Monk dùng hết sức chống sào băng qua những bãi lầy với một cánh tay. Họ không dám dừng lại. Cuộc truy đuổi diễn ra thâu đêm. Chỉnh lại cột chèo bằng cánh tay cụt, ông rướn người dùng bàn tay lành lặn kéo đẩy mảng bè. Chiếc bè lướt êm trên khoảng không gian ngập nước.
Mắt ông dõi theo ánh trăng vàng vọt đồng hành suốt đoạn đường. Kinh nghiệm điều khiển bè mỗi lúc một khéo léo hơn. Chiếc xuồng bay nhiều lần đã mấp mé đến gần. Tiếng động ì ầm của cánh quạt cùng với ánh đèn pha chói lòa cảnh báo cho Monk biết cần tìm nơi ẩn nấp. Sương mù dày đặc cũng phần nào giúp họ thoát khỏi tầm nhìn.
Có lần Monk đánh giá sai một luồng chảy có vẻ như khá chậm chạp, bè đâm phải thân cây kêu răng rắc, suýt bị phát hiện. Chiếc xuồng nhanh chóng lao đến nơi. Ông đã phải cho bè nấp dưới mấy rặng liễu, nhưng chắc chắn họ sẽ bị bắt nếu những kẻ truy lùng tìm kiếm kĩ hơn.
Họ được cứu rỗi ở một nơi không ngờ đến.
Lúc xuồng đi chậm lại và động cơ ngừng chạy, Kiska đưa hai tay bịt miệng, lấy hơi thật sâu rồi phát ra âm thanh be be trầm đục như tiếng kêu của một con nai sừng tấm khổng lồ. Họ nghe thấy những tiếng kêu ấy thỉnh thoảng phát ra trong đêm. Monk nhớ có lần cô bé đã bộc lộ năng khiếu, bắt chước giọng hót của mấy con chim bằng một âm vực hoàn hảo và chính xác đến lạ kỳ. Những kẻ săn đuổi vẫn sục sạo nhưng khá hời hợt, bỏ đi sau đó một phút.
Không phải lúc nào cũng gặp được vận may. Và tệ hơn hết, Monk biết rõ họ đang bị dồn về phía hồ Karachay, đến gần hơn với màn phóng xạ. Chiếc xuồng lướt qua khu vực an toàn, với lựa chọn duy nhất: trôi dạt theo hướng có hồ nước chực chờ. Mỗi giờ trôi qua, Monk lại đánh liều bật một que diêm để kiểm tra màu sắc trên chiếc máy dò định lượng, cảnh báo màu hồng hoàn toàn chuyển thành màu đỏ. Konstantin từng cho Monk biết thực tế là chỉ cần một ngày tiếp xúc với liều lượng đó cũng đủ chết người. Da ông bỗng ngứa ngáy với cảm giác sởn gai ốc rằng ông sắp bị nhiễm độc, trên chính mảng bè đang trôi nổi qua đám cỏ dại và tảo bẹ này.
Những đứa trẻ còn dễ bị tổn thương hơn. Cả ba rơi vào giấc ngủ chập chờn, cuộn tròn quanh Marta. Tiếng ếch nhái ồm ộp hay tiếng cú đêm cũng khiến chúng choàng tỉnh. Marta thỉnh thoảng lại leo lên cây, có lúc từng đánh lạc hướng những kẻ săn lùng bằng tiếng rúc, nhử con xuồng quay theo hướng ngược lại. Chiến thuật vô cùng thông minh của Marta giúp họ có được một giờ thoát khỏi nguy hiểm.
Monk hy vọng Marta đủ thông minh để đối phó với những mối nguy lớn lao hơn cả hiểm họa nhiễm độc đang lờ mờ hiện ra.
Hừng đồng lóe sáng yếu ớt trên nền tối. Nếu thiếu màn đêm, chắc chắn họ sẽ bị phát hiện nhanh chóng. Để sống sót, họ phải tìm cách cắt đuôi kẻ thù.
Vụn bánh sót lại là một giải pháp. Konstantin và Kiska xé rời vài thanh lương khô và gom lại mấy chai nước đã cạn. Monk mở lối đi giữa đám cỏ dại, tạo thành dấu vết xuyên qua thảm thực vật. Hai đứa trẻ rải những mẩu thức ăn cùng rác rưởi vào trong nước.
“Đừng rải nhiều quá,” Monk nhắc khẽ. “Dấu vết phải cáchxa nhau.”
