Những Bước Đơn Giản Đến Ước Mơ

CHƯƠNG 2



NẾU ƯỚC MƠ CỦA STEVEN TÔI THÀNH SỰ THẬT THÌ AI CŨNG CÓ THỂ LÀM ĐƯỢC NHƯ THẾ!

Làm thế nào một công ty đang ngắc ngoải giãy chết có thể đạt doanh thu hàng triệu đô? Làm thế nào một sinh viên trung học không có tiền trả học phí lái máy bay lại trở thành phi công có bằng lái mà không mất một xu? Làm thế nào một người không biết gì về âm nhạc lại có thể lập ra một ban nhạc thành công, thậm chí còn chỉ huy dàn nhạc giao hưởng? Và bằng cách nào một người chồng vô tâm, ích kỷ lại có thể có được một cuộc sống hôn nhân hạnh phúc và trọn vẹn?

Những điều đó nghe thật khó tin, thậm chí còn có vẻ hoang tưởng nữa. Ấy vậy mà những điều lạ lùng đó đã trở thành hiện thực, kết quả của việc vận dụng Nghệ Thuật Hiện Thực Hóa Ước Mơ. Giấc mơ thời trung học của tôi là lấy được bằng lái máy bay đã biến thành sự thật mặc dù tôi không có tiền để trả cho những giờ học lái. Vào thời ấy, một giờ học lái máy bay đáng giá 40 đô mà tôi thì không có lấy một xu. Chính những kỹ năng Hiện Thực Hóa Ước Mơ đã chắp cánh cho tôi, giúp tôi ngồi vào buồng lái bay vút lên trên những tầng mây.

Ước mơ thời sinh viên của tôi là thành lập hai ban nhạc thành công, rồi cũng có ngày tôi làm được điều đó, bất chấp một sự thật là tôi không có chút kiến thức gì về âm nhạc. Tôi cũng đã thực hiện được mong muốn đứng ra chỉ huy dàn nhạc chơi bản giao hưởng “William Tell” vào năm 1994, dẫu rằng lúc ấy tôi vẫn mù tịt về âm nhạc. Tôi đã thành công trong kinh doanh, kiếm được hàng triệu đô mặc dù tôi thất bại trong chín công việc sau khi tốt nghiệp đại học. Quan trọng hơn cả, ước mơ về một mái ấm gia đình tràn đầy tình yêu thương và hạnh phúc của tôi cũng thành hiện thực, mặc dù tôi từng là một anh chồng vô tâm, hoàn toàn vô dụng trong việc đáp ứng những nhu cầu tình cảm sâu kín của người bạn đời.

“Phải, nhưng đó là anh, chứ không phải tôi… Chúng ta khác nhau một trời một vực” có thể là phản ứng đầu tiên của bạn. Đúng, chúng ta rất khác nhau, nhưng rất có thể bạn đang đứng ở vị trí có lợi hơn vị trí của tôi cách đây vài năm trên chuyến hành trình đạt đến ước mơ của mình. Có thể bạn nghĩ những người đạt được ước mơ không tưởng thuộc về một nhóm người hoàn toàn khác với bạn. Điều đó hoàn toàn không đúng. Trong đời mình, tôi có dịp quen biết và làm việc với nhiều tỷ phú, các diễn viên đoạt giải Academy, những người đạt nhiều kỳ tích và tôi có thể khẳng định với bạn rằng, những người ấy không hề thông minh hơn bạn, không có trình độ học vấn và lai lịch tốt hơn bạn. Họ chỉ đơn giản học và áp dụng những kỹ thuật cụ thể giúp họ mơ những “giấc mơ lớn” và đạt được chúng. Thay vì là một “người thích mộng mơ”, họ trở thành “người thực hiện ước mơ”. Ai trên đời cũng có thể là một trong ba dạng người sau: người mơ mộng, người thực hiện ước mơ hoặc người chà đạp lên ước mơ của chính mình. Tôi cho rằng có đến 30% là những kẻ thích mơ mộng, 69,9% là những người bóp chết giấc mơ của mình từ trong trứng và chỉ có 0,1% còn lại là những người dám sống vì ước mơ của mình. Thế bạn muốn mình thuộc dạng nào? Trong các thời kỳ khác nhau, tôi từng thuộc vào cả ba loại trên, thế nên tôi có cơ sở để nói với bạn rằng, trở thành người đạt được ước mơ của mình thật sự là điều tuyệt vời nhất.

