Tôi là Êri
Chương 6 – Phần 2
Trước đây, cả ba chúng tôi cùng làm việc trong một quán bar Nhật Bản. Hàng ngày chúng tôi cùng làm việc và hàn huyên với nhau. Chị Lếc không được đẹp lắm nên ít khách hơn so với những người khác. Chị rất lo lắng, vì không có khách tức là sẽ không có tiền mà chị còn phải nuôi tất cả mọi người trong gia đình. Một hôm, chị tâm sự với tôi rằng chị muốn đi dâng lễ cúng bùa. Đây vốn là chuyện tâm linh nên tôi cũng không tin lắm. Thầy cũng sẽ giúp chị làm bùa câu khách. Chị ấy bảo, có nhiều ông thầy cúng người Ấn Độ, người Campuchia nhận làm bùa chài khách, đã từng có người làm và có kết quả. Nhưng cần phải có tiền xe, tiền cúng cho thầy, ít nhất khoảng ba đến năm nghìn bạt. Tôi đã từ chối đi cùng chị và nói rằng tôi không có đủ số đó tiền. Chị Lếc bảo chị sẽ đi vay tiền A Băng cho tôi mượn trước với lãi suất hai mươi phần trăm. Nhưng vì tôi không muốn nợ tiền người khác nên bảo chị đi cúng trước, nếu thực sự tốt thì tôi sẽ đi sau. Chị Lếc cũng rủ chị Ổ nhưng chị Ổ cũng nói hệt như tôi là để chị Lếc đi làm trước xem sao.
Sau hôm đó, chị Lếc biến mất ba, bốn ngày mới về làm việc bình thường. Sau khi làm việc trở lại, tôi quan sát thấy hầu như đêm nào chị cũng có khách, đây là điều rất lạ, đến mức mọi người ai cũng phải ngạc nhiên vì trước đây chị rất ít khách, giờ lại trở nên đông khách nhất so với tất cả mọi người trong quán.
Tôi bàn với chị Ổ, có lẽ chúng tôi cũng phải kiếm tiền để đi cúng xin bùa giống chị Lếc. Chị Ổ cũng đồng ý với tôi, rồi cả hai cùng nhau dành dụm tiền. Một hôm, chị Lếc được một người khách người Nhật đến Pattaya nghỉ bao chị đi chơi nhiều ngày, khoảng gần một tuần. Tôi thấy chị Lếc gọi khách đi Sa-chô[1]. Từ Sa-chô trong tiếng Nhật thể hiện vị khách này rất giàu có, giống như là lão gia hay ông chủ vậy. Khi khách về nước, chị Lếc bỗng dưng trở nên giàu có như một bà hoàng chỉ trong chớp mắt vì ông khách Nhật này để lại cho chị khá nhiều tiền. Thêm vào đó hàng tháng còn gửi tiền cho chị nữa. Chị Lếc đi mua nhà mới, một ngôi biệt thự hai tầng. Ngôi nhà này nằm cách không xa chỗ làm việc, có thể đi bộ về được.
[1] (syachyou): Tiếng Nhật nghĩa là giám đốc. Ở đây là tiếng Nhật bồi của nhân vật.
Từ đó trở đi, chị Lếc không thường xuyên đi làm như trước nữa, nhưng thỉnh thoảng vẫn đến chơi. Ngày nào chị xuất hiện ở chỗ làm thì y như rằng ngày đó kiểu gì chị cũng có khách. Thời gian đó, chị Lếc không mấy khi đi làm bởi vì chị mê một người đàn ông làm bảo vệ trong một khách sạn ở Pattaya. Tôi thấy chị Lếc còn mua cả xe máy khá đắt tiền cho hắn đi dù bọn họ mới quen nhau chưa lâu, chỉ mới hơn một tháng. Người đàn ông này dọn đến ở cùng với chị trong ngôi biệt thự mới. Ngoài ra, chị Lếc cũng đón bố mẹ và các anh chị em ở quê đến ở cùng. Mọi người trong gia đình không ai có việc làm. Tuy thế, người khách Nhật kia vẫn gửi tiền đều đặn cho chị sống thoải mái. Số chị thật may mắn!