Monk lần tìm địa điểm thích hợp giữa đầm tối cả giờ qua. Cuối cùng cũng đã phát hiện: một dòng chảy khá dài, dọc hai bên bờ là những bụi liễu rậm rạp xen kẽ mấy hàng linh sam gỗ đen. Thời gian hành động phải chuẩn xác. Chỉ có một cơ may duy nhất. Bờ còn cách đó hai dặm trong khi bình minh gần kề, họ sẽ thua cuộc nếu không đánh liều.
Thành viên cuối cùng của nhóm, Pyotr, ngồi giữa bè, hai cánh tay bó quanh gối. Cậu bé lắc lư tại chỗ, không rời mắt khỏi đuôi bè nơi hai người bạn đang rắc vụn bánh, nhưng Monk vẫn biết cái nhìn của cậu bé hướng về phía xa xăm.
Đi đến cuối dòng, Monk vung sào ra đằng trước, chọc xuống lòng sâu. ông dùng vai đỡ lấy sào, chiếc bè ngừng trôi. Đây sẽ là nơi họ dừng chân theo kế hoạch.
Borsakov ngồi cạnh viên hoa tiêu. Chỗ ngồi của họ cao hơn phần thân nhôm của chiếc xuồng đáy bằng. Phía trước là hai binh sĩ đang cúi thấp, một người giữ đèn pha đặt ở mũi xuồng, người còn lại sẵn sàng khẩu súng trên vai.
Sau năm giờ tìm kiếm, tai Borsakov đau buốt vì hàng loạt tiếng ồn. Sau lưng là tiếng động cơ cánh quạt gầm rú. Miếng chắn kim loại quanh tua bin bị gãy, kêu ầm ĩ khi chuyển động. Vòng quay chân vịt va quẹt vào đám lau sậy và cành cây phía sau.
Viên hoa tiêu đeo bộ tai nghe duy nhất. Ông đặt một tay lên cần lái, tay còn lại dưới van tiết lưu. Mùi khói và dầu lửa phủ lên không khí ẩm thấp mốc meo của đầm lầy. Xuồng trôi qua một vũng nông. Ánh đèn pha đảo qua những bụi lau bám đầy bờ.
Dọc hành trình trong đêm, họ nhìn thấy lợn rừng và nai sừng tấm, cả mấy con đại bàng hốt hoảng rời tổ, bay qua đập hải ly, lướt ngang những đám côn trùng dật dờ. Dưới ánh đèn pha, hàng ngàn con mắt bé xíu của những cư dân đầm lầy hiện ra. Vẫn không có dấu hiệu nào của năm kẻ đào thoát.
Thùng nhiên liệu cuối cùng chỉ còn đủ cho đến khi…
Tiếng rít the thé của loài khỉ xé tan tiếng gầm động cơ. Phát ra từ bờ bên phải. Hai binh sĩ đằng trước mũi tàu cũng nghe thấy. Đèn pha lẫn súng trường đều xoay về một hướng. Borsakov chạm vào vai viên hoa tiêu chỉ lối.
Thứ gì đó to lớn đang đung đưa giữa những nhánh cây san sát nhau rồi mất hút vào cánh rừng. Borsakov biết rằng có một con vật trong phòng thí nghiệm cũng biến mất cùng lũ trẻ. Một con tinh tinh. Động cơ rú lên khi viên hoa tiêu đẩy cần tiết lưu về phía trước. Chiếc xuồng tăng tốc lao vào khoảng trống, len lỏi giữa lớp đệm không khí. Đến rìa nước, con thuyền chậm lại. Có ai đó đã bẻ cong đám lau sậy, dọn đường đi qua con lạch bên hông. Cuối cùng thì…
Borsakov chỉ tay về phía trước.
Một con lạch ngoằn ngoèo, liễu rủ bao quanh, ứ lại bởi những mảng cỏ dại trôi nổi. Thuyền tăng tốc. Đèn pha tiếp tụclướt sang hai bên, xuyên thủng màn đêm. Tay súng cúi xuống, vớt lên một chai nước suối rỗng.
Nhất định có người vừa đi ngang qua đây. Cảm nhận mục tiêu còn cách đó không xa, Borsakov ra hiệu cho viên hoa tiêu đi thật nhanh. Con lạch uốn mình theo những khúc cong mềm mại. Chiếc thuyền cũng theo đó mà đi, lướt phải rồi lại vòng sang trái.