Khi viết quyển sách này, tôi có hai mục tiêu trong đầu. Một là chứng minh cho bạn thấy rằng bạn cũng có thể đạt được những mong ước cháy bỏng nhất của mình và giúp đỡ những người xung quanh thực hiện ước mơ của họ. Hai là trang bị cho bạn tất cả những kỹ năng và phương pháp cụ thể mà bạn cần để trở thành người tạo dựng ước mơ.

Nhưng trước hết tôi cần chứng minh với bạn rằng bạn có thể đạt được những điều bạn khao khát nhất, bởi lẽ nếu bạn không tin là mình làm được điều đó, bạn sẽ không dành thời gian học hỏi và thực hành những kỹ năng và phương pháp vốn là công cụ quan trọng nhằm biến ước mơ của bạn thành hiện thực.

TRONG MỘT ĐÊM, CUỘC ĐỜI TÔI THAY ĐỔI NGAY LẬP TỨC

Đúng 1 giờ kém 20 phút rạng sáng ngày 22 tháng 12 năm 1971, cuộc đời tôi lật sang một trang mới. Vào giờ phút ấy, tôi bỗng cảm nhận được một thứ tình yêu mà tôi chưa từng biết đến bao giờ; nó không bao la hơn tình yêu mà tôi dành cho người vợ thân yêu hay cha mẹ tôi mà nó là một thứ tình cảm hoàn toàn khác. Bạn biết không, đó là thời khắc tôi nhìn vào đôi mắt xanh tuyệt đẹp của đứa con gái đầu lòng mới chào đời. Khi tôi nhìn vào đôi mắt ấy, và đôi mắt ấy nhìn lại tôi, trong tôi tràn ngập một tình yêu thương không giống với bất cứ cảm xúc nào mà tôi từng cảm nhận trước đây. Tôi chỉ muốn nói với sinh linh bé bỏng rằng, cha yêu con biết nhường nào, cha sẽ luôn luôn chăm sóc con và cho con bất cứ thứ gì con muốn.

Nhưng cũng trong đêm ấy, khi tôi lái xe suốt ba tiếng đồng hồ từ bệnh viện về nhà thì thực tế quay lại với tôi. Làm sao tôi có thể đáp ứng nhu cầu vật chất của con gái mình. Tôi mới chỉ ra trường được hơn một năm mà đã phải chuyển việc tới ba lần. Thật ra, tôi vừa bị mất công việc thứ hai bốn ngày trước khi con gái tôi mở mắt chào đời. Vào lúc ấy, thu nhập của tôi chưa bằng một nửa thu nhập bình quân đầu người ở Mỹ. Với tấm bằng cử nhân tiếp thị trong tay, tôi thất bại trong chính lĩnh vực mình đã chọn.

Khoảng 9 tháng sau, một hôm, tôi lái xe từ căn hộ bé xíu của mình đến chỗ làm. Khi tôi chạy ngang qua một khu nhà nhỏ nhỏ xinh xinh và nhìn thấy những chiếc xích đu đung đưa trong nắng mới cùng những bao cát tập đấm bốc ở sân sau, tự dưng lệ dâng lên trong mắt tôi cay xè và cổ họng tôi như nghẹn lại. Tôi nhận ra rằng đứa con gái bé bỏng của tôi sẽ không bao giờ được chạy nhảy trên khoảnh sân riêng với chiếc xích đu của riêng mình. Tôi biết rằng tuổi thơ của con tôi sẽ trôi qua trên khoảng sân chung chật hẹp, bởi vì cha nó dù làm lụng vất vả đến mấy cũng chẳng “khá lên nổi”. Bao giờ chúng tôi cũng sống trong cảnh thiếu trước hụt sau và chẳng hiểu làm sao tôi không thể trụ lại được với công việc nào quá dăm tháng.

Sáng hôm ấy tôi lê bước vào văn phòng, chán nản hơn bao giờ hết. Thật không may, mọi việc càng trở nên tồi tệ vào ngày hôm đó. Sau bữa trưa, sếp gọi tôi vào phòng làm việc của mình. Ông nắm giữ cương vị phó chủ tịch và là người quan trọng thứ hai trong công ty. Phòng làm việc của ông rất đẹp và bởi vì ông cũng đứng đầu bộ phận tiếp thị nên tôi rất kính trọng ông.

