11 Lối Tư Duy Thay Đổi Cách Nhìn Và Sáng Tạo Tương Lai

Chương 5: KỶ NGUYÊN PHÁT TRIỂN CỦA CHÚNG TA



Cội nguồn của đổi mới

Chúng ta được thừa hưởng các đột phá mang tính cách mạng diễn ra trong những năm cuối thế kỷ XX. Nửa đầu thế kỷ XXI sẽ là kỷ nguyên hấp thụ, phát triển và hoàn thiện những đột phá vĩ đại đó. Giống cách con voi nuôi sống con trăn trong quá trình tiêu hóa, các phát minh của giai đoạn cách mạng sẽ nuôi dưỡng tinh thần đổi mới. 

Sự cường điệu về “điều vĩ đại sắp tới” vẫn xuất hiện trên các phương tiện truyền thông, nhưng điều đó không làm nảy sinh một ý tưởng nào và đương nhiên điều vĩ đại sắp tới thì càng không (trong tương lai gần). Những người tiếp tục chờ đợi sẽ bỏ lỡ các cơ hội lớn đang ở ngay trước mặt. 

ĐÃ ĐẾN LÚC GẶT HÁI LỢI ÍCH

Peter Drucker, giáo sư Đại học Frankfurt gọi những năm cuối thế kỷ XX là khoảng thời gian của “sự biến đổi ngắt quãng”. Dấu hiệu của sự biến đổi là những thay đổi không có vẻ kết nối với nhau, những điều xuất hiện đột ngột, những khái niệm hoàn toàn mới, những biến động trong nền chính trị, xã hội và kinh tế cần hàng năm trời để thay đổi và thích nghi. Những năm đầu thế kỷ XXI, thế giới chuyển từ giai đoạn thay đổi ngắt quãng sang giai đoạn dài của những thay đổi liên tục. Hiện nay, dù không nhận ra và không đánh giá đúng mức điều này, nhưng chúng ta đang ở giữa thời kỳ “kỷ nguyên phát triển”, một giai đoạn được xây dựng trên nền tảng đã được chuẩn bị sẵn sàng.

Trong một giai đoạn lịch sử như vậy, chờ đợi “điều vĩ đại sắp tới” không khác gì há miệng chờ sung. Nó giống như chờ đợi Godot1 , mà Godot thì không bao giờ xuất hiện. Nếu chúng ta tiếp tục đợi Godot, cái nhìn của chúng ta về ma trận lịch sử sẽ nhạt nhòa. Đó là lối tư duy hướng về quá khứ mà không thu được bài học lịch sử nào.

Vậy lịch sử nói gì với chúng ta? Tôi sẽ dẫn bạn đi nhanh qua những điều vĩ đại sắp tới – những chuyển dịch có tác động cách mạng và tiếp nối chúng là những giai đoạn phát triển lâu dài.

LỊCH SỬ CỦA NHỮNG “ĐIỀU VĨ ĐẠI SẮP TỚI”

Nếu lịch sử các phát minh và đổi mới chủ chốt là một biểu đồ địa chấn, chúng ta sẽ thấy tại một số điểm, máy dao động mạnh trong một khoảng thời gian ngắn, hoặc ghi lại những chuyển động nhỏ nhưng ổn định trong khoảng thời gian dài hơn rất nhiều. Tất nhiên, các dao động mạnh xảy ra khi có các đột phá cách mạng chủ chốt, gây rung chuyển mặt đất. Sau đó, các chuyển động diễn ra khiêm tốn nhưng dài hơn, đó là lúc mặt đất ổn định trở lại. Đây chính là các giai đoạn phát triển, trong đó thế giới thu được nhiều lợi ích hơn so với giai đoạn đầu của các cuộc cách mạng. Trong khung thời gian bảy thế kỷ đã qua, các cuộc cách mạng xảy ra đồng loạt, như thể tinh thần tái sinh đang ngập tràn vũ trụ.

Khoảng thời gian tinh thần trí tuệ tràn đầy nhất là thời kỳ Phục hưng – cuộc cách mạng giải phóng tinh thần vĩ đại, sau khi phần lớn các tiến bộ của thời kỳ đầu Trung cổ đã gần như chấm dứt. Khởi nguồn từ miền bắc nước Ý, phong trào Phục hưng truyền bá tinh thần giải phóng rộng khắp châu Âu từ thế kỷ XIV đến hết thế kỷ XVI, đánh dấu sự ra đời của công nghệ in và các trường đại học lớn như: Oxford, Heidelberg và Vienna. Trong lối tư duy “Đừng đi trước đám đông quá xa”, tôi đã viết rằng tầm nhìn của Copernicus và Galileo đi quá xa so với thời đại của họ, dù thời đại ấy đã cho chúng ta Leonardo da Vinci, Shakespeare… và ngành bưu điện.

Phong trào Phục hưng thay đổi trí tuệ con người và mở ra những khả năng kỳ diệu mới, tất cả đều cần thời gian để ổn định cho đến khi cây kim của máy đo địa chấn lại rung mạnh một lần nữa. Chúng ta phải đợi đến tận cuối thế kỷ XVIII mới có một bước chuyển mình mới.