Dưới ánh đèn pha, nhiều mảnh vụn lại xuất hiện, một ít rác lẫn chai nhựa bồng bềnh. Quá nhiều thứ. Có gì đó không ổn. Những con mồi không thể nào ngốc nghếch đến vậy. Ngờ vực, Borsakov siết lấy vai viên hoa tiêu, ra hiệu cho hắn đi chậm lại.
Monk nghe có tiếng động cơ ùng ục mỗi lúc một lớn dần.
Cúi mình ẩn nấp cùng lũ trẻ, ông quan sát chiếc xuồng lướt đến khúc cua cuối cùng của con lạch, đột ngột giảm ga, ì ạch. Không hay chút nào.
Đèn pha đảo quanh rồi rọi thẳng về phía con nước trước mặt họ. Họ sẽ bị phát hiện ngay tức khắc. Hy vọng duy nhất …
… từ khu rừng bên trái, một bóng đen thình lình lao ra phía trên xuồng. Nó bay cao, tránh xa tua bin, một loạt vật thể bắn ra từ hai bàn chân siết chặt, đập vào cánh quạt khổng lồ như giội bom.
Vỏ đạn súng săn bắn ra từ buồng lái. Monk nghe thấy tiếng đốp dội vào tua bin. Cánh quạt bung ra, vỏ bọc bằng nhựa bên ngoài dù không bắt lửa nhưng vẫn nổ tung bởi phát đạn ghém nảy lửa.
Nhóm người trên thuyền bị những viên đạn bay tấn công, la hét vì đau đớn và bất ngờ. Viên hoa tiêu hoảng sợ ngồi thụp xuống từ trên cao. Hắn va vào cần lái khiến động cơ gầm lên dữ dội. Con thuyền chồm về phía trước như một con thỏ khổng lồ bị chọc tức, chao đảo loạn xạ. Viên hoa tiêu giật mạnh cần điều khiển.
Ánh đèn pha sáng rực quét ngang con rạch, bao trùm lấy họ. Monk thấy viên hoa tiêu phụ hét lên, giơ tay chỉ hướng.
Quá trễ rồi anh bạn.
Hai binh sĩ ở mũi thuyền bất ngờ bị hất về phía sau, va vào đám người còn lại, xô đẩy nhau dồn về lan can ở mạn thuyền. Con thuyền lật nhào.
Một tiếng thét đau đớn vang lên, đi cùng là tiếng tua bin loẹt xoẹt ngấu nghiến. Máu và xương văng ra khỏi cánh quạt như một dải khói – con thuyền lật úp xuống mặt nước bằng một cú đập mạnh, khói thốc lên, động cơ nghẹn lại. Đèn pha vẫn sáng lòa trên mặt nước đen ngòm.
Monk quay lưng. Nhờ có lũ trẻ giúp sức, ông đã bện dây câu tìm thấy trong căn nhà gỗ thành một đoạn thừng màu đục, dày bằng cả ngón tay – bắc ngang qua con lạch ở độ cao ngang tầm với bờ vai. Nó đã đánh bật đám binh sĩ và lật úp con thuyền.
Từ bụi cây phía trên chiếc bè, Marta nặng nề đáp mình giữa những mảnh ván. Pyotr lập tức lao vào vòng tay mềm mại. Martangồi bệt xuống thở dốc nhưng vẫn ôm chặt lấy Pyotr. Đôi mắt trong veo ấy nhìn Monk không chớp, rạng rỡ dưới ánh trăng. Monk gật đầu biết ơn, thẫn thờ.
Ông muốn chiếc xuồng đi theo dấu vết bỏ lại phía sau và bị lật tung. Công kích từ Marta chỉ nhằm mục đích khiến đội quân trên xuồng phân tâm, không để ý đến sợi dây thừng bắc ngang qua lạch.
Marta đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Pyotr vẫn bám chặt lấy người anh hùng ấy. Sau khi ông giải thích kế hoạch, cậu bé đã ngồi lại bên cạnh, đưa cho Marta đống vỏ đạn. Cậu bé truyền đạt thật chậm bằng tiếng Nga, nhưng Monk nhận ra cả hai hiểu nhau thật sự nhờ vào ý thức nào đó từ trong sâu thẳm. Cuối cùng, Marta kẹp chặt vỏ đạn vào giữa những ngón chân, nhảy lên cây và biến mất.
Monk chống bè lội qua một con lạch khác. Dòng chảy chậm đủ sức kéo bè dạt về phía bờ. Mặc dù đã nhẹ nhõm vì kế hoạch thành công, Monk biết chắc họ sắp lâm vào mối nguy đáng sợ hơn.