Chị Lếc biến mất cả tuần không xuất hiện trong quán bar Nhật. Tôi nghe tin chị bị ốm nặng, không đi lại được. Tôi và chị Ổ rủ nhau đi thăm. Khi đến nơi, tôi nhận thấy tình trạng bệnh của chị rất nặng. Trông chị giống như một bà cụ già, đang nằm dưới cầu thang, không nói được gì nhưng đáng thương hơn là chị không nhận ra tôi và chị Ổ là ai. Chị cũng không nhìn vào mắt chúng tôi. Tôi cố gắng gọi tên chị nhiều lần, hỏi chị có nhớ tôi là ai không, nhưng chị không hề trả lời, cứ như chúng tôi chưa từng quen nhau vậy. Chị nằm đó, lấy tay xoa miệng giống như người ta đang bôi sáp nẻ, rồi lại lấy tay kéo kéo giống như người đang kéo sợi. Bố mẹ chị Lếp cũng không biết phải làm gì hơn. Đi vệ sinh đành phải đi tại chỗ, rồi để cho bố mẹ lau dọn. Cơm nước cũng không màng. Mọi người đưa chị đến bệnh viện nhưng bác sĩ nói rằng tình trạng sức khỏe chị vẫn bình thường, không có vấn đề gì, chỉ cần tiếp thêm đường gluco.
Lúc mới đến, tôi nhìn thấy một con kỳ đà (người Thái tin rằng con vật này luôn mang lại sự xui xẻo, tai ương) đang bò vào nhà chị ấy nhưng hình như nó bị người ta chém ở giữa lưng tạo thành một vết thương nham nhở. Thấy thế tôi kêu lên kinh ngạc:
“Ôi kỳ đà bò vào nhà!”.
Người lớn trong nhà bảo tôi không được phép kêu lên như thế vì sẽ rất xui xẻo. Nhưng vì không biết nên tôi đã lỡ kêu lên mất rồi. Bạn trai của chị Lếc thấy chị ốm nặng cũng không về nhà nữa. Bố mẹ chị kể lại hắn gói ghém quần áo bỏ đi nơi khác ở lâu rồi. Tội nghiệp chị đã bị hắn bỏ rơi!
Tôi và chị Ổ không cầm được nước mắt khi thấy tình trạng bệnh tật của chị Lếc. Chúng tôi vừa khóc vừa hỏi:
“Sao bác không thử đưa chị đến gặp các vị hòa thượng trong chùa nhờ khám cho?”.
Bố mẹ chị nói rằng họ không quen biết vị hòa thượng nào ở đây cả vì họ cũng chỉ mới đến Pattaya. Tôi và chị Ổ phải đi mời hòa thượng ở chùa Chaya Mongkol ở Pattaya Klang về làm lễ cúng tại nhà. Vị hòa thượng này biết nói tiếng Campuchia. Khi thấy những hành động kì lạ của chị Lếc, vị hòa thượng tỏ ra rất lo lắng. Ngài ngồi nhìn chị Lếc một lúc rồi nói tiếng Campuchia với chị, đại loại là hỏi người đó là ai, đến từ đâu, tại sao lại làm hại cơ thể của chị Lếp như vậy?
Thật không ngờ chị Lếc lại có thể nói chuyện bằng tiếng Campuchia với vị hòa thượng đó một cách trôi chảy trong khi thực tế chị không biết tiếng Campuchia. Sau khi nói chuyện được một lúc, vị hòa thượng quay lại giải thích cho chúng tôi hiểu rằng trong cơ thể của chị Lếc bây giờ không phải là con người cũ nữa, mà có một bọn quỷ Khơ Me nhập vào và đã ăn hết nội tạng của chị rồi. Đây là chuyện rất bí hiểm khó tin mà tôi chưa từng được chứng kiến. Vị hòa thượng nói vị pháp sư người Campuchia đã nhiều lần gửi con kỳ đà đến nhắc nhở chị Lếc về việc thực hiện lời hứa với ông ta nhưng chị Lếc vẫn cố tình lờ đi. Hôm nay, ông ta chính là người đã gửi con kỳ đà bị chém nham nhở ở lưng mà tôi đã trông thấy khi vừa đến nhà chị. Đây là dấu hiệu cảnh báo rằng chị Lếc phải bị trừng phạt vì đã vi phạm lời hứa. Thật kỳ lạ khi vị hòa thượng nhắc đến con kỳ đà, vì trên thực tế ngài đã không nhìn thấy nó. Nhưng ngài đã nói đúng. Bố mẹ của chị Lếc cũng xác nhận với chúng tôi là nhiều ngày nay rất hay thấy kỳ đà vào nhà, nhưng họ chỉ nghĩ có lẽ chúng đến ăn thức ăn thừa sau nhà, hôm nay là lần đầu tiên trông thấy một con bị chém ở lưng.
