối… chúng tôi không nói chuyện nhiều, ông không vui vì tôi theo ngành nhân chủng học. Ông muốn tôi nối nghiệp…” Cô lắc đầu. “Đừng bận tâm.”
Gray với tay rót một cốc cà phê nóng rồi chuyền sang cho cô. Cô gật đầu nhận lấy. Cô không uống, chỉ ấp hai lòng bàn tay vào sưởi ấm.
“Cha cô chắc không quá buồn vì lựa chọn nghề nghiệp của cô đâu,” Gray an ủi. “ông còn xin được vị trí nghiên cứu cho cô ở bảo tàng bên Hy Lạp nữa cơ mà.”
Cô lắc đầu. “Sự giúp đỡ của ông không vị tha như anh tưởng. Bố tôi lúc nào cũng đam mê Nhà Tiên tri vùng Delphi. Những phụ nữ tiên tri đã gắn chặt trong những nghiên cứu của ông về khả năng trực giác và năng khiếu. Cha tôi bắt đầu tin rằng có gì đó cố hữu ở những phụ nữ ấy, những phát ngôn của họ. Một sự tương đồng có tính di truyền. Hay là sự bất thường trong thần kinh giao cảm. Nên ông thấy đấy, cha tôi giành vị trí ấy ở Delphi để tôi có thể giúp ích cho nghiên cứu của ông.”
“Nhưng chính xác ông ấy nghiên cứu thể loại gì?” Gray gợi mở câu trả lời từ phía cô. “Bất cứ điều gì ông ấy nghĩ là sẽ giúp ích.”
Cô thở dài. “Tôi có thể nói anh nghe điều gì đã khiến cha tôi ám ảnh về khả năng trực giác và năng khiếu.” Cô nhìn vào khoảng không giữa họ. “Hai ông có biết về những thí nghiệm cổ xưa nhất của người Nga liên quan đến khả năng trực giác?”
Họ lắc đầu.
“Đó là một thí nghiệm kinh hoàng, nhưng ăn khớp với chuyên môn thần kinh học của riêng cha tôi. Vài thập niên trước đây, người Nga tách rời một con mèo mẹ với những đứa con của nó. Rồi họ thả lứa mèo con xuống một tàu ngầm. Trong lúc kiểm tra những dấu hiệu sinh tôn của mèo mẹ, các thủy thủ giết một chú mèo con. Đúng thời điểm điều này xảy ra, nhịp tim của mèo mẹ tăng đột ngột, hoạt động não bộ của nó được ghi nhận là đau đớn dữ dội. Mèo mẹ trở nên kích động và hoảng loạn. Họ lặp lại thí nghiệm như vậy với những con mèo con khác vài ngày sau. Mỗi lần như thế đều cho chính xác kết quả tương tự. Mặc dù bị tách xa nhau, mèo mẹ dường như vẫn cảm nhận được cái chết của những đứa con.”
“Một hình thức bản năng của người mẹ,” Gray phát biểu.
Elizabeth gật đầu. “Hay là khả năng trực giác. Cha tôi cũng đi theo cách đó, đây là bằng chứng về một vài liên kết sinh học người ta có thể xác minh. Ông tập trung nghiên cứu để tìm ra một cơ sở cho hiện tượng kỳ lạ này. Cuối cùng ông phối hợp với một giáo sư ở Ấn Độ, người này đang nghiên cứu khả năng tương tự xuất phát từ những thiền sinh và người có khả năng thần bí tại đất nước này.”
“Những khả năng gì?” Painter tò mò.
Elizabeth nhấp một ngụm cà phê nóng. Cô khẽ lắc đầu. “Cha tôi bắt đầu đọc những giai thoại về con người có năng lực tâm linh đặc biệt, ông loại trừ những kẻ lập dị và lang băm, tìm kiếm những trường hợp hiếm gặp mà bằng chứng có khả năng được xác minh thông qua các nhà khoa học thực thụ. Như Albert Einstein.”
Gray không ngăn được kinh ngạc. “Einstein sao?”