Không còn chọn lựa.
Hàng triệu mạng sống đang bị đe dọa. Monk ngắm nhìn Marta và lũ trẻ. Đối với Monk, ký ức cuộc sống trước đây không còn nhưng hiện tại, họ là cả thế giới của ông. Là tất cả những gì đáng giá. Ông sẽ làm mọi thứ có thể để bảo vệ những sinh linh ấy.
Hồi tưởng nhức nhối từ căn nhà gỗ hiện lại trong ông, những hình ảnh ùa về lúc ông sắp chết đuối.
Hương vị của quế, đôi môi mềm…
Cuộc sống nào của ông đã bị đánh cắp? Có cơ may nào cho ông giành lại không?
12:04 sáng, giờ EST
Thủ đô Washington, D.c.
Vừa quá nửa đêm, Kat gác điện thoại và đứng dậy. Qua khung cửa, bà nhìn sang phòng bệnh liền kề. Cuộc nói chuyện với Giám đốc Crowe và Sean McKnight mới kết thúc. Cả hai đã lên phòng làm việc của Painter, bắt đầu một cuộc chiến liên bộ từ căn hầm bí mật. Họ phải giải quyết cho xong vụ tranh đấu cam go giữa các cơ quan tình báo.
Liên quan đến số phận đứa trẻ.
Kat có kinh nghiệm trong ngành nên đã đưa ra những lời khuyên cụ thể, không gì khác hơn, cả hai phải tìm cách phá vỡ kế hoạch của John Mapplethorpe.
Kat biết giới hạn bên trong khả năng tối ưu của bản thân.
Bà rời khỏi cánh cửa dẫn sang phòng bệnh. Một hộ lý quân y có vũ trang đang canh giữ. Bà ngừng lại, nhìn vào phòng qua ô cửa sổ gắn kính một chiều.
Tựa người vào đống gối, Sasha ngồi cạnh hộp bút Crayola, quyển sách tô màu đặt trong lòng. Đường truyền tĩnh mạch vẫn gắn trên cánh tay, gương mặt cô bé lộ rõ niềm say mê nhưng kháđiềm tĩnh.
Sasha bỗng rời mắt khỏi trang sách, nhìn thẳng vào Kat. Mặt kia của khung cửa sổ là tấm gương; không thể nào cô bé lại nhìn thấy bà. cảm giác cô bé đang tập trung vào bà bất chợt khiến Kat xao động.
Yuri ngồi một bên. Ông vừa kéo Sasha thoát khỏi lưỡi hái tử thần bằng chính khả năng ưu tú của mình. Giống như Kat, ông cũng nhẹ nhõm trước sự hồi phục của cô bé. Ngả người trên ghế, cằm ông chạm ngực, hơi gà gật vì mỏi mệt lẫn thỏa lòng. Kat xoay sang gật đầu với người lính gác. Anh đã mở khóa sẵn, đẩy cửa giúp bà bước vào. McBride vẫn ngồi tại chỗ như lúc đầu. Ông ta chỉ di chuyển khi gọi điện hay vào nhà vệ sinh và luôn ở trong tình trạng bị giám sát.
Phía bên kia giường cạnh Yuri, Lisa và Malcolm cầm biểu đồ trong tay. Họ đang so sánh những ghi chép và số liệu, cũng khó hiểu như một dạng mật mã.
Lisa mỉm cười khi thấy Kat. “Cô bé hồi phục đáng kể. Chắc phải mất cả năm tôi mới học xong phác đồ điều trị.”
“Nhưng chỉ tạm thời,” Kat nói, gật đầu chào Yuri. “Không phải trị liệu.”
Nét mặt Lisa nghiêm lại khi quay sang đứa trẻ. “Sự thật là vậy.”
Yuri đã đưa ra chẩn đoán về lâu dài cho Sasha. Mô cấy khiến tuổi thọ của cô bé bị rút ngắn. Giống như ngọn lửa thắp trên cây nến, sẽ thiêu đốt hết cuộc đời cô bé thành hư không. Tài năng càng mạnh mẽ, ngọn lửa lại càng bỏng rát.
Kat đã hỏi Yuri về thời gian sống còn của đứa trẻ. Câu trả lời lạnh buốt tim bà. Năng khiếu của cô bé chỉ cho phép bốn hoặc năm năm nữa là tối đa.
Kat giật mình hoang mang.