Nếu gọi thời kỳ Phục hưng là cuộc giải phóng trí tuệ vĩ đại, thì có thể gọi giai đoạn cách mạng sau đó là khoảng thời gian phát minh các công nghệ có ích, về mặt công nghệ có lẽ đây là thời điểm của “điều vĩ đại sắp tới” lớn nhất trong lịch sử. Cách mạng Công nghiệp nổ ra trong những năm cuối cùng của thế kỷ XVIII. Bắt đầu bằng phát minh động cơ hơi nước, nó nhanh chóng đưa chúng ta đến với những thành phố tràn ngập nhà máy, đèn đường thắp bằng gas, tàu thủy chạy bằng hơi nước, đường sắt, các tổ chức công đoàn đầu tiên, mậu dịch tự do, bóng chày, cửa hàng bách hóa, nhiếp ảnh, máy chữ, máy khâu, kênh đào Suez, bằng đại học lần đầu được trao cho phụ nữ tại Mỹ (1841). Những phát minh và đổi mới cách mạng được tiếp nối bằng một giai đoạn hấp thu, phát triển và hoàn thiện lâu dài. Đến nay chúng ta vẫn tiếp tục hấp thu, hoàn thiện và tận dụng thành quả của cuộc Cách mạng Công nghiệp ấy.

Cuối thế kỷ XIX, tinh thần tái sinh đó một lần nữa tái xuất hiện. Những tiến bộ cách mạng nối nhau ra đời. Trong khoảng thời gian giữa thập kỷ 1880 và 1890, năm khám phá đầy kinh ngạc được thực hiện với tên gọi hiện đại là: điện, điện thoại, ô tô, hàng không và radio.

Ô tô và máy bay đã trở thành nền tảng vận tải mới.

Điện trở thành nền tảng năng lượng mới để vận hành hầu hết mọi thứ

Điện thoại và radio trở thành nền tảng liên lạc mới.

Hơn 100 năm sau, chúng ta vẫn đang xây dựng trên nền tảng những đột phá này; quá trình phát triển, điều chỉnh và hoàn thiện vẫn chưa kết thúc. Lợi ích đích thực của một cuộc cách mạng thường có được không phải bởi nhà phát minh mà nhờ những người hoàn thiện và phát triển phát minh đó.

Xét trên quy mô lớn, Trung Quốc – trong hơn một thiên niên kỷ, cho tới giữa thế kỷ XV – có thể được coi là đất nước của những đột phá cách mạng. Danh sách các phát minh của Trung Quốc bao gồm: la bàn, thuốc súng, giấy và kỹ thuật in, tàu đi biển, đai thắt cổ ngựa, gốm và đồng hồ nước (dù người ta chưa thống nhất được với nhau về nơi làm ra chiếc đồng hồ nước đầu tiên – Mesopotamia, Ấn độ hay Trung Quốc). Trung Quốc không tận dụng cơ hội để phát triển các đột phá đó lên mức tiềm năng cao hơn. Tôi muốn dùng chiếc đồng hồ làm ví dụ minh họa cho Trung Quốc và việc một cuộc cách mạng từ lúc còn là ý tưởng cho tới khi phát triển hoàn toàn, được đưa vào sử dụng mất nhiều thời gian như thế nào. Chúng ta không bao giờ biết được khi nào một ý tưởng hoàn tất quá trình phát triển của nó.

NHỮNG ĐIỀU CHÚNG TA HY VỌNG LUÔN DIỄN RA CHẬM HƠN

Trong khi tìm ví dụ về một quá trình phát triển có thể kéo dài bao lâu, tôi tình cờ bắt gặp chiếc đồng hồ nước của Trung Quốc. Cho tới trước thời điểm đó, tôi không hề biết rằng có tồn tại một loại đồng hồ như vậy. Tôi tìm được những ghi chép đầu tiên về cách đo thời gian thô sơ của người Ai Cập cổ đại dựa trên chuyển động của bóng nắng từ năm 3.500 TCN, một dạng đồng hồ mặt trời nguyên thủy. Hai nghìn năm sau, các kiểu đồng hồ mặt trời của người Ai Cập đã có thể chia thời gian có ánh sáng mặt trời trong ngày thành 10 giờ và 2 giờ lúc hoàng hôn.

Những bản ghi chép đầu tiên về các loại đồng hồ nước có từ năm 1.500 TCN, một số thậm chí còn sớm hơn. Các loại đồng hồ chiêm tinh được cơ khí hóa chi tiết hơn do người Hy Lạp, La Mã và vùng Viễn Đông phát triển từ năm 100 TCN tới năm 1.300. Các loại đồng hồ nước này vận dụng các cơ chế khác nhau và minh họa các hiện tượng chiêm tinh học. Một số dùng chuông quả và chuông đĩa, một số khác có cửa, khi mở có hình người nhảy ra hoặc các mũi tên chuyển động, mặt đồng hồ và thậm chí mô hình chiêm tinh học vũ trụ.