Về thỏa thuận mà chị Lếc đã hứa với pháp sư, vị hòa thượng nói tiếp rằng khoảng hai tháng trước chị Lếc có đến làm lễ xin bùa từ một vị pháp sư người Campuchia. Chị cầu xin ngày nào cũng có khách, xin gặp được người sẽ nuôi nấng, chu cấp cho chị. Vị pháp sư đó đã đồng ý và hỏi chị: “Còn muốn gì nữa không?”. Chị Lếc nói: “Muốn có một ngôi nhà và có một triệu bạt trong tài khoản ngân hàng”. Vị pháp sư đồng ý nhưng buộc chị phải hứa rằng nếu chị đạt được những điều nêu trên thì phải chia cho ông ta một nửa số tiền kiếm được. Cuối cùng, chị Lếc cũng đã đạt được mọi điều mình mong muốn nhưng chị lại quên lời hứa với pháp sư, có lẽ vì thấy tiếc của nên đã không đưa tiền cho ông ta. Từ đó, tình trạng bệnh của chị ngày một xấu dần. Nghe kể mà thực sự tôi không thể tin nổi!
Nhưng tôi phải tin vì chính tôi là người đã chứng kiến tận mắt mọi việc xảy ra. Vị hòa thượng nói với xác của chị Lếc rằng:
“Bần tăng muốn được xin lại mạng sống của cô Lếc có được không? Rồi bần tăng sẽ bắt cô ấy thực hiện lời hứa sau khi khỏi bệnh”.
Nhưng vị pháp sư Campuchia chỉ khăng khăng muốn lấy mạng sống của chị, quan trọng là lúc này cơ thể của chị Lếc bị ăn hết nội tạng, kiểu gì cũng không thể sống được. Vị hòa thượng nói rằng những hành động lạ của chị Lếc đang làm như là việc lấy tay xoa miệng như đang bôi sáp nẻ hay kéo sợi là do vị pháp sư người Campuchia kia đã đưa hai vật thần bí cho chị sau khi làm lễ cúng, đó là một sợi chỉ dùng để kéo sợi, hàng ngày trước khi đi làm phải khấn câu “sảo đai sảo au”[2] và vật nữa là sáp ong bôi lên miệng rồi kèm theo lời khấn: “Xin cho con được thỏa nguyện”.
[2] “sảo đai sảo au” – là một câu thần chú, dịch từ tiếng Thái có nghĩa là “lấy được bao nhiêu thì cứ lấy”
Sau đó, vị hòa thượng nói, bây giờ ngài không thể giúp gì được cho chị Lếc vì pháp sư này có pháp thuật rất cao siêu, bản thân ngài không thể hóa giải được. Ngài giới thiệu cho chúng tôi đưa thi thể chị Lếc đến gặp sư phụ của ngài, là một hòa thượng khác trong chùa gần Bang Phli. Tôi cũng không nhớ là chùa Bang Bo hay Bang Phili Nai vì thời gian trôi qua cũng đã khá lâu rồi. Chỉ nhớ ngôi chùa đó nằm gần một con kênh. Vị hòa thượng nói, sư phụ của ngài rất tài giỏi nên muốn giới thiệu cho chúng tôi để chữa trị bệnh cho chị Lếc.
Chúng tôi rời Pattaya từ lúc đầu giờ chiều đến khoảng ba giờ chiều thì tới Bang Phli. Chúng tôi hỏi thăm tìm sư cụ và được một vị sư khác đưa đi gặp. Chúng tôi kể lại câu chuyện cho sư cụ nghe. Nghe xong, sư cụ sai tôi đi mua ba quả trứng. Chính tôi là người tự tay đi mua. Lúc đó ba quả trứng có giá năm bạt. Sau đó, sư cụ bắt đầu làm lễ và nói chuyện với thi thể của chị Lếc bằng tiếng Campuchia. Sau khi nói chuyện xong, sư cụ quay ra nói với chúng tôi rằng vị pháp sư Campuchia này khăng khăng đòi lấy mạng chị Lếc bằng được. Ngài còn nói, thực tế thì chị Lếc đã chết từ lâu, chúng tôi nhìn thấy bây giờ chỉ là phần xác của chị, còn thứ nằm trong cơ thể đã không còn là của chị nữa rồi. Nội tạng đã bị bọn quỷ ăn hết rồi. Sư cụ không thể làm gì giúp chị được nữa ngoài việc lấy ra khỏi cơ thể chị một chút tà ma, đó là đinh dùng để đóng quan tài, sợi tóc và huyết tương của oan hồn đã chết. Chúng tôi nghe xong cũng không muốn tin đó là sự thật.