Ngược lại, McBride tỏ ra thanh thản, tự mãn cho rằng người Mỹ chắc chắn có năng lực kéo dài tuổi thọ ấy lên gấp đôi, nhưng vẫn chẳng thể nào giúp Sasha đón mừng sinh nhật lần thứ hai mươi.
Lisa tiếp lời, “Hy vọng duy nhất là tháo rời mô cấy. Cô bé sẽ mất đi khả năng nhưng cũng sẽ sống sót.”
McBride phản đối từ phía sau. “Sống sót, nhưng trong tình trạng nào? Mô cấy ngoài chức năng nâng cao khả năng bác họccòn có tác dụng giảm thiểu những triệu chứng tự kỷ của đứa trẻ. Lấy đi mô cấy, các người sẽ chỉ còn lại một cái xác vô cảm trước thế giới.”
“Thế còn tốt hơn là nằm dưới nấm mồ,” Kat đáp trả.
“Vậy sao?” McBride tỏ vẻ thách thức. “Bà là ai mà phán xét? Đeo mô cấy, con bé có một cuộc sống trọn vẹn dù ngắn ngủi. Biết bao đứa trẻ mới sinh ra đã bất hạnh, chịu án chung thân cùng những thiết bị y tế. Bệnh bạch cầu, AIDS, những khuyết tật bẩm sinh. Chẳng phải ta nên trao cho chúng chất lượng sống tốt nhất, hơn là số lượng sao?”
Kat quắc mắt giận dữ. “Các ông chỉ muốn lợi dụng cô bé.”
“Từ lúc nào lợi ích chung lại biến thành việc đồi bại như thế?”
Kat quay lưng trước những tranh cãi và biện minh của McBride. Thật nhẫn tâm. Làm thế nào ông ta có thể hợp lý hóa tất cả mọi thứ? Đặc biệt là đặt mạng sống của đứa trẻ lên một cán cân.
Sasha vẫn miệt mài với trang sách. Cô bé vẽ bằng cây bút màu xanh đậm. Bàn tay di chuyển lẹ làng trên giấy, phủ lấp hết chỗ này, rồi lại chỗ kia, hoàn toàn ngẫu nhiên.
“Cô bé có nên vẽ lúc này không?” Kat lo lắng.
Yuri hơi nhúc nhích, tỉnh táo hẳn trước những đối thoại gay gắt. “Một chút giải tỏa sau điều trị sẽ có lợi,” ông háng giọng khẽ nói. “Giống như mở van áp suất. Miễn là mô cấy không vận hành quá xa khiến cô bé bị kích động, hoạt động nhẹ nhàng sẽ giúp thả lỏng thần kinh.”
“Phải, cô bé rất vui,” Kat thừa nhận.
Trong lúc vẽ, khuôn mặt Sasha giãn ra bằng một nụ cười yếu ớt huyễn hoặc. Cô bé nhỏm dậy, với bàn tay nhỏ bé về phía Kat. Lôi mạnh cổ tay áo bà, cô bé nói điều gì đó bằng tiếng Nga.
Kat liếc nhìn sang Yuri.
Ông nhoẻn cười. “Cô bé nói là bà cũng nên vui mừng.”
Sasha đẩy quyển sách về phía Kat như muốn bà vẽ cùng. Kat ngồi xuống, đỡ lấy món quà nhỏ. Bà chau mày khi thấy những mảng họa tiết không được tô màu, thay vào đó là hình vẽ trên một trang giấy trắng. Bà bị thu hút bởi độ rõ nét đến không ngờ. Một người đàn ông chống sào đang lái mảng bè gỗ xuyên qua cánh rừng âm u, phía sau là những hình hài mờ tỏ.
Tay Kat bắt đầu run rẩy. Bà nhận ra người điều khiển mảng bè. Không tin vào mắt mình. Người đó rất giống Monk. Nhưng ký ức bà không có hình ảnh nào của Monk trên một chiếc bè. Tại sao cô bé lại vẽ nên bức tranh ấy?
Sasha chắc phải cảm nhận được nỗi đau khổ của bà. Nụ cười cô bé rũ xuống, ngập ngừng. Đôi mồi run run như thể sợ hãi mình vừa làm điều gì sai. Cô bé hết nhìn Yuri rồi lại đến Kat. Những giọt nước mắt long lanh. Cô bé lẩm nhẩm bằng tiếng Nga, giọng có vẻ hối lỗi và sợ sệt.