Triều đại nhà Thương, từ năm 1.600 đến năm 1.066 TCN (ngày tháng thay đổi theo những tài liệu khác nhau), đồng hồ nước Trung Quốc hoạt động khá phức tạp. Nhưng người Trung Quốc giữ bí mật về hoạt động của nó cho các nhà chiêm tinh học hoàng gia, vì lúc đó, đồng hồ được coi là đặc quyền của giới cầm quyền và không dành cho dân thường. Năm 1.088 TCN, Tô Tụng và các cộng sự đã dựng tháp đồng hồ tinh vi nhất. Truyền thuyết kể rằng sự ra đời của chiếc tháp này xuất phát từ một sai sót. Tô Tụng, người xây tháp, là quân sư của hoàng đế. Ông phải mang thông điệp chúc mừng sinh nhật tới hoàng đế của một nước khác. Ông đến nơi sớm hơn một ngày, điều đó chứng tỏ lịch của Trung Quốc không chính xác. Tô Tụng xấu hổ đến nỗi đã đề nghị hoàng đế cho phép làm một chiếc đồng hồ tốt hơn để theo dõi chính xác ngày và giờ. Su Song mất bảy năm để xây chiếc tháp đồng hồ nước tuyệt vời đó. Tháp có ba tầng và cao hơn 10,5 m, có hỗn thiên nghi trên nóc và thiên cầu ở tầng ba. Tháp có hỗn thiên nghi bằng đồng, được điều khiển bằng nước để quan sát, một thiên cầu tự động xoay và năm ô cửa cho phép nhìn thấy các tượng người thay đổi nhau; các tượng người này rung chuông quả hoặc chuông đĩa và cầm những tấm thẻ ghi giờ hoặc các khoảng thời gian đặc biệt trong ngày.

Tại châu Âu, cuộc cách mạng đồng hồ bắt đầu vào cuối thế kỷ XIII, giai đoạn sơ khai của thời kỳ Phục hưng. Trong suốt nửa đầu thế kỷ XIV, những chiếc đồng hồ cơ to, dùng quả nặng, do một con quay kiểm soát tốc độ điều tiết, bắt đầu xuất hiện tại các tháp đồng hồ ở một số thành phố lớn của Ý. Rất giống các bậc tiền bối Trung Quốc, Nhà thờ Cơ đốc giáo muốn giữ riêng cho mình cách đo thời gian. Nhưng sự phát triển vẫn tiếp diễn.

Từ năm 1500 tới 1510, Peter Henlein, người vùng Nuremberg, phát minh ra lò xo thay thế các quả nặng, đây là tiền đề đánh dấu sự ra đời của các loại đồng hồ đeo tay và đồng hồ có kích thước nhỏ hơn có thể mang theo bên người. Năm 1656, Christiaan Huygens, nhà khoa học người Hà Lan đã chế tạo ra chiếc đồng hồ quả lắc đầu tiên, hoạt động theo cơ chế các khoảng dao động “tự nhiên”. Khoảng năm 1675, Huygens phát triển hệ con lắc-lò xo, hiện vẫn thấy trong một số loại đồng hồ đeo tay ngày nay. Các cải tiến của ông cho phép các loại đồng hồ đeo tay của thế kỷ XVII đo giờ chính xác trong khoảng dao động 10 phút một ngày.

Trang web của Viện Vật lý và Công nghệ Quốc gia viết tiếp câu chuyện như sau:

…tại London, năm 1671, William Clement bắt đầu chế tạo những chiếc đồng hồ mới có “móc” hoặc con buông “kiểu lò xo”, một cải tiến lớn vì nó ít tác động tới chuyển động của con lắc hơn. 

Năm 1721, George Graham cải tiến độ chính xác của đồng hồ quả lắc tới mức chỉ chênh 1 giây/ngày bằng cách bù đắp các thay đổi độ dài con lắc khi thay đổi về nhiệt độ. John Harrison, một thợ mộc và thợ đồng hồ tự học, đã tinh chỉnh lại các kỹ thuật bù nhiệt của Graham và phát triển các phương pháp giảm ma sát mới. Năm 1761, ông chế tạo thành công một chiếc đồng hồ hàng hải dùng cho các nhà đi biển với lò xo và con buông lò xo đáp ứng các điều kiện của giải thưởng chính phủ Anh2 . (Sau nhiều tranh cãi và khó khăn, cuối cùng ông cũng nhận được số tiền 20.000 bảng vào năm 1777). Chiếc đồng hồ trên con tàu tròng trành đo giờ chính xác tới 1/5 giây/ngày, gần đạt mức một chiếc đồng hồ quả lắc có thể làm trên đất liền, và gấp 10 lần so với yêu cầu để có thể nhận giải thưởng. 