Khi tôi bước vào phòng, ông ngẩng đầu lên nhìn tôi với vẻ mặt nghiêm trọng, thế là tôi hiểu ngay rằng mình gặp rắc rối. “Steven, anh là nỗi thất vọng lớn nhất trong suốt quãng đời làm việc của tôi”, ông gằn giọng nói. “Anh chẳng làm được tích sự gì trong công tác tiếp thị, vì thế tôi quyết định để anh ra đi. Anh có 20 phút để dọn bàn của mình”.

Trở về bàn làm việc, tôi thấy các đồng nghiệp vờ như không chú ý đến tôi. Chẳc hẳn là sếp tôi đã thông báo cho họ biết là sẽ sa thải tôi sau bữa trưa. Trong lúc dọn dẹp đồ đạc trên bàn, nước mắt tôi cứ ứa ra không sao ngăn lại được. Mọi người liếc nhìn tôi nhưng chẳng ai nói gì. Vật cuối cùng trên bàn là thứ giáng cho tôi một đòn đau nhất. Đó là tấm ảnh của đứa con gái yêu quý của tôi, đôi mắt xanh biếc tròn xoe của bé đang mở to nhìn tôi. Cha nó lại thất bại lần nữa, phụ lòng đồng nghiệp, phụ lòng chính bản thân mình và phụ lòng trông đợi của đứa con gái bé bỏng.

Lúc ấy tôi còn chưa biết rằng tôi sẽ mất thêm 6 chỗ làm nữa trong vòng 4 năm tới. Tôi là bậc thầy trong nghệ thuật thất bại, một thứ nghệ thuật mà chẳng ai muốn bước chân vào chứ đừng nói gì đến việc trở nên thuần thục. Sau mỗi lần “vấp ngã” như thế tôi lại trải qua một cơn chấn động tinh thần, mặc dù mãi sau này tôi mới biết những thất bại ê chề đó đã xây nền đắp móng cho những thành công to lớn của tôi sau này. Như bạn sẽ thấy, câu chuyện của tôi không phải bao giờ cũng nản lòng như vậy. Năm 1996, Simon & Schuster ra mắt quyển sách đầu tay của tôi nhan đề “Sổ tay triệu phú” (A Millionaire’s Notebook) và họ sẽ không xuất bản quyển sách này nếu như con gái tôi suốt đời phải chơi đùa trên mảnh sân chung.

Chính tựa đề phụ, “Làm thế nào những người bình thường có thể đạt được những thành công phi thường”, đã làm rõ nội dung quyển sách. Tựa đề này thách thức lại một trong những cách nghĩ thông thường dựa trên một niềm tin sai lầm phổ biến trong xã hội ngày nay rằng, những người đạt đến những thành công vượt trội là một “giống” người khác hoặc thuộc về một “đẳng cấp” khác hẳn với những người còn lại. Điều này hoàn toàn sai lạc. Trong thực tế, nhiều người đã vươn lên từ trong nghịch cảnh, hay trong những điều kiện kém xa số đông bình thường. Cho phép tôi nêu ra ba ví dụ điển hình.

CHUYỆN VỀ MỘT NGƯỜI TÊN GENE

Gene Orowitz lớn lên ở Collingswood, bang New Jersey. Bởi vì cậu vẫn tè dầm cho đến tuổi vị thành niên nên mẹ cậu thường làm bẽ mặt con trai bằng cách phơi những tấm ga trải giường ướt nước tiểu ngoài cửa sổ phòng ngủ của cậu, để cho tất cả bạn bè cậu đều biết. Bà bảo với cậu rằng cậu sẽ không làm nên trò trống gì và kết quả học hành tệ hại của cậu năm cấp 3 dường như đã chứng minh lời tiên đoán của người mẹ là đúng – cậu xếp hạng 299 trong số 301 học sinh. Sau này, Gene nói với tôi rằng hai người đứng chót gần như không biết đọc biết viết.