Yuri nhẹ nhàng đến bên cạnh trấn an bằng giọng nói êm dịu của một người ông hiền từ. Kat nén lại cảm xúc, không muốn đứa trẻ thêm hoảng loạn. Nhưng tim bà vẫn dồn dập. Bà từng thấy Yuri hóa đá khi nhìn vào bức vẽ trước đó. Ngay lúc ấy, bà thoáng nghĩ có thể ông đã nhận ra gương mặt được họa trên giấy, nhưng không thể nào.
McBride rời ghế tiến lại gần chiếc giường, ánh mắt tò mò.
Kat phớt lờ. Chẳng có gì liên quan đến ông ta. Thay vào đó, bà không rời mắt khỏi Yuri. Ông cũng thấy bà nhìn lên đầu Sasha. Cả hai đều mang trong mình vẻ hối lỗi.
Tại sao mà…
Một tiếng nổ vang trời từ phía trên rung chuyển cả căn cứ. Tiếng chuông báo động réo lên. Mọi con mắt đổ dồn lên trần nhà, riêng Kat nhảy về một hướng. Bà chỉ chậm đúng một tích tắc.
McBride lao ra, túm lấy bím tóc kiểu Pháp của Tiến sĩ Lisa Cummings. Hắn lôi bà giật lùi về phía bờ tường. Kat Bryant đã cố chụp lấy hắn nhưng không kịp. Cả hai dồn vào góc khuất bên hông cửa ra vào và cửa sổ.
Một tay McBride lôi điện thoại di động ra khỏi túi áo khoác. Hắn nhấn nút, nửa trên trượt sang một bên, để lộ một hộp đạn nhỏ. Họng súng ghim vào cổ Lisa, di chuyển dần lên đầu.
“Đứng im,” hắn khẽ ra lệnh bên tai bà.
Súng điện thoại đã trở thành tai họa của lực lượng an ninh. Nhưng thiết bị Mapplethorp đưa cho McBride rất hiện đại. Hắn có thể dùng để liên lạc. Kiểm tra an ninh và máy quét không mảy may phát hiện ra. Vũ khí đi qua trót lọt nhờ được ngụy trang bằng hộp đạn cỡ nòng 0,22 ly rất tinh vi.
“Có năm viên đạn trong này!” Hắn hét lên giữa không gian chật hẹp còn chưa hết bàng hoàng. “Vị bác sĩ sẽ chết trước – sau đó là đứa trẻ.”
Người lính gác ngoài cửa đã giương súng nhưng cơ thể của Lisa che chắn cho hắn. “Bỏ súng xuống!” McBride quát.
Anh lính giữ nguyên vị trí, không nao núng.
“Không ai phải chết cả!” Hắn hét lên, hất đầu về phía trước. “Chúng tôi chỉ muốn đứa trẻ. Hãy hạ súng xuống đi!”
Kat đứng thẳng lại sau cú ngã. Bà đã suýt tóm được hắn nên hắn phải dè chừng thật kĩ. Nhưng ngược lại, chính bà đang trừng mắt nhìn hắn như đọc một quyển sách. Kat ra hiệu cho người lính gác hạ thấp vũ khí.
“Thả súng xuống rồi đá qua đây!” McBride ra lệnh.
Nhận được cái gật đầu từ Kat, khẩu súng lục từ từ chạm đất.
Nhiệm vụ của McBride rất đơn giản: giữ chặt đứa trẻ đến khi Mapplethorpe cùng lực lượng của hắn tới đây.
“Tất cả những điều cần làm là chờ đợi!” Hắn dõng dạc. “Không được di chuyển, đừng tỏ ra anh hùng.”
Công sự ngầm rung chuyển trong tiếng nổ, Painter theo bản năng quay sang bức tường bên trái nơi có màn hình theo dõi. Một đường truyền trực tiếp đến căn phòng của Sasha.
Chân run bắn, tim đập mạnh, mắt ông bùng lên giận dữ. Ông đập vào bàn phím để âm thanh phát ra.
“Không được di chuyển, đừng tỏ ra anh hùng”
Sean chồm tới từ bên kia bàn làm việc. Hỏa lực vang xuống tận bên dưới. Painter nối màn hình phía sau bàn với máy quay ở tầng trên cùng của căn cứ, ông tạm rời mắt khỏi Lisa để quan sát. Khói mù mịt khắp lối đi. Lính tráng được trang bị áo chống đạn Kevlar, đội mũ sắt kèm theo mặt nạ phòng độc, rầm rập chạy qua màn khói, súng ống sẵn sàng trên vai.