Tiếp theo, sư cụ bắt đầu làm lễ bằng cách để chị Lếc nằm xuống sàn nhà rồi dùng nước thánh đựng trong một chiếc bình lớn vẩy làm phép. Sau đó, đem trứng gà mà tôi đã mua, huơ bên trên đầu của chị Lếc rồi sư cụ lấy quả trứng đó đập ra một cái đĩa đã được chuẩn bị sẵn. Không thể tin được rằng thứ mà tôi nhìn thấy trong quả trứng được đập ra đó chỉ toàn là tóc. Quả thứ hai cũng như vậy, được huơ trên đầu gối chị, khi đập ra chỉ toàn huyết tương mà thôi, không hề có một chút lòng đỏ trứng nào. Quả thứ ba sư cụ đem huơ trên đầu ngón chân chị, lần này khi đập trứng ra chỉ có toàn đinh, có đến năm sáu chiếc đinh trong đó. Tôi không thể tin được nhưng đó lại là sự thật!
Cho đến nay, tôi cũng không tin vào thế giới tâm linh cho lắm. Nhưng mỗi lần nghĩ đến chuyện này tôi vẫn luôn tự nhắc nhở mình: “Ma thuật là có thật và nhất định không được coi thường nó”.
Làm phép thuật xong, sư cụ nói với chúng tôi:
“Các thí chủ phải chấp nhận thôi, chủ nhân của cơ thể cô ấy chết từ lâu rồi. Thứ mà thí chủ nhìn thấy là do pháp sư muốn để nội tạng của cô ấy bị ăn bằng hết trước khi trút hơi thở cuối cùng. Bần tăng không thể giúp gì cho cô ấy được nữa. Bần tăng chỉ có thể lấy ra khỏi cơ thể cô ấy một chút tà ma và cũng chỉ là một phần rất nhỏ mà thôi. Khi hỏa táng xong, chắc chắn các thí chủ sẽ thấy có rất nhiều đinh sắt rơi ra vì bần tăng vẫn chưa lấy ra được hết”.
Chúng tôi đưa chị Lếc về nhà. Nhưng trước khi về, chúng tôi đưa chị vào một bệnh viện để chứng minh những lời sư cụ nói có thật hay không. Chúng tôi yêu cầu bác sĩ chụp X-quang để kiểm tra cơ thể của chị có vấn đề gì không. Bác sĩ vẫn thông báo rằng mọi cơ quan trong cơ thể chị đều đầy đủ. Thật đáng sợ, những điều bí hiểm kia đã không thể nhìn được tận mắt và không thể chứng minh bằng khoa học hiện đại. Chuyện này ai không tin thì tùy, nhưng tôi tin vì chính tôi đã được chứng kiến tận mắt. Sau đó hai ngày, chị Lếc trút hơi thở cuối cùng. Chúng tôi đưa chị đi hỏa táng và thứ mà chúng tôi chờ đợi muốn được thấy đó là cố đinh sắt rơi ra từ tro của chị không. Thật không ngờ, cơ thể của chị Lếc thiêu kiểu gì cũng không chịu cháy. Người mai táng phải dùng điện giật nhiều lần để cơ thể cháy dần dần cho đến hết. Và thứ mà tôi muốn được trông thấy cuối cùng cũng xuất hiện. Tôi thấy có đến ba, bốn chiếc đinh rơi ra từ ngón chân cái và các ngón chân khác của chị. Chuyện của chị Lếc được bàn tán nhiều lần ở chỗ làm của chúng tôi để nhắc nhở những người khác không được phép đi cúng xin bùa giống như chị. Chuyện này đã làm cho mọi người sợ hãi như chúng tôi vậy. Nhưng nếu chị Lếc chịu làm theo lời hứa với pháp sư thì có lẽ chị đã không phải chết một cách tức tưởi và đau đớn đến như thế.