Mọi việc cũng chẳng khấm khá gì hơn với Gene sau khi ông học hết phổ thông. Được cái Gene chạy đua rất cừ nên anh giành được học bổng vào trường đại học University of Southern California, nhưng anh lại để mất học bổng ngay trong năm thứ nhất vì thành tích đáng thất vọng trong mùa thi đấu năm ấy. Không có tiền để về nhà, Gene đành vạ vật nằm ngủ trên những chiếc ghế ngoài công viên ở Santa Monica, bang California. Công việc đầu tiên của anh là vác chăn đi gõ cửa từng nhà để bán. Ấy vậy mà nói về mức độ thành công, con người tưởng chừng như kém cỏi nhất hạng ấy lại trở thành người thành công nhất trong vai trò tác giả, đạo diễn và nhà sản xuất trong lịch sử truyền hình Mỹ. Tôi nói vậy là vì 100% show truyền hình mà ông tạo ra đều thành công. Theo tôi biết thì không một nhà sản xuất nào trong lịch sử Hollywood có thể tuyên bố mức độ thành công cao như thế. Tôi biết ông với tư cách là một người bạn chân thành và tuyệt vời nhất, còn bạn thì biết ông dưới cái tên Michael Landon.

HAI ANH CHÀNG TÊN STEVEN

Là thành viên trong đội cầm cờ của trường trung học, tôi có được đặc quyền kéo lá cờ tổ quốc trong tất cả những trận đá bóng của đội nhà. Phần thưởng của nhiệm vụ này là tấm vé mời trong mỗi trận đấu và một ghế trong ban nhạc diễu hành của trường. Gần như lần nào tôi cũng ngồi cạnh cậu bạn thổi kèn clarinet, một người có nhiều điểm giống tôi. Tôi không biết cậu ta họ gì, chỉ biết là cũng tên Steven. Anh bạn này gầy gò, nhút nhát và hoàn toàn xa lạ với tôi và với đa số những học sinh khác trong trường.

Vào những năm 60 thế kỷ trước, vị trí cuối cùng mà bạn mong muốn trong một trận đá bóng là ở ban nhạc hay tổ cầm cờ. Nhưng với cân nặng khoảng 55 kg, cả tôi và anh bạn Steven kia đều không có cơ hội được kết nạp vào đội bóng. (Kể cả khi to khỏe nặng cân hơn thì chúng tôi cũng chẳng có “cửa”, bởi vì không có năng khiếu thể thao.) Giống như tôi, Steven kia cũng chẳng hẹn hò được cô gái nào trong trường và chúng tôi cũng không phải là học sinh khá giỏi hay có điểm nổi bật gì. Trong thực tế, thành tích học kỳ tốt nhất của anh chàng Steven kia là ngoi lên được hạng trung bình. Dĩ nhiên trong trường, từ giáo viên đến học sinh chẳng mấy ai biết đến anh bạn Steven này, tuy vậy bạn thì biết đấy, vì tên tuổi của anh sau này xuất hiện ở 5 trong 10 bộ phim có doanh thu cao nhất trong mọi thời đại. Thực tế ở Mỹ, hoặc bất cứ nơi nào trên thế giới, hỏi có bao nhiêu người không biết đến cái tên Steven Spielberg?

20 năm sau khi tôi tốt nghiệp, một hôm mẹ gọi điện cho tôi và bảo rằng Steven Spielberg là một trong những bạn học của tôi ở trường Trung học Arcadia. Tôi đáp lại là không thể có chuyện như vậy, tôi biết hầu hết học sinh ở trường Arcadia vào thời đi học và không có lý nào tôi lại không biết Steven Spielberg. Thế là mẹ tôi bảo tôi hãy xem lại danh sách cựu học sinh ở trường. Khi nhìn thấy tên Steven Spielberg cùng với bức ảnh chân dung của anh thì tôi “té ngửa”, chính là anh chàng Steven lặng lẽ ngày nào vẫn ngồi cạnh tôi trong mỗi trận đá banh. Mấy tháng sau, khi chúng tôi tình cờ gặp nhau, tôi nói, “Steven, giá như tôi biết trước!” và anh trả lời, “Steven, giá như tôi biết trước!”.