Cô gật đầu. “Tại thời điểm chuyển giao thế kỷ, một phụ nữ Ấn Độ tên là Shakuntala đã được đưa đến các trường đại học trên khắp thế giới để biểu diễn khả năng kỳ lạ của bà. Học vấn của bà tương đương với học sinh trung học nhưng lại có một kĩ năng toán học không thể giải thích được. Làm những phép tính lớn bằng cách nhẩm.”
“Một dạng tài năng bác học?” Painter hỏi thêm.
“Thực ra còn hơn thế. Với viên phấn trong tay, người phụ nữ đó có thể viết ra câu trả lời cho một câu hỏi trước khi nó được đọc. Ngay cả Einstein cũng chứng kiến khả năng của bà. Ông đưa cho bà một câu hỏi mà ông đã mất ba tháng để giải đáp, bao gồm các bước khá rối rắm. Một lần nữa bà ghi ra câu trả lời bằng phấn, một lời giải chiếm hết chiều rộng của chiếc bảng đen, trước khi ông kết thúc câu hỏi. Ông hỏi bà làm thế nào có thể thực hiện điều đó, nhưng chính bà cũng không biết, nói rằng những con số cứ thế xuất hiện trước mắt, chỉ đơn giản là bà ghi lại chúng.”
Elizabeth chăm chú nhìn, chờ đợi sự hoài nghi từ hai người đàn ông. Nhưng Gray chỉ gật đầu hưởng ứng. Sự phục tùng của ông dường như khiến cô khó chịu, như thể nếu Gray bác bỏ những câu chuyện như thế mới có thể làm sáng tỏ được điều gì trong cô.
“Cũng có những trường hợp khác,” cô tiếp lời. “Cũng ở Ấn Độ. Cậu bé kéo xe hai bánh ở Madras. Cậu bé có thể trả lời các câu đố toán học mà thậm chí không cần nghe đến câu hỏi. Cậu bé giải thích rằng mình có cảm giác băn khoăn khi một ai đó nghĩ đến vấn đề toán học bên cạnh cậu. Và câu trả lời cứ thế xếp hàng trong đầu cậu bé “như những quân cờ”. Cuối cùng cậu bé được gửi đến Oxford để kiểm tra. Chứng minh cho kĩ năng của mình, cậu bé đã trả lời các câu hỏi toán học chưa được giải đáp vào thời điểm đó. Oxford ghi nhận lại những đáp án của cậu. Vài thập niên sau, khi toán cao cấp phát triển, những câu trả lời của cậu được chứng minh là đúng. Lúc đó thì cậu đã chết vì tuổi già.”
Elizabeth đặt cốc cà phê xuống bàn. “Những trường hợp ấy đáng kinh ngạc bao nhiêu thì cũng khiến cha tôi thất vọng đến cùng cực. Ông cần đối tượng thử nghiệm sống. Vì vậy, khi tiếp tục đối chiếu những bằng chứng có tính giai thoại, ông nhận thấy nhiều trường hợp gây tò mò nhất tập trung ở Ấn Độ. Trong số thiền sinh và người có khả năng thần bí. Vào thời điểm đó, những nhà khoa học khác cũng đang khám phá cơ sở sinh lý học cho kĩ năng đáng ngưỡng mộ của thiền sinh. Chẳng hạn như chịu đựng được cái lạnh khắc nghiệt ngày qua ngày chỉ bằng cách điều chỉnh dòng lưu thông của máu đến chân tay và da. Hoặc là nhịn ăn hàng tháng trời bằng cách hạ thấp tỷ lệ trao đổi chất.”
Gray gật đầu tán thành, ông đã nghiên cứu nhiều giáo lý về thiền sinh như vậy. Tất cả chỉ nhằm mục đích kiểm soát tinh thần, tác động vào các chức năng cơ thể được xem là không tự chủ.