Tôi và chị Ổ may mắn không làm theo chị Lếc. Thực tế thì khi đó chúng tôi cũng muốn làm theo, nhưng bởi vì số tiền khoảng bốn, năm nghìn bạt cũng không phải là dễ kiếm cho dù khi đó chị Lếc nói sẽ cho tôi mượn tiền trước. Nguyên nhân mà tôi quyết định không chịu đi làm là vì nghe chị Lếc kể rằng khi làm phép thuật, pháp sư bắt chị cởi hết đồ, nằm chắp hai tay trước ngực rồi vị pháp sư đó sẽ vừa giao hợp với chị, vừa niệm chú. Tôi không thể chấp nhận được điều này nên quyết định không làm mặc dù chị Lếc đã rủ rê rất nhiều lần. Cũng bởi chị thấy tôi vất vả nên muốn tôi có tiền mua nhà như mơ ước lâu nay của tôi. Chuyện của chị Lếc kết thúc tại đây và tôi chắc chắn sẽ không bao giờ quên câu chuyện buồn của chị. Tôi vẫn sẽ luôn nhớ đến chị. Tôi tin giờ này chắc chị đã được hóa sang một kiếp khác, hoặc có thể đã trở thành một thiên thần trên cõi niết bàn vì chị là người nhân hậu, hay làm việc thiện, hay giúp đỡ người khác khi họ gặp khó khăn mỗi khi chị có tiền.
Đã bốn, năm ngày trôi qua, chúng tôi vẫn phải sống trong ngôi nhà đó để chờ đợi ngày đi Nhật. Cuối cùng tin vui cũng đến, ông chủ đến báo cho chúng tôi chuẩn bị thu dọn đồ đạc để bay vào sáng hôm sau. Chúng tôi vui mừng khôn xiết, đến mức cả đêm đó không thể chợp mắt. Sáng hôm đó chúng tôi được chia thành hai nhóm. Tôi, Tài và Nen bị đưa lên tàu hỏa đi Had Yai[3]. Còn chị Ổ và ba người nữa thì được đưa ra sân bay Don Muang. Tôi cũng không biết họ sẽ đưa chúng tôi đi đâu. Không một ai biết. Chỉ biết họ sai chúng tôi làm việc gì thì chúng tôi sẽ làm việc đó. Vậy thôi. Tôi và các bạn phải ngồi tàu cả đêm mới đến được Had Yai. Đến nơi, đã có người chờ sẵn để đón cả ba chúng tôi. Họ đưa chúng tôi đến nghỉ qua đêm tại một khách sạn để chờ đến sáng hôm sau sẽ mua vé xe khách qua Malaysia. Chúng tôi lại tiếp tục ngồi xe trọn một ngày sang Malaysia. Đến Kuala Lumpur, có một người Trung Quốc biết nói tiếng Thái đã chờ sẵn. Họ đưa chúng tôi đến nghỉ tại một ngôi nhà hai tầng trông rất bẩn thỉu, giống y như những ngôi nhà ở khu phố Tàu Yauwarat. Chúng tôi leo lên tầng hai của ngôi nhà đó thì thật không ngờ lại gặp nhóm chị Ổ. Ai nấy đều rất vui mừng khi gặp lại nhau. Lúc đầu tôi nghĩ nhóm chị Ổ chắc sẽ bay thẳng đến Nhật ngay lập tức nhưng nghe chị Ổ nói, ông chủ đã báo ngay từ đầu là để các chị bay đến Malaysia trước rồi sau đó mới bay tiếp sang Nhật. Ông chủ để chúng tôi nghỉ lại Malaysia khá lâu, khoảng mười ngày. Tôi không thể kiên nhẫn hơn được nữa nên hỏi ông chủ tại sao lại để chúng tôi ở lại Malaysia lâu như vậy. Ông chủ giải thích rằng tất cả bảy người bọn tôi phải chờ để làm hộ chiếu giả, tức là sẽ dùng hộ chiếu của người khác. Thực sự thì ngay từ đầu cả sáu người khác đều đã sử dụng hộ chiếu giả từ Thái Lan qua Malaysia. Chỉ có một mình tôi là dùng hộ chiếu thật, còn những người khác nếu dùng tên của ai cũng không rõ. Thật ngạc nhiên là chúng tôi đều có thể vào được Malaysia một cách dễ dàng.