…Các tinh chỉnh của Siegmund Riefler năm 1889 dẫn tới sự ra đời của loại đồng hồ có con lắc gần như tự do, và nguyên tắc về một con lắc thật sự tự do được R. J. Rudd giới thiệu vào khoảng năm 1898… Một trong những chiếc đồng hồ nổi tiếng nhất, W. H. Shortt, được trưng bày vào năm 1921 và ngay lập tức thay thế loại đồng hồ của Riefler làm dụng cụ đo thời gian tối cao tại nhiều đài thiên văn… 

Độ chính xác của đồng hồ Shortt bị vượt qua khi loại đồng hồ tinh thể thạch anh phát triển vào thập kỷ 1920… 

Các loại đồng hồ và đồng hồ đeo tay thạch anh tiếp tục chiếm lĩnh thị trường về số lượng vì chất lượng tuyệt vời so với giá cả. Nhưng độ chính xác của đồng hồ thạch anh lại bị đồng hồ nguyên tử vượt xa… 

Chuẩn tần số nguyên tử Xezi đầu tiên được xây dựng tại Phòng Thí nghiệm Vật lý Quốc gia Anh năm 1955, …cộng tác với Đài Quan sát Hải quân Mỹ… Trước năm 1960, các chuẩn Xezi đã được tinh chỉnh đủ để có thể tham gia vào hệ đo giờ chính thức của Viện Tiêu chuẩn và Công nghệ Quốc gia (NIST) …Kể từ tháng 1-2002, chuẩn Xezi sơ cấp mới nhất của NIST đã có thể đo thời gian chính xác tới 30 phần tỷ giây mỗi năm… 

Bản tóm tắt lịch sử đo thời gian có thể làm vỡ mộng những người trông đợi vào các tiến trình phát triển tốc độ trong tương lai. Ít nhất, đó là cảnh báo về việc không nên thiếu kiên nhẫn. Phần lớn thế giới hiện đại sẽ không thể được như ngày nay nếu các phát triển trong việc đo thời gian không diễn ra. Nhưng phần lớn những đóng góp vào chặng đường phát triển của đồng hồ không kiếm được tiền. Nhiều bước trong bất kỳ lĩnh vực phát triển nào cũng làm lan tỏa sự phấn khích và lòng nhiệt thành nhưng cũng làm vỡ rất nhiều bong bóng.

ĐÃ ĐẾN LÚC CẤT CÁNH

Nếu quan sát quá trình phát triển các phương tiện vận chuyển mới, chúng ta sẽ thấy có nhiều phương tiện đã cố gắng tìm kiếm cơ hội cho mình. Tại Mỹ, trong những năm đầu của ngành chế tạo ô tô, khi người ta vẫn đang nghiên cứu để tìm ra nhiên liệu, kích thước, thiết kế và phụ tùng thay thế, thì ngành công nghiệp ô tô đã được xây dựng và hơn 2.700 công ty ô tô đã ra đời. Trong suốt giai đoạn dài điều chỉnh, phần lớn các công ty rơi vào suy thoái. Hiện nay tại Mỹ, chỉ còn bốn công ty ô tô, và hai trong số đó là công ty Mỹ. Hơn 99% trong số 2.700 công ty không làm được điều này.

Sự phát triển của ngành hàng không có được sự hỗ trợ rất lớn phía từ quân đội. Bỏ qua một bên các khía cạnh chính trị, chúng ta thấy trong hàng thế kỷ chiến tranh, quân đội luôn đóng vai trò to lớn trong các thay đổi và định hình tương lai. Chiến tranh vẫn luôn là một sân khấu lớn cho việc hoàn thiện các đổi mới. Dường như một phần của bản chất loài người đã khiến cho thời điểm tàn phá nhất óc sáng tạo của chúng ta được phát huy cao nhất. Ở đây, Mỹ là nước đang dẫn đầu đám đông đổi mới.

Mỹ đưa ra khái niệm “chiến tranh số” trong chiến tranh tại Afghanistan và Iraq, trong đó có sử dụng máy bay không người lái. Lầu năm góc tiên đoán chỉ trong 20 năm tới, 90% các loại máy bay chiến đấu sẽ không cần phi công. Tại Afghanistan, lần đầu tiên Mỹ cho thử nghiệm loại máy bay được trang bị vũ khí mà không cần phi công. Các máy bay này được các phi công điều khiển từ Mỹ, cách đó 10 giờ bay. Có thể sẽ mất một khoảng thời gian nhất định để công chúng chấp nhận các chuyến bay hàng không thương mại không có phi công. Nhưng ý tưởng về các chuyến bay chở hàng vượt đại dương không có người lái có thể trở thành hiện thực trước năm 2010. Trong ngành hàng không vẫn lan truyền truyện cười kể rằng trong tương lai sẽ chỉ có một phi công và một con chó trong buồng lái. Nhiệm vụ của viên phi công là cho chó ăn, còn nhiệm vụ của con chó là cắn viên phi công nếu anh ta chạm vào bất cứ cái gì.