“Cha tôi đắm mình trong lịch sử, ngôn ngữ Ấn Độ, thậm chí là những tài liệu tiên tri bằng tiếng Vedic cổ.” Ông tìm ra những thiền sư lão luyện và tiến hành kiểm tra họ: xét nghiệm máu, điện não đồ, lập bản đồ não bộ, ngay cả kiểm tra DNA để phát hiện nòi giống của các cá nhân có năng khiếu nhất. Sau cùng ông chứng minh một cách khoa học rằng có một nền tảng kết cấu trong não bộ, đúng với những gì người Nga thí nghiệm với con mèo mẹ.”
Painter dựa lưng vào ghế sô pha. “Không còn nghi ngờ gì nữa, ông ấy bị dính vào dự án Stanford. Nghiên cứu của ông nhất định có liên quan đến mục tiêu của họ.”
“Nhưng tại sao cha tôi lại bị sát hại vì điều này?
Đã nhiều năm trôi qua rồi.” Cô bắt gặp ánh mắt của Gray. “Không biết cái đầu lâu kỳ lạ có dính dáng gì đến mấy chi tiết này đây?”
“Chúng tôi chưa biết,” Painter đáp lời, “nhưng đến sáng có thể sẽ biết nhiều điều hơn về cái đầu lâu.”
Gray hy vọng ông ấy nói đúng. Đội ngũ chuyên gia đã được cử đến Sigma để kiểm tra vật thể lạ. Gray có đôi chút miễn cưỡng khi cho phép chiếc đầu lâu được vận chuyển đến trung tâm chỉ huy. Cảm nhận nó là chìa khóa cho mọi bí ẩn, ông không muốn đưa nó ra khỏi tầm kiểm soát.
Có tiếng gõ cửa làm gián đoạn cuộc thảo luận.
Painter vươn mình; Kowalski đứng dậy, trong tay vẫn cầm đôi giày.
Gray cũng nhấc chân.
Hai vệ sĩ mặc thường phục đã đứng gác bên ngoài ngôi nhà. Nếu có bất cứ vấn đề gì, họ sẽ gọi điện. Dù vậy, Gray vẫn mở bao súng và rút khẩu súng lục bán tự động ra. Được trang bị điện đàm, tại sao người vệ sĩ lại gõ cửa?
Ông vẫy tay ra hiệu cho mọi người lùi về sau rồi tiến đến cửa trước, ông đứng sang một bên, nhìn vào màn hình nhỏ có bốn phân cảnh, truyền trực tiếp từ những máy quay đặt bên ngoài. Phía trên bên trái hiện rõ hình ảnh mái hiên.
Có hai nhân vật đứng đó, cách cửa vài bước.
Một người đàn ông dẻo dai trong chiếc áo gió màu đỏ dắt theo đứa trẻ. Một bé gái. Cô bé cựa quậy không yên, dây ruy băng buộc trên tóc. Gray nhận định không có đe dọa công khai nào trong cách hành xử của người đàn ông. Tay kia ông ta cầm một tập tài liệu khá dày. Có vẻ như là một phong bì. Nhân vật ấy khom người về phía chân cửa.
Gray bỗng trở nên hồi hộp, nhưng đó chỉ là một mảnh giấy màu vàng. Người đàn ông đã lèn nó qua khe. Mảnh giấy trượt qua sàn nhà đánh bóng ngay sảnh ra vào. Dừng lại dưới chân Gray.
Ông nhìn xoáy vào bức vẽ nguệch ngoạc bằng bút màu đen của đứa trẻ. Nét vẽ thô nhưng tỉ mỉ, miêu tả căn phòng chính của ngôi nhà lánh nạn. Lò sưởi, những chiếc ghế, sô pha. Chính xác như sắp đặt trong phòng. Hình ảnh của bốn người cũng được vẽ ra. Hai người trên ghế sô pha, một người ngồi ghế tựa. Một nhân vật to lớn hơn dựa trước lò sưởi với chiếc giày trên tay, chắc chắn là Kowalski.
Đó là bức tranh vẽ căn phòng của họ.
Gray lại nhìn sang màn hình thu.