Về phần mình, tôi tốt nghiệp phổ thông với thành tích làng nhàng trên trung bình một chút. Suốt trong những năm trung học, tôi chẳng có gì nổi bật cả. Sáu năm đầu sau khi tốt nghiệp đại học vào năm 1970, tôi còn trượt dài với 9 công việc khác nhau nữa. Nếu tôi đặt bút viết tiểu sử nghề nghiệp của mình vào tháng 4 năm 1976 thì nó sẽ như thế này:

Tốt nghiệp đại học năm 1970

Như bạn có thể thấy, thu nhập của tôi giữa công việc thứ hai và thứ tám chỉ chênh nhau có 100 đô/tháng, chưa bằng một nửa mức tổng thu nhập bình quân của một gia đình ở Mỹ. Trung bình, cứ sáu tháng tôi lại đổi việc một lần. Như vậy đủ để kết luận là tôi thậm chí không phải “bình thường” mà là “dưới mức bình thường”.

Tuy vậy, công việc thứ mười của tôi lại kéo dài tới 20 năm, cùng với sáu đối tác khác, tôi bán được hơn 1 tỷ đô sản phẩm và sáng lập nên không ít công ty trị giá hàng triệu đô, cũng như góp phần tạo ra hơn 40 triệu phú khác. Sau khi biết tôi đổi việc đến tám lần thì bạn sẽ không còn chút lòng tin rằng công việc thứ mười của tôi sẽ mang về cho tôi 500 ngàn đô một tháng, phải không nào? Thế mà mọi chuyện lại xảy ra đúng như vậy.

VẬY ĐIỀU GÌ ĐÃ XẢY RA?

Điều gì đã biến một Eugene Orowitz đội sổ trong trường phổ thông thành một Michael Landon hiển hách ngày hôm nay? Điều gì đã biến một Steven Spielberg vô danh tiểu tốt, một học sinh dưới trung bình thành nhà đạo diễn vĩ đại nhất trong lịch sử Hollywood? Và điều gì đã giúp Steven Scott tôi từ một kẻ thất bại thảm hại trong công việc và tài chính thành một doanh nhân thành đạt có trong tay hàng chục triệu đô? Hay nói một cách khác, điều gì đã giúp ba anh chàng “kém cỏi” này trở thành những người có thể nói là đã đạt được những ước mơ lớn nhất trong đời?

Câu trả lời, may thay, thật vô cùng đơn giản. Đó là cả ba chúng tôi đều học hỏi những chiến lược, biện pháp và kỹ năng cho phép chúng tôi mơ những ước mơ vượt ngoài sức tưởng tượng trước đây của mình và biến những ước mơ đó thành hiện thực. Và trong cuộc đời mình, khi tôi biết nhiều người đàn ông cũng như đàn bà đạt được những mơ ước không tưởng của họ thì tôi khám phá ra rằng, cũng như Steven Spielberg, Michael Landon và tôi, họ đã làm chủ được những phương pháp đó, những kỹ năng và chiến lược mà bất cứ ai cũng có thể học được và sử dụng thành thạo.

CÒN TUYỆT HƠN THÀNH CÔNG TRONG KINH DOANH VÀ TIỀN BẠC

Những phương pháp và kỹ thuật hiện thực hóa ước mơ này có thể áp dụng vào bất cứ lĩnh vực quan trọng nào trong cuộc sống. Chúng cho phép bạn đạt được những mong ước trong các mối quan hệ, sở thích và niềm đam mê cũng như trong sự nghiệp, kinh doanh và tài chính cá nhân. Tôi đã sử dụng chúng một cách hiệu quả để cải thiện mối quan hệ vợ chồng, thắt chặt tình cảm với 6 đứa con tôi và trong cả tình bạn nữa. Tôi cũng sử dụng chúng để thành công trong việc viết sách và đạo diễn chương trình tivi, trong công tác tiếp thị và trong bất cứ khía cạnh nào về mặt kinh doanh và tài chính. Tôi tiếp tục sử dụng những bí quyết này hàng ngày.

Tại sao tôi kể cho bạn nghe câu chuyện có thật về Michael Landon và hai người có tên Steven? Để chứng tỏ với bạn rằng những người bình thường nhất cũng có thể đạt được những ước mơ xa vời nhất. Bạn hãy nhớ rằng, trên rất nhiều phương diện, cả ba chúng tôi đều là những người “dưới mức trung bình”. Ngay bây giờ, bạn có thể có điểm xuất phát tốt hơn Michael Landon, Steven Spielberg và Steven Scott để vươn tới ước mơ của mình.