Sự phát triển của phương tiện vận chuyển dựa trên nguyên lý khí động học đã diễn ra từ 100 năm nay. Trong suốt thời gian đó, tổng cộng ngành này không làm ra một xu nào kể từ chuyến bay của anh em nhà Wright. Hàng không là bong bóng lâu đời nhất của thế giới. Không ngạc nhiên khi nhà đầu tư uy tín, Warren Buffett nói rằng nếu có mặt ở Kitty Hawk, ông hẳn sẽ thấy mình có trách nhiệm phải đá anh em nhà Wright xuống khỏi chuyến bay đầu tiên của họ. Gần đây, ông đầu tư vào một hãng hàng không trong một thời gian ngắn và cho đó là “cơn mất trí tạm thời”.

Một phần lý do của việc ngành hàng không không tạo ra lợi nhuận là mỗi nước có hãng hàng không riêng của mình – một quốc kỳ, một đồng tiền và một hãng hàng không. Khi việc hoàn thiện các phát minh và sự mong chờ các hãng hàng không tạo ra lợi nhuận vẫn tiếp diễn thì nhiều câu hỏi về việc chế tạo máy bay vẫn còn đang để ngỏ.

Trong nhiều năm qua, Boeing và Airbus đã bị khóa chặt trong cuộc chiến khổng lồ giành vị trí dẫn đầu. Và đâu là tương lai của việc di chuyển?

Với Airbus, đó là chiếc A380 có sức chứa tối đa 800 hành khách, được xây dựng trên hệ thống sân bay trung tâm truyền thống, đưa nhiều hành khách tới các trung tâm quá cảnh của các hãng hàng không.

Với Boeing, đó là chiếc 787, một loại máy bay nhỏ hơn chở được ít hành khách hơn, đưa du khách đi nhanh hơn và trực tiếp đến hoặc từ các địa điểm.

Tôi đặt cược cho Boeing với cách nói: “Hãy đến với chúng tôi trên một chiếc máy bay nhỏ hơn, nhanh hơn và bay thẳng tới đích.” Điều cuối cùng du khách muốn là bị lèn chặt với nhiều người hơn để đi tới một sân bay trung chuyển nào đó. Nhưng thị trường sẽ quyết định.

Tất cả các cân nhắc này không do những người phát minh ra công nghệ xem xét mà là những người đang phát triển nó. Airbus không thiết kế loại máy bay hành khách thân rộng đầu tiên, Boeing không phát minh động cơ phản lực, Dell không phát minh máy tính cá nhân, Campbell không khởi xướng khái niệm xúp đóng hộp, và McDonald không phát minh bánh hamburger hoặc các cửa hàng bán đồ ăn nhanh. Tất cả đều đã phát triển rất thành công các khái niệm gốc.

ĐÃ ĐẾN LÚC TIÊU HÓA

Sau các đột phá định hướng của cuộc Cách mạng Công nghiệp, thế giới mất 100 năm để tiêu hóa những gì được tạo ra trong những năm cuối thế kỷ XIX. Phần lớn nửa đầu thế kỷ XX đã trôi qua và không có một điều vĩ đại nào xuất hiện; nó chỉ bắt đầu vào những năm cuối của thế kỷ XX. Trong đó, con người cải tiến sản phẩm hoặc làm chúng trở nên khác biệt. Những sản phẩm phát triển do mối quan tâm của quân đội và chính phủ được cải thiện đáng kể. Nhưng ngay cả những thay đổi lớn so với các sản phẩm và dịch vụ hiện có cũng không phải là điều vĩ đại sắp tới. Sự bùng nổ Internet không phải là giai đoạn phát minh nở rộ của những điều vĩ đại sắp tới, mà nó dựa vào công nghệ đã được tạo ra từ trước.

Truyền hình xuất hiện từ đầu thế kỷ XX, nhưng được cho là phát triển từ truyền thanh. Cho đến sau này chúng ta mới hiểu tác động to lớn của nó tới cuộc sống và xã hội.

Liên Xô phóng tàu Sputnik vào năm 1957, thời điểm chúng ta nghĩ là khởi đầu của thời đại vũ trụ, nhưng thật sự đó là khởi đầu của thời đại toàn cầu hóa thông tin nhờ vệ tinh viễn thông.

Thập kỷ 1940 chứng kiến việc thực hiện phản ứng phân hạch tự phát có điều khiển đầu tiên, do nhà vật lý học Enrico Fermi (thuộc Đại học Chicago) tiến hành, dẫn tới sự phát triển của bom nguyên tử và năng lượng hạt nhân.

Nhiều người trong chúng ta đã sống qua “hàng loạt các phát minh” mới và một số người thậm chí còn tham gia vào đó. Giai đoạn này diễn ra trong hai thập kỷ cuối của thế kỷ XX. Chúng ta thấy dấu hiệu của sự thay đổi ngắt quãng trong đời sống chính trị, xã hội và kinh tế: công nghệ thông tin, sinh học, nano; Trung Quốc, đế chế Mỹ, châu Âu mới, toàn cầu hóa và tư nhân hóa. Thập kỷ 1980 và 1990 là hai thập kỷ vĩ đại của những bước tiến cách mạng.

So với khoảng thời gian để các loại đồng hồ nước cơ nguyên thủy phát triển thành đồng hồ nguyên tử, các bước phát triển diễn ra từ sau thời kỳ Phục hưng đã tăng tốc lên rất nhiều.