Những phân cảnh khác từ ba chiếc máy quay bên ngoài khiến ông chú ý, có chuyển động ở đó. Hai người đàn ông khác cũng mặc áo gió bước vào tầm quan sát. Một vệ sĩ xuất hiện, người còn lại bị khống chế bằng súng.
Kowalski bước đến bên cạnh Gray, rất nhẹ nhàng nhờ cặp vớ dài. Anh chàng quan sát màn hình rồi thở dài.
“Tuyệt thật,” Kowalski nhận xét. “Mọi người làm gì thế này? Đăng địa chỉ nơi ẩn náu lên mạng à?”
Hai vệ sĩ quỳ bên ngoài.
Căn nhà bị bao vây.
Họ đã sập bẫy.
Đầu bên kia thế giới, người đàn ông tên Monk đang tìm kiếm tự do.
Trong khi ba đứa trẻ đứng gác ở cửa phòng bệnh, Monk xoay xở với chiếc quần bò dày màu xanh đậm, hợp với áo sơ mi dài tay ông đang mặc. Hơi khó khăn vì chỉ có một bàn tay. Còn lại trên ghế là chiếc mũ len màu đen viền xoắn và một đôi vớ dày. Ông hất mũ lên đỉnh đầu bị cạo trọc và xỏ chân vào mấy chiếc vớ nặng trịch, sau cùng là đôi giày ống khá dễ chịu nhưng lớp da đã bị mòn xước.
Monk có cơ hội tập trung tinh thần trong khoảnh khắc riêng tư ấy, mặc dù không thể nào lấp nổi những khoảng trống của cuộc đời ông. Ông cũng chẳng nhớ nổi điều gì xảy ra trước khi tỉnh lại nơi đây. Nhưng ít ra nỗ lực mặc quần áo giúp đôi chân ông vững lại.
Ông gặp cậu bé lớn nhất, Konstantin, ngay thềm cửa ra vào làm bằng thép và có chốt chặn bên ngoài. Cánh cửa kiên cố đã tố cáo đây là một cuộc đào thoát mà ông là tù nhân.
Cậu bé nhỏ tuổi nhất, Pyotr, nắm lấy tay Monk và lôi ông ra khỏi hành lang, tránh xa ánh đèn trực ban phòng y tá. Ông nhớ đến lời khẩn cầu trước đó của cậu bé.
Cứu chúng cháu.
Monk chưa hiểu gì cả. Khỏi cái gì? Cô bé gái mà ông vừa mới biết tên, Kiska, dẫn đường đến một cầu thang hậu có bảng hiệu màu đỏ thắp sáng bằng đèn nê-ông. Monk ngước nhìn dòng chữ in trên bảng hiệu khi chạm phải cầu thang.
Ký tự Cyrill.
Hẳn là ông đang ở Nga. Dù mất trí nhớ, ông vẫn biết rằng ông không thuộc về nơi này. Ông suy nghĩ bằng tiếng Anh. Không phải giọng Anh. Có nghĩa ông là người Mỹ, đúng thế không nhỉ? Nếu ông nhận ra được những điều đó, tại sao ông không thể …
Một loạt hình ảnh bỗng nhiên khiến ông mờ mắt, những bức ảnh đã đóng băng về một cuộc sống khác, chập choạng trong đầu như đèn chớp máy ảnh…… một nụ cười… một căn bếp có bóng hình ai đó đang xoay lưng về phía ông… một lưỡi rìu bằng thép vung lên bầu trời xanh… ánh sáng chập choạng trong làn nước tối đen…
Rồi biến mất.
Đầu ông đập rộn lên, ông cố bám lấy tay vịn cầu thang bằng bàn tay còn lại, giữ cho người không chao đảo, cẳng tay đầy sẹo trượt trên lan can. Ông vừa mới lấy lại được thăng bằng. Ông nhìn xuống cổ tay bị cụt và nhớ lại một trong những ký ức vụt lóe sáng…. một lưỡi rìu bằng thép vung lên bầu trời xanh.
Chuyện xảy ra như vậy sao?