Chắc bạn không khỏi nảy ra suy nghĩ, “Khoan đã, điều đó chỉ đúng với ba người các ông thôi, chắc gì đã đúng với vô vàn những người khác”. Không phải thế! Như Zig Ziglar đã chỉ ra trong những công trình nghiên cứu mà ông thực hiện với hơn 300 danh nhân từ cổ chí kim, có hơn 75% trong số đó đạt được những thành tích sáng chói bằng cách vươn lên từ trong nghịch cảnh và điều kiện khó khăn. Hầu như không một ai bước ra từ hoàn cảnh thuận lợi. Thomas Edison chỉ có ba tháng học hành tử tế. Mới 12 tuổi đầu, ông đã phải làm việc toàn thời gian ở đường xe lửa. Ông chưa bao giờ được theo học những lớp về vi phân/tích phân hoặc vật lý, ấy vậy mà ngày nay loài người tận hưởng đèn điện thắp sáng, những bộ phim hay và máy ghi âm là nhờ ông đã nắm được Nghệ Thuật Hiện Thực Hóa Ước Mơ. Bill Lear bỏ học từ năm lớp 6 nhưng ông mang lại cho chúng ta máy rađiô trong xe hơi trong khi sách giáo khoa vật lý trung học nói rằng, “Không thể tạo ra loại máy rađiô nhỏ”. Ông cũng cho ra đời chiếc máy bay có hệ thống điều khiển tự động và máy bay kinh doanh đầu tiên mặc dù vào thời của ông, các hãng sản xuất máy bay lớn nhất đều lớn tiếng khẳng định rằng những bước phát triển này là bất khả thi do điều kiện kinh tế. Oprah Winfrey không chỉ có một tuổi thơ khốn khó mà bà còn được sinh ra ở một vùng mà nạn kỳ thị màu da của bà là rào cản lớn nhất cho bất cứ thành tựu nào. Vậy mà xem nào, ngày nay không ai còn lạ gì người dẫn chương trình nổi tiếng nhất thế giới Oprah Winfrey cả. Chúng ta có thể kể ra rất nhiều người, đàn ông cũng như đàn bà, già cũng như trẻ, đạt được ước mơ lớn nhất của đời mình, bất chấp hoàn cảnh xuất thân của họ có tồi tệ đến mức nào.

Vì thế, dù bạn tự xếp hạng mình ở đâu, tài năng của bạn ra sao, khả năng của bạn thế nào, ngay lúc này bạn có thể bước trên con đường dẫn bạn đi tới những điều kỳ diệu, trong cả lĩnh vực cá nhân lẫn sự nghiệp. Phải, dù mong muốn của bạn là giảm được 25 kg, kết hôn với người trong mộng, đạt đến đỉnh cao nghề nghiệp hoặc có một gia tài kếch xù…, bạn có thể đạt được tất cả chỉ bằng cách học hỏi và áp dụng Nghệ Thuật Hiện Thực Hóa Ước Mơ vào cuộc sống thường ngày.

MỘT VÀI NGƯỜI TÌM ĐẾN TÔI VỚI NHỮNG GIẤC MƠ “HÃO HUYỀN”

– Một người thợ trang điểm chật vật trong nghề mơ tạo ra dòng mỹ phẩm của riêng mình.

– Một tư vấn viên về hôn nhân ước mang tiếng cười hạnh phúc đến cho hàng triệu gia đình thay vì chỉ vài trăm.

– Một giảng viên đại học mong muốn dạy cho học viên đủ mọi lứa tuổi phương pháp học tập hiệu quả.

– Một nhà tạo mẫu tóc mơ về một ngày, những sản phẩm dưỡng tóc của cô được bày bán trong tất cả các cửa hiệu lớn nhỏ ở Mỹ.

– Một chuyên gia về giảm cân mong muốn giúp đỡ những người béo phì giảm cân để họ lấy lại sức khỏe và sự tự tin.