Kỹ sư Charles Parsons, người phát minh ra máy phát điện chạy bằng tuốc-bin vào năm 1888. Bốn mươi năm sau, công ty của ông nối tiếp bằng một loạt những đổi mới nhỏ nhưng liên tục về thiết kế và công nghệ. Các cải tiến này không mang tính đột phá nhưng đã mang đến cho CA Parsons&Co vị trí dẫn đầu thế giới trong thị trường nòng cốt của mình.

SẢN XUẤT CHIẾC DAO CẠO CŨNG LÀ CẢ MỘT QUÁ TRÌNH

King Gillette phát minh dao cạo an toàn vào năm 1901 và 70 năm sau ông tung ra kiểu dao cạo hai lưỡi. Kể từ đó, Gillette phát triển loại dao cạo an toàn theo quy trình lần lượt bổ sung thêm từng lưỡi một.

Dan Roberts, biên tập nên chuyên mục kinh tế của tờ Financial Times, viết một bài báo khá khôi hài về quy trình đó. Ông kể rằng loại dao ba lưỡi Mach3 Turbo bán chạy nhất thế giới khi được tung ra thị trường năm 1998. Đối thủ lớn của Gillette là Wilkinson Sword, tiến tới loại bốn lưỡi với nhãn hiệu Quattro (năm 2003). Tất nhiên, Gillet đã cho ra đời loại dao cạo năm lưỡi có nhãn hiệu Fusion (năm 2005). Roberts cho biết tờ Onion đã lấy giọng hài hước khi cho đăng bài báo giả tưởng của James Kilts, CEO của Gillette, đề xuất rằng đây là cách duy nhất để giành lại lợi thế cho công ty (và thực tế đã diễn ra như vậy): “Có điều gì các bạn không hiểu? Nếu hai lưỡi là tốt và ba lưỡi tốt hơn, thì hiển nhiên năm lưỡi sẽ khiến dao cạo của chúng tôi trở thành loại tốt nhất. Bạn hiểu rồi chứ?”

Roberts kết luận: “Loại Fusion (năm lưỡi dao) ngụ ý rằng có thể chúng ta sắp đạt tới các giới hạn đổi mới đối với một vài chủng loại sản phẩm.” Có thể giờ đây dao cạo an toàn đã sẵn sàng cho điều vĩ đại sắp tới, nhưng sự phát triển đã diễn ra thật tốt trong hơn 100 năm qua.

CÔNG NGHỆ NANO, PHẢI CHĂNG LÀ “ĐIỀU VĨ ĐẠI SẮP TỚI?”

Các sản phẩm chế tạo được tạo thành từ nguyên tử. Thành phần sản phẩm phụ thuộc vào cách sắp xếp các nguyên tử. Nếu sắp xếp lại các nguyên tử than với nhau, chúng ta có thể tạo ra kim cương. Nếu sắp xếp lại các nguyên tử cát (và bổ sung thêm một vài yếu tố vi lượng khác), chúng ta có thể tạo ra các con chíp máy tính. Nếu sắp xếp lại các nguyên tử trong đất, nước và không khí, chúng ta có thể tạo ra khoai tây.

Chuyên gia công nghệ nano, Ralph Merkle, nói:

Các phương pháp chế tạo ở cấp phân tử ngày nay còn rất thô sơ. Đúc, nghiền, cán và ngay cả kỹ thuật in thạch bản di chuyển một số lượng lớn các nguyên tử cùng nhau. Việc đó giống như cố gắng tìm lời giải cho khối LEGO khi tay phải đeo găng quyền anh. Đúng, bạn có thể xếp các khối LEGO thành hàng đống lớn và chồng chúng lên nhau nhưng không thể nhanh chóng xếp chúng với nhau theo cách bạn muốn. 

Trong tương lai, công nghệ nano sẽ tháo đôi găng tay đó. Chúng ta có thể xếp dễ dàng các khối xây dựng cơ bản của tự nhiên với nhau, không tốn kém và phần lớn đều được các quy luật vật lý cho phép. Nó cho phép chúng ta tạo ra một thế hệ hoàn toàn mới những sản phẩm sạch, khỏe, nhẹ và chính xác hơn. 

Công nghệ nano sẽ:

Đặt hầu hết các nguyên tử vào đúng chỗ chúng ta muốn

Khiến cho hầu như cấu trúc nào cũng phù hợp với các định luật vật lý mà chúng ta có thể định rõ ở chi tiết phân tử

Làm cho chi phí sản xuất không vượt quá nhiều so với chi phí yêu cầu về nguyên vật liệu thô và năng lượng

Công nghệ nano mới chỉ bắt đầu. Thực tế, đó mới chỉ là các khu nhà vô hình. Chúng ta chưa đi xa hơn so với giai đoạn của người Ai Cập cổ đại với chiếc đồng hồ mặt trời nguyên thủy trong lịch sử phát triển của nó. Nhưng tiền đã được đầu tư và hy vọng đang bay cao. Kết quả vẫn còn quá xa, nằm ở đâu đó giữa trạng thái hoang sơ và không tồn tại.