“Không thể tin được cái đầu của lũ xấu xa chết tiệt,” Seangằn giọng.
Không khó hiểu để đoán ra người ông muốn ám chỉ.
Mapplethorpe.
“Chúng đến để cướp đứa trẻ,” Sean gầm lên tức tối.
Tiếng loa phóng thanh phát ra từ tầng trên cùng của căn cứ Sigma. “TẤT CẢ ÚP MẶT XUỐNG SÀN! CHỐNG CỰ SẼ BẮN HẠ”
Sean đối diện với Painter. “Không thể chấp nhận điều này xảy ra. Ta cần phát lệnh rút lui trước. Bọn đểu dám chơi khăm ta.” Sean quay đầu nhắc nhở. “Anh biết phải làm gì rồi đấy.”
Painter chuyển hướng tập trung vào Lisa. Họng súng đang chĩa vào cần cổ mềm mại được ông hôn mỗi sáng. Nhưng rồi ông chầm chậm gật đầu. Có một lỗ hổng an toàn khiến Sigma bị tấn công bởi lực lượng thù địch.
Trước hết ông cần đưa người của mình thoát khỏi vòng vây nguy hiểm. Đây là cuộc chiến giữa Painter và Mapplethorpe. Ông nhấc điện thoại.
“Brant.”
“Thưa ngài!” Lời đáp rất ngắn gọn trong tư thế sẵn sàng.
“Phát hiệu lệnh Alpha”
“Vâng, thưa ngài.”
Tín hiệu báo động mới vang lên, ra lệnh cho tất cả nhân viên sơ tán về lối thoát hiểm gần nhất. Mapplethorpe chỉ muốn dọn đường đến chỗ đứa trẻ. Painter làm vậy với mục đích bảo vệ nhân lực.
Sean hướng ra cửa. “Tôi lên trên. Sẽ cố gắng đàm phán, nhưng nếu thất bại…”
“Đã rõ.” Painter lôi từ trong ngăn kéo một khẩu súng lục Sig Sauer P220. “Cầm theo cái này.”
Sean lắc đầu. “Hỏa lực không giải quyết được vấn đề.”
Ông nhanh chóng rời đi. Painter nắm chặt súng trong tay đồng thời quan sát màn hình. Ông còn một nhiệm vụ cuối cùng với Sigma. Di chuyển đến máy tính và gõ mật mã an toàn, ông ấn ngón cái vào đầu đọc vân tay.
Một ô vuông màu đỏ xuất hiện, nằm trên lược đồ màu xanh tượng trưng cho hệ thống thông gió của căn cứ. Thời gian đếm ngược được cài mặc định trong vòng mười lăm phút. Painter chỉnh lên gấp đôi và khởi động đồng hồ đeo tay cho trùng khớp ở con số 0100. ông đăm đăm nhìn vào khoảng không giữa lối vào và màn hình trên tường. Còn nhiều việc phải hoàn thành trong một thời gian ngắn. Nhưng… Gõ thật nhanh mã số cuối cùng, Painter nhấn phím kích hoạt. Hệ thống bắt đầu đếm ngược.
Lăm lăm súng trên tay, ông chạy ra cửa.
7:05 sáng
Phía Nam dãy Ural
Mặt trời vừa ló trên mỏm núi, Monk đẩy sào, lái bè len sâu vào những đám lau sậy. Mũi bè đã lấm đầy bùn. Cuộc đổ bộ sau một hành trình dài đầy ẩm ướt và nặng nề.
“Ở lại đây nhé,” ông yêu cầu lũ trẻ.
Chiếc sào dài có thêm công dụng kiểm tra độ an toàn của bến đỗ. Hài lòng, ông rời mảng bè, giúp Pyotr và Kiska leo lên đụn cỏ kế bên. Konstantin tự nhảy lên, linh hoạt như mọi khi, nhưng không được vững chãi. Mệt mỏi hiện rõ trên đôi mắt thâm quầng và đôi chân run rẩy của cậu bé. Tình trạng của Marta khá hơn chút ít, cả hai chân đáp xuống đất bằng một cú gập mình uyển chuyển.
Monk khoát tay ra hiệu tiến về phía trước. Quãng đường một phần tư dặm vẫn còn nhớp nháp bùn nhưng đất đã bắt đầu khô lại bên dưới. Những bụi liễu trải dài, đẫm nước, mọc cao hơn cả đám cây cáng lò và vân sam. Đồng cỏ hiện ra, mơn mởn hoa nhung tuyết xen lẫn long đởm dại.