Phía trước, ba đứa trẻ hối hả chạy xuống cầu thang. Ngoại trừ cậu bé nhỏ nhất. Pyotr vẫn nắm lấy bàn tay lành lặn của ông. Đôi mắt xanh của cậu bé gần như tráng toát khi nhìn ông.
Những ngón tay nhỏ siết chặt lấy bàn tay ông để trấn an. Cái giật khẽ động viên ông bước tiếp.
Ông loạng choạng theo sau lũ trẻ.
Họ không chạm phải ai ở lối cầu thang, thoát ra khỏi một cửa hậu và lẩn vào màn đêm u ám thiếu ánh trăng. Không khí tĩnh mịch, ẩm ướt và hơi lạnh lẽo. Monk hít thở sâu cho nhịp tim đang đập dồn được hồi phục.
Tiếng máy phát điện rền vang cả một khoảng không. Monk để ý kích thước và bề rộng của khu bệnh viện với thiết kế thoai thoải, bao quanh hai tòa tháp năm tầng.
“Đi thôi. Lối này,” Konstantin dẫn đường.
Họ vội vã đi vào con hẻm tối đầy đá cuội, nằm giữa bệnh viện và một bức tường phía bên trái cao đến hai tầng. Monk nhìn lên, cố gắng xác định phương hướng. Vài ngọn đèn tỏa sáng phía xa bức tường làm nổi bật mái ngói của những ngồi nhà bị che khuất. Đến một lối rẽ, họ lần theo bức tường bao quanh. Mặt đất đầy đá thô, trơn trượt vì đẫm sương mù. Phía sau không có đèn. Monk chỉ có thể định hướng nhờ men theo bức tường đắp bởi những khối bê tông. Lòng bàn tay ông chạy dọc bức tường. Chạm vào bề mặt lồi lõm và lớp gạch gồ ghề, ông đoán nó được xây lên vội vã.
Monk nghe thấy một tiếng tru kỳ quái vang lên qua bức tường. Tiếp đó là những tiếng sủa nghèn nghẹn, tiếng kêu chói tai.
Bước chân ông chậm lại. Động vật. Đây có phải là vườn thú?
Dường như đọc được suy nghĩ của ông, Konstantin ngoái đầu lại, thốt lên hai từ “bầy thú” rồi vẫy tay ra hiệu ông tiếp tục di chuyển.
Bầy thú ư?
Đến một góc xa hơn, con đường trở nên thẳng dốc. Nhờ chiều cao lợi thế, Monk nhìn thấy một thung lũng hình chiếc bắt và một ngôi làng khá đẹp được tô điểm bởi những con đường đá cuội, nhà mái nhọn cùng những luống hoa. Những ngọn đèn đường sẫm màu chạm khắc công phu, lung linh như ánh lửa thắp bằng khí đốt. Ngôi trường ba tầng tọa lạc bên góc của ngôi làng, xung quanh là sân bóng và một khán đài ngoài trời. Ngôi làng nhỏ ôm lấy quảng trường trung tâm, những sóng nước lấp lánh nhảy múa giữa một đài phun nước cao ngất ngưởng.
Phía xa ngôi làng, dãy nối dãy những căn hộ kiểu công nghiệp, mỗi căn năm tầng vuông vức xây theo đúng quy hoạch. Còn nơi đây, tối tăm, không một ánh đèn, cho người ta cảm giác hiu quạnh, đổ nát.
Khác xa với ngồi làng bên dưới kia.
Nơi có một đoàn người đang náo loạn. Những tiếng gọi vọng lên. Ông thấy những đứa trẻ còn mặc nguyên quần áo ngủ tập trung lại, lẫn trong số vài người lớn ăn mặc tương tự như chúng, vừa bị đánh thức khỏi giường. Mấy đứa trẻ khác mặc đồng phục xám cùng với mũ vành cứng. Ánh đèn pin loang loáng qua những con đường hẹp.
Điều gì đó đã khuấy động nơi này.