Người ta đã nghĩ ra một số phương pháp tráng kim loại và một số cách mạ chống gỉ và ống nano đã ra đời. Các phân tử carbon hình trụ, được biết đến với tên gọi ống nano, là vật liệu khỏe nhất từng được biết và các nhà khoa học hiện đã làm ra các sợi dài hàng mét từ các ống nano gần như nguyên chất.

Chúng ta có gặp lại quy luật thịnh và suy như ngành kinh doanh Internet không?

Có, gần như chắc chắn – nhưng không phải trong thời gian ngắn.

Hãy tìm kiếm thêm những phóng đại về đầu tư và tiểu thuyết khoa học viễn tưởng, ví dụ như cuốn Prey (Con mồi) của Michael Crichton kể về cuộc chạy đua điên cuồng theo công nghệ nano, hoặc quảng cáo trong đó Hewlett-Packard nói rằng mình có thể sản xuất loại điện thoại di động đủ nhỏ cho một con kiến.

Đừng nhầm lẫn – ngay cả khi tiến trình phát triển đang tăng tốc, nhiều đột phá cách mạng vẫn còn ở trong giai đoạn khá nguyên thủy. Ngay cả đối với Internet. Và đó là tin tốt. Nó sẽ đem lại cho doanh nghiệp nhiều cơ hội hoàn thiện và phát triển – nhưng cả nguy cơ nữa. Với bản chất và đặc tính của ngành công nghệ thông tin, chúng ta sẽ có hàng nghìn công ty sau các giai đoạn điều chỉnh lâu dài, nhưng chúng ta vẫn phải trải qua hàng trăm nghìn công ty để tới được điều đó. Món quà của cuộc cách mạng thế kỷ XX đã lập trình cho các đổi mới diễn ra trong thế kỷ XXI.

Không thể có điều vĩ đại sắp tới xuất hiện trong tương lai gần, dù với gia tốc thay đổi tăng lên, dù hàng loạt phát minh mới có thể được đưa ra trong 75 năm, hoặc thậm chí 50 năm tới. Các xu hướng vận động đã xếp chật hàng và sẽ làm chúng ta bận rộn suốt nửa đầu thế kỷ XXI để mở rộng và hoàn thiện chúng. Giống như quá trình con trăn tiêu hóa con voi vậy. Con trăn nuốt con voi và chúng ta có thể thấy phần cơ thể con trăn phình ra khi con voi bị nuốt ngày càng sâu. Điều này cũng giống như khối các phát triển được từ từ tiêu hóa và hoàn thiện, nhỏ dần và gầy đi khi di chuyển, cho đến khi một con voi khác được nuốt vào.

ĐÃ ĐẾN LÚC ĐỐI DIỆN VỚI MẶT XẤU…

Tiếp nối các cuộc cách mạng, tiến trình phát triển sau đó có thể gây ra những tác dụng phụ, những hậu quả không mong muốn, bumerang trong yếu tố sinh thái của công nghệ. Trước phát minh điện thoại, cách thức giao tiếp phổ thông là viết thư. Đó là lý do vì sao tại thành phố Dublin, Ireland, cuối thế kỷ XIX, có tới tám lượt thư được giao mỗi ngày. Khi còn là sinh viên, tôi từng đọc thư của nhà thơ William Yeats và Lady Gregory. Tình cờ tôi phát hiện thấy thư được gửi, trả lời và trả lời lại, tất cả đều có dấu bưu điện trong cùng một ngày. Phải đến hàng năm sau tôi mới biết về các dịch vụ chuyển thư như thế. Với sự ra đời của điện thoại, số lượt giao thư giảm xuống cho đến khi chỉ còn một lượt/ngày. Hậu quả, ngoài dự tính, là cái chết của nghệ thuật viết thư tay.

…VÀ MẶT TỐT

Tuy làm giảm vai trò của chữ viết và đẩy chúng ta tiến sâu hơn vào thế giới hình ảnh, nhưng công nghệ lại có tác động tích cực lên chi phí liên lạc.

Tại Anh, cho đến những năm 1840, nếu muốn gửi thư, bạn phải đi tới bưu điện; ở đó nhân viên bưu điện sẽ tính toán xem bạn phải trả bao nhiêu tiền, tùy theo khoảng cách gửi. Rowland Hill đã nhận thấy tất cả công việc được làm từ khi thư được gửi và nhận tại bưu điện, còn khoảng cách không quan trọng. Ông nói rằng mỗi người chỉ phải trả chung một mức phí cho việc gửi thư. Và vì giá như nhau nên có thể trả trước được. Và chiếc tem penny ra đời.

Hiện nay, điều tương tự cũng đúng cho các công ty điện thoại. Chi phí để họ chuyển một cuộc gọi qua một con phố hay tới một nơi nào đó trên thế giới là như nhau. Nhưng họ tiếp tục lấy giá chúng ta theo khoảng cách. Cước phí đã giảm nhiều do cạnh tranh, đặc biệt là các cuộc gọi trên Internet. Thế giới do đó sẽ chủ yếu bị chiếm lĩnh bởi liên lạc giữa các cá nhân. Và tất cả các cuộc gọi sẽ đều là nội hạt.