[3] Had Yai: Một tỉnh ở miền Nam Thái Lan.
Ngày ấy, kỹ thuật làm hộ chiếu chưa tiên tiến như bây giờ, người ta chỉ đính ảnh vào trong quyển hộ chiếu rồi đóng dấu chìm lên ảnh một lần nữa. Vì thế, muốn làm giả chỉ cần bóc ảnh cũ ra rồi dán ảnh của người khác vào thay thế là xong. Phương pháp làm đơn giản nên có rất nhiều người đã sử dụng hộ chiếu giả. Và nếu có tiền chi riêng cho nhân viên xuất nhập cảnh từ trước thì việc đi lại càng trở nên dễ dàng hơn.
Thời gian đó, ông chủ lấy hộ chiếu của người nào không rõ, sau đó sai chúng tôi bóc ảnh cũ của họ ra rồi lấy ảnh của chúng tôi dán thế vào. Chính tôi là người đã tự tay bóc và dán ảnh mới vào. Chúng tôi chờ tìm đủ hộ chiếu cho tất cả mọi người, mất khoảng mười ngày. Sau đó, ông chủ nói sẽ đưa chúng tôi đến làm quen với các nhân viên phòng xuất cảnh của Malaysia để chúng tôi có thể nhớ mặt họ. Khi đóng dấu hộ chiếu, chúng tôi sẽ chỉ đóng dấu ở chỗ của họ mà thôi vì họ đều là chỗ quen biết với ông chủ. Ông chủ nói sẽ đưa chúng tôi đến một khách sạn ở Malaysia và sẽ hẹn gặp các nhân viên ở đó. Chỉ nghe đến đây là tôi đã đoán được chuyện gì sắp xảy ra. Ông chủ muốn tất cả bảy người chúng tôi phục vụ bọn nhân viên này. Ông chủ hứa sẽ trả tiền công cho chúng tôi, không để chúng tôi làm không công. Thật may, tôi khá thân thiết với vợ ông chủ trong suốt thời gian đến ở nhà họ. Bà chủ cũng là người Thái còn ông chủ là người Malaysia gốc Hoa.
Vợ của ông chủ hay nhờ tôi trông con bà. Đứa bé cứ quấn lấy tôi nên tôi có nhiều cơ hội được nói chuyện với bà chủ. Tôi nói:
“Chị ơi, em không ngủ với bọn nhân viên này được không? Em không thích kiểu làm việc thế này?”.
Tôi không thích người trong cùng một đường dây lại làm chuyện đó với nhau cho dù có được trả tiền. Phong cách làm việc của tôi là vậy, cũng giống với trường hợp của Hia Khăm, người đã đưa tôi sang Hồng Kông. Bà chủ gật đầu với tôi ngay lập tức. Bà nói lại với ông chủ xin cho tôi không phải đi phục vụ nhóm nhân viên đó. Ông chủ cũng đồng ý, nhưng nhắc tôi phải nhớ mặt người sẽ đóng dấu hộ chiếu cho mình, phải nhớ mặt anh ta như thế này, có râu như thế kia, sẽ ngồi ở ô số tám. Ngày mai, tôi sẽ phải vào xếp hàng số tám để đóng dấu hộ chiếu. Tôi đồng ý với ông và nghĩ tôi có thể nhớ mặt được gã nhân viên này. Hắn rất giống với những người Ấn Độ theo đạo Hồi ở Malaysia.
Sau khi ghi nhớ ngoại hình của nhân viên này xong, tôi ra khỏi khách sạn và trở về nhà. Bà chủ đưa tôi đi chơi trong một siêu thị rất lớn theo như suy nghĩ của tôi lúc đó. Bà chủ thường nói, bà muốn tôi ở lại Malaysia, không muốn tôi đi Nhật vì tôi là người tốt và chăm sóc con bà rất tốt. Đứa bé cũng rất yêu quý tôi. Nhưng tôi nói với bà tôi không thể ở lại, vì mơ ước của tôi là kiếm được thật nhiều tiền để mua nhà cho gia đình và quan trọng là tôi rất muốn được đi Nhật. Mặc dù bà chủ có cố gắng nói cho tôi biết thực tế ở Nhật Bản không được tốt lắm, sẽ có rất nhiều Yakuza (xã hội đen Nhật) kiểm soát công việc của chúng tôi, nhưng tôi cũng không mấy quan tâm. Bà còn bảo tôi không được nói chuyện này với người khác. Nghe bà nói như vậy là tôi cũng biết bà sợ các bạn của tôi sẽ lo lắng mà bỏ về nước, không chịu đi nữa. Bà cũng cấm tôi không được phép nói chuyện này với ông chủ nếu không bà sẽ bị ông chủ đánh đập. Tôi cũng nhận lời sẽ không kể chuyện này cho ai biết.