Họ đã lên đến đỉnh một gò dốc cao, khung cảnh thoáng đãng trong tầm mắt. Khoảng một dặm phía xa là thành phố nhỏ, nơi có dòng sông lấp lánh bạc chia cắt làm đôi, men theo sườn núi thoai thoải kế cận. Monk quan sát địa hình. Có vẻ hoang vu và bị bỏ rơi từ lâu. Những ngôi nhà gỗ vô chủ rải rác trên những dốc đá bao quanh con đường rải sỏi ngoằn ngoèo. Một nhà máy cũ kĩ nằm bên nhánh sông lởm chởm đá. Guồng nước gãy đổ bắc ngang qua đó thành cây cầu tạm. Nhiều công trình khác cũng bị phá sập, cả khu vực mang dáng vẻ hoang dại um tùm bên dưới những tầng cỏ chất cao, bách xù và linh sam mọc lổn nhổn.
“Một khu mỏ cũ,” Konstantin lên tiếng giải thích. Cậu bé giở bản đồ kiểm tra vị trí. “Không ai sống ở đây. Không an toàn.” “Còn bao xa nữa thì ta đến hầm mỏ?” Monk hỏi.
Cậu bé dùng ngón tay cái ước lượng rồi chỉ vào khu nhà xiêu vẹo. “Khoảng nửa dặm qua khỏi thành phố. Không xa lắm.” Konstantin đảo mắt qua bên phải, nét mặt trở nên chua chát. Chẳng cần hỏi tại sao. Khuất lưng chừng núi, một vùng nước đen hơi ngả sang màu lục kéo dài đến tận chân trời.
Hồ Karachay.
Monk kiểm tra phù hiệu. Màu hung đỏ vẫn còn nguyên. Rời thành phố, họ sẽ phải hướng thẳng đến hồ nước, lọt sâu vào bức màn phóng xạ.
“Phóng xạ ở đó cao đến mức nào?” Monk hất cằm về phía quang cảnh đổ nát. Konstantin gấp bản đồ, đứng dậy. “Không phù hợp để cắm trại.”
Monk nhìn sang cậu bé, khâm phục tinh thần lạc quan. Họ không cười vì lời nói đùa. Monk khoác vai cậu bé. Ông ghì chặt lấy Konstantin thay lời trấn an, cậu bé cũng đáp lại bằng nụ cười toe toét ngờ nghệch. Một cảnh tượng hiếm thấy.
Pyotr và Kiska theo sau Marta.
Họ đã đi được ngần ấy đoạn đường.
Không hề quay đầu lại.
Cách đó nửa dặm, Borsakov lặng nhìn về hướng dải đất đã khuất bóng mục tiêu. Cất tiếng rủa thầm kẻ dẫn dắt đám trẻ, ông ta quỳ xuống cạnh chiếc bè bỏ lại ở bãi cạn, tháo khẩu súng trường khoác trên vai. Trước khi lên đường, vũ khí cần được lau chùi. Hành trình vừa bơi vừa lội bộ qua đầm lầy làm súng bám đầy bùn và nước. Ông ta tháo chốt, gập súng, kiểm tra thật kĩ từng bộ phận: nòng, hệ thống tháo lắp, ổ đạn. Mọi thứ được cẩn thận gột sạch, lau khô và ráp nối gọn gàng. Hành trình quen thuộc khiến Borsakov trấn tĩnh lại, quyết tâm tăng cao.
Hoàn tất công việc, ông ta đứng lên, vai khoác súng.
Điện đàm đã mất, Borsakov là người sống sót duy nhất trên chiếc xuồng lật, giờ đây phải tự mình xoay xở. Cánh tay viên hoa tiêu bị quạt cắt lìa. Đầu một binh sĩ bẹp rúm, kẹt lại bên mạn thuyền. Binh sĩ còn lại chết đuối, xác nổi sấp trên mặt nước. Chỉ còn lại Borsakov với vết cắt lởm chởm trên bắp chân, sâu hoắm đến xương, ông ta lấy áo một đồng đội để buộc vết thương đáng lẽ ra cần được chăm sóc y tế, tránh hoại tử do nhiễm trùng vì nước bẩn.
Nhưng trước hết phải hoàn thành một nhiệm vụ.
Thất bại không thể là lựa chọn trong lúc này.
Borsakov tiếp tục đuổi theo con mồi bằng đôi chân khập khiễng.