Đó là những người tìm tới thổ lộ với tôi những ước mơ thầm kín của họ, nhưng chẳng dám hy vọng rằng những ước mơ ấy sẽ thành sự thật. Tuy vậy, bằng cách phổ biến Nghệ Thuật Hiện Thực Hóa Ước Mơ, tôi và các đồng nghiệp của mình đã biến những ước mơ ấy thành hiện thực, gần như… chỉ sau một đêm. Chuyên gia trang điểm Victoria Jackson đã tạo ra dòng mỹ phẩm của mình với hơn một trăm sản phẩm khác nhau, phục vụ cho hơn một triệu khách hàng và có tổng doanh thu hơn 300 triệu đô. Nhà tư vấn về hôn nhân Gary Smalley đã viết hai quyển sách thành công, tạo ra những cuốn băng video bán chạy nhất, giúp cho hàng triệu cặp vợ chồng tìm được tình cảm nồng ấm và mối quan hệ bền vững suốt đời.

Tiến sĩ Claude Olney chứng kiến khóa giảng dạy về phương pháp học tập của mình được dựng thành video nhiều tập mang tên, “Ở đâu có ý chí, ở đó có điểm mười” giúp cho hàng triệu học sinh tiểu học, trung học và đại học biết cách học tập hiệu quả hơn bao giờ hết. Những sản phẩm dưỡng tóc của nhà tạo mẫu tóc Lori Davis đi từ tiệm salon của cô đến từng quầy bán dược phẩm, hiệu tạp hóa và các cửa hàng khắp nước Mỹ. Sản phẩm của cô còn được nữ ca sĩ Cher làm người mẫu đại diện. Richard Simmons biến ước mơ về “Giải quyết bài toán khẩu phần ăn” của mình thành thực tế giúp hàng triệu người, nam cũng như nữ, giảm cân và lấy lại vóc dáng cân đối. Đó chỉ là một số ví dụ về những người đã làm việc cùng tôi, áp dụng Nghệ Thuật Hiện Thực Hóa Ước Mơ để hô biến những giấc mơ “hoang đường” nhất thành hiện thực muôn màu muôn vẻ.

Phải, ước mơ sẽ trở thành hiện thực, nếu – và chỉ thế mà thôi – bạn biết cách biến nó thành sự thật.

Tôi yêu quý và kính trọng Zig Ziglar không chỉ vì ông là một nhà sư phạm tuyệt vời, một bậc thầy trong việc động viên khích lệ người khác mà ông còn là một con người vĩ đại. Chính ông đã tạo nên một bước ngoặt lớn trong cuộc đời tôi và tôi xin được trích dẫn lời ông trong quyển sách này. Trong những khóa đào tạo của mình, ông đã dẫn dắt học viên của mình tiến hành những bài tập thực hành đơn giản, dễ dàng mà đầy sức mạnh. Và tôi muốn noi gương ông bằng cách đề nghị bạn trả lời ba câu hỏi sau:

1. Bạn có tin là bạn có thể làm một việc cụ thể nào đó trong hai tuần tới khiến cho cuộc sống của bạn, gia đình bạn hay công việc làm ăn của bạn xấu đi?

__ Có

__ Không

2. Bạn có tin là bạn có thể làm một việc cụ thể nào đó trong hai tuần tới khiến cho cuộc sống của bạn, gia đình bạn hay công việc làm ăn của bạn tốt hơn?

__ Có

__ Không

3. Bạn có tin là mỗi sự lựa chọn đều dẫn đến một hệ quả nào đó? __ Có

__ Không

Nếu bạn trả lời “có” cho tất cả ba câu hỏi trên, tôi xin chúc mừng bạn đã đạt điểm tuyệt đối. Quan trọng hơn, khi trả lời như thế, bạn muốn nói rằng, “Tôi không đặt nặng vấn đề quá khứ của tôi tốt xấu thế nào. Tôi cũng không màng đến hoàn cảnh hiện tại của mình khó khăn ra sao. Điều quan trọng là tôi luôn có thể làm một điều gì đó ngay bây giờ khiến cho tương lai của tôi tốt hơn hoặc xấu đi… và đó là sự lựa chọn của tôi”.

Phải, sự lựa chọn thật sự thuộc về bạn! Nếu bạn lựa chọn việc học những nguyên lý, kỹ thuật và chiến lược của Nghệ Thuật Hiện Thực Hóa Ước Mơ rồi bắt tay vào áp dụng chúng trong cuộc sống, bạn sẽ chinh phục được những ước mơ cao đẹp.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.