Hôm đó, bà mua một bộ mỹ phẩm của một thương hiệu nổi tiếng cho tôi. Tôi có cảm giác bà có vẻ buồn chán với cuộc sống hiện tại và muốn có bạn để tâm sự. Bà kể cho tôi nghe trước đây bà từng là một gái bán dâm, làm việc tại Malaysia cho đến khi được ông chủ mang về nuôi cho đến tận bây giờ. Nhưng bà chưa từng hạnh phúc mặc dù ông chủ cho bà rất nhiều tiền, muốn gì được nấy. Thỉnh thoảng, bà còn bị ông chủ đánh. Tôi hỏi bà tại sao bà không quay về Thái Lan. Bà nói bà đã có con và rất thương con, không muốn con phải khổ vì không có bố. Nếu bà nghĩ như vậy thì tôi cũng không biết phải khuyên bà ra sao, thôi thì đành để bà tự giải quyết vậy.
Khi quay lại nhà trọ, tôi thấy mọi người đã trở về phòng hết. Bọn họ chỉ đi không quá hai tiếng đã xong việc và ai cũng được tiền mang về, mỗi người hai nghìn bạt. Số tiền này ông chủ là người trả, coi như họ đi làm việc cho ông chủ, vẫn tốt hơn là làm không công.
Sáng sớm hôm sau, tất cả bảy người chúng tôi đã chuẩn bị sẵn sàng lên đường. Ai cũng vui mừng vì nghĩ rằng cuối cùng cũng đến được Nhật. Máy bay mà chúng tôi đi là của hãng hàng không Hàn Quốc, Korean Air.
Chúng tôi đều không biết gì cả, họ sai làm gì thì chúng tôi làm cái đó. Khi ở sân bay Malaysia, một sự cố bất ngờ đã xảy ra. Tôi thấy ở ô số tám mà tôi phải vào đóng hộ chiếu hôm đó là một người hoàn toàn lạ mặt, không phải người đàn ông mà tôi đã gặp. Tôi đứng ngơ ngác trước quầy làm thủ tục vì không biết phải vào đóng dấu ở ô nào nữa. Thấy tôi, người đàn ông ở ô số tám quay ra nhìn tôi, nháy mắt và vẫy tay gọi: “Come, come!”. Tôi không thể bỏ chạy nên đành ngoan ngoãn đi vào. Cuối cùng, anh ta cũng đóng dấu hộ chiếu cho tôi qua một cách đơn giản. Hộ chiếu mà tôi dùng không phải hộ chiếu Thái Lan mà là hộ chiếu của một người Malaysia viết bằng tiếng Trung Quốc nên tôi không nhớ tên là gì. Có nghĩa là, tôi không biết tôi giả danh người Malaysia nào để bay qua Nhật. Nguyên nhân phải làm giả hộ chiếu vì chúng tôi sẽ không phải mất quá nhiều thời gian xin visa qua Nhật trước khi bay. Nếu sử dụng hộ chiếu Thái Lan, chúng tôi sẽ phải chờ xin visa rất lâu và còn có nguy cơ không thể xin được visa. Còn nếu là người Trung Quốc thì có thể bay ngay mà không cần có visa. Một vấn đề mà phụ nữ Thái Lan thường gặp khi qua phòng xuất nhập cảnh Nhật là họ thường bị chặn lại và trục xuất về Thái. Họ sẽ bị cảnh sát hỏi cung rất nhiều. Đừng nói tiếng Nhật Bản, phụ nữ Thái đi đến nước nào cũng thường gặp rắc rối khi qua phòng nhập cảnh gì người ta thường nghĩ những người này đến nước họ để bán dâm. Hình ảnh của phụ nữ Thái thường không được nhìn nhận trên phương diện tốt. Tuy thế, phụ nữ Trung Quốc hoặc Philippines cũng đi bán dâm rất nhiều, không thua gì phụ nữ Thái. Chị Ổ và tất cả mọi người cùng đi Nhật với tôi đều dùng hộ chiếu giả. Là người Thái nhưng chúng tôi không được sử dụng hộ chiếu Thái Lan, tuy nhiên cuối cùng cũng có thể vào được nước họ một cách dễ dàng. Thật đúng là kỳ khôi!