Ông nghe thấy những tiếng gọi, lúc nhỏ nhẹ, lúc giận dữ.
“Kontantin! Pyotr! Kiska!”
Tên lũ trẻ.
Một ngọn lửa đỏ rực hình cánh cung nổi lên, thắp sáng ngôi làng bé nhỏ đang còn ngái ngủ, khiến cả những dãy nhà phía xa bừng tỉnh, bập bùng trên những bức tường bê tông và những ô cửa sổ đen trũng.
Monk hướng về phía ngọn lửa đến khi nó cháy hết, tia lửa xòe ra rồi lơ lửng rơi xuống.
Ông vẫn ngước nhìn lên.
Bầu trời… không phải là thiếu ánh trăng.
Chỉ là ánh trăng không ở đó.
Ánh lửa rực đỏ làm nổi bật một vòm đá khổng lồ, trải dài khắp mọi hướng, ôm trọn lấy toàn bộ khu vực. Monk há miệng kinh ngạc, loạng choạng bước đi giữa một vòng xoáy bất ngờ.
Họ không đi ngoài trời.
Họ đang ở bên trong một hang động khổng lồ.
Nhìn hình dạng của mái nhà và những bức tường, có thể nói là công trình nhân tạo.
Ông nhìn xuống ngồi làng nhỏ lý tưởng, có vẻ được bảo tồn như một chiếc thuyền trong chai. Nhưng không còn thời gian để chiêm ngưỡng cảnh vật.
Konstantin kéo ông lại phía sau hốc đá vôi. Ba chiếc xe jeep lẳng lặng hối hả tiến về con đường dốc, băng qua, rồi hướng đến khu phức hợp của bệnh viện. Có vẻ như xe chạy bằng điện và do lính cảnh phục trang bị súng điều khiển.
Không ổn chút nào.
Những chiếc xe jeep vừa khuất xa tầm mắt, Konstantin chỉ tay về phía ngôi làng, dẫn mọi người đi sâu vào lòng tối của động. Họ băng qua mấy quãng lổn nhổn đá, đến một con đường hẹp hiếm người qua lại.
Họ men theo ngồi làng ẩn trong lòng đất, leo lên những con dốc cao hơn. Monk nhận ra một đường hầm sâu hoắm ở đằng xa, có đèn điện thắp sáng, mỗi bên gắn một cánh cửa thép, đủ rộng để hai xe tải chở xi măng có thể chạy vào. Lòng đường có lẽ là lối thoát khỏi hang động.
Thế nhưng lũ trẻ lại dẫn ông đi về hướng ngược lại.
Chúng đang đưa ông đi đâu?
Tiếng chuông báo động phát ra từ đằng sau, chói tai như tiếng còi không kích ở khoảng cách gần. Cả bốn chuyển hướng. Có ánh đèn màu đỏ nhấp nháy và xoay tròn trên nóc khu phức hợp bệnh viện.
Mọi người trong khu làng đã phát hiện ra một sự kiện khác.
Không chỉ có lũ trẻ biến mất.
Monk cố gắng tập hợp lũ trẻ trên đường đi nhưng tiếng ồn đã khiến chúng phân tán. Cả ba bịt tai và nhắm chặt mắt. Kiska như có vẻ đau bụng. Konstantin quỳ xuống đong đưa thân mình. Pyotr ôm Monk thật chặt.
Tâm lý quá nhạy cảm.
Monk bế Pyotr trên tay, kéo Kiska đi và vẫn thúc giục lũ trẻ tiến về phía trước.
Monk ngoái nhìn còi báo động đang nhấp nháy. Có thể ông đã mất trí nhớ – hay chính xác hơn là trí nhớ bị xóa bỏ – nhưng ông biết một điều chắc chắn đến chết người.
Ông sẽ còn đánh mất nhiều thứ hơn cả trí nhớ nếu bị bắt trở lại.
Và ông lo sợ lũ trẻ sẽ phải chịu đựng những điều tồi tệ.
Họ phải tiếp tục đi, nhưng đi về đâu?