Khi đã lên máy bay, chúng tôi mới biết trong đoàn có thêm một người Malaysia gốc Hoa nữa đi cùng. Anh ta sẽ là người đưa chúng tôi đi Hàn Quốc rồi nghỉ lại Hàn Quốc khoảng hai đêm. Bản thân tôi muốn phát điên lên và thầm nghĩ tại sao phải rắc rối đến như vậy? Tại sao cứ phải nghỉ lại chỗ này vài ngày, chỗ kia vài đêm mãi thế. Không biết đến bao giờ chúng tôi mới có thể đến được Nhật Bản?
Nguyên nhân là vì thời gian chúng tôi bay sang Hàn Quốc vừa lúc trùng với thời gian Hàn Quốc là nước chủ nhà tổ chức Thế vận hội Olympic. Và chúng tôi phải đóng giả là khách du lịch sang Hàn Quốc chơi và sẽ có người Malaysia bay cùng để làm hướng dẫn viên du lịch đưa đi chỗ nọ chỗ kia. Tôi không còn nhớ rõ năm đó là năm nào[4]. Chúng tôi cũng vào trong khu thi đấu bơi lội nhưng không ai có tâm trạng xem cả. Tuy thế, chúng tôi vẫn phải vào đúng theo chương trình du lịch. Sau đó, chúng tôi đi mua sắm, toàn mua những món quà lưu niệm nho nhỏ gọi là mua cho có hình thức. Ông chủ cho chúng tôi một ít tiền mang theo để chi tiêu lặt vặt nhưng cũng không nhiều lắm. Sau đó, chúng tôi về lại khách sạn nghỉ ngơi khoảng hai ngày. Đêm đầu tiên không có vấn đề gì xảy ra. Đến sáng ngày tiếp theo ông chủ gọi điện đến phòng khách sạn chúng tôi đang ở báo rằng đêm nay chúng tôi phải tiếp đoàn khách người Hàn Quốc, sẽ có người đến đón chúng tôi ở khách sạn. Ông ta bảo chúng tôi không phải sợ, cứ đi theo họ. Họ sẽ đưa chúng tôi đến gặp khách. Tất cả mọi người đều phải đi. Tôi đã cố gắng từ chối xin ông chủ để không phải đi nhưng ông chủ bảo:
“Không được. Hôm nay tất cả mọi người đều phải làm việc. Không phải sợ gì hết”.
[4] Thế vận hội mùa hè tổ chức ở Seoul, Hàn Quốc vào năm 1988.
Khách sẽ ngủ với chúng tôi đều là nhân viên xuất nhập cảnh tại sân bay Hàn Quốc, cũng giống như ở Malaysia, tất cả các cô gái đến Hàn Quốc đều phải làm như thế. Khi tôi hỏi đến tiền công, ông chủ nói khách sẽ tự trả, chúng tôi được phép giữ số tiền này, coi như là tiền công làm việc. Khi không thể từ chối được, tôi buộc phải làm việc theo lời ông chủ. Ngoài ra, nếu tôi không làm, có lẽ các bạn của tôi sẽ nói ông chủ không công bằng với họ và thế là tôi cũng phải làm việc giống như những người khác.
Chúng tôi được đưa đến một quán karaoke, gần khu vực khách sạn. Bước vào quán, chúng tôi gặp một nhóm năm, sáu người đàn ông Hàn Quốc đang ngồi uống rượu, hát karaoke một cách vui vẻ. Bọn họ đến chọn chúng tôi rồi ngồi thành từng cặp. Chẳng ngờ, nhóm chúng tôi bị thừa ra một người vì khách chỉ có sáu người mà chúng tôi lại có bảy. Người chọn chị Ổ bèn gọi tôi vào ngồi cùng. Có nghĩa là tôi sẽ phải tiếp khách cùng với chị Ổ. Tôi nghĩ vậy cũng tốt, sẽ không phải tốn nhiều sức. Khách cũng có vẻ rất vui mừng, sau đó cả hai chúng tôi cùng theo khách vào trong một phòng khách sạn.
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.