Phần lớn các suy đoán trong 30 năm qua vẫn tập trung vào các công nghệ cứng: máy tính, thế giới kết nối có dây và không dây, viễn thông – công nghệ có mặt khắp nơi và thay đổi cách chúng ta làm mọi thứ một cách ấn tượng. Nhưng công nghệ sắp tới của thế kỷ XXI sẽ là các công nghệ “mềm” có tác động không chỉ giới hạn trong cách chúng ta sống và làm việc mà còn đặt ra câu hỏi chúng ta là ai. Hàng thiên niên kỷ nay, quyền lực tối thượng quyết định ý nghĩa và số phận của chúng ta là Thượng đế. Nhờ Darwin, nguồn gốc loài người đã được bàn tới. Với các công nghệ sinh học mới, chúng ta đã đi đến bước ngoặt để tạo ra số phận cho chính mình.

ĐÃ ĐẾN LÚC ĐẶT CÂU HỎI

Công nghệ tế bào dòng tinh – với việc thực hiện thay đổi mã gen di truyền qua các thế hệ – sẽ áp đảo vai trò của tất cả các lĩnh vực công nghệ trước đó. Nhưng nó cũng hàm chứa mối nguy cơ đưa loài người tới một tương lai không thể lường trước.

Bước tiến thoái lưỡng nan của thế kỷ XXI là dù công nghệ tế bào dòng tinh có cho phép chúng ta chữa và cuối cùng có thể xóa bỏ những căn bệnh và chứng rối loạn như Alzheimer, hội chứng Down và Parkinson, thì chính công nghệ này cũng sẽ làm con người cao, khỏe, thông minh và xinh đẹp hơn. Nói ngắn gọn, chúng ta có thể tạo ra một chủng tộc toàn hảo. Điều này, tất nhiên, sẽ khiến chúng ta rơi vào cảnh sống tối tăm lâu dài dưới cái bóng của thuyết ưu sinh, chủng tộc toàn hảo. Hitler đã từng có ý tưởng này nhưng không có khoa học để thực hiện. Và lúc này khoa học đó đã xuất hiện!

Một khi đã thực hiện bước đầu tiên, chúng ta sẽ ở trên con đường không có cơ hội quay lại. Tranh cãi xung quanh vấn đề này dẫn tới xung đột lớn giữa khoa học và tôn giáo, giữa tính khả thi và nhân văn. Đó là sự đối đầu làm rung chuyển các tín ngưỡng và giá trị nền tảng tương tự thời của Galileo và Darwin.

Với việc lập được bản đồ gen người, cuốn sách chỉ dẫn cách các mã gen tạo nên cơ thể con người và cách thay đổi chúng, từ đó các nhà khoa học sẽ có chìa khóa để thay đổi cơ thể của chúng ta. Bí mật sẽ không còn. Nhưng điều mà các nhà khoa học không thể có được là chìa khóa mở cửa tâm hồn – thế giới tinh thần của chúng ta. Câu hỏi lớn của thế kỷ mới được đặt ra bởi tinh thần của quá khứ, nhưng vẫn khẩn thiết: Đâu là ý nghĩa của việc làm người?

Darwin, tin tưởng sâu sắc vào sự tiến hóa của các loài, cũng ý thức được khía cạnh báng bổ trong các tư tưởng của mình đối với thế giới sùng đạo. Các tín đồ Thiên chúa giáo vâng lời Chúa, còn các nhà khoa học đấu tranh vì các quy luật của tự nhiên.

Chỉ ít người phải đối mặt với mâu thuẫn giữa trí tuệ và tâm hồn, bằng chứng khoa học và tín ngưỡng tôn giáo sâu sắc đến vậy. Nhưng tất cả chúng ta đều bị thách thức phải tìm ra sự cân bằng giữa phát triển và ổn định, giữa tham vọng và thiền định, giữa đa dạng công nghệ cao và khan hiếm giao tiếp tinh tế… những gì chúng ta cần để tạo nên cuộc sống. Chúng ta thường quan tâm tới vật chất và quên đi việc nuôi dưỡng tâm hồn.

Trong một buổi trò chuyện ở Cambridge, Giáo sư Peter Senge của Đại học MIT đã giới thiệu bức thư Charles Darwin viết lúc cuối đời:

Cho đến khi 30 tuổi, hoặc hơn thế, thơ ca vẫn đem lại cho tôi niềm vui thích lớn lao. Nhưng giờ đây và đã nhiều năm qua, tôi không thể chịu được việc phải đọc dù chỉ một dòng thơ. Tâm trí dường như biến thành một loại máy xay ra những quy luật phổ quát từ những đống dữ liệu khổng lồ. Nếu phải sống lại cuộc đời này một lần nữa, tôi sẽ buộc mình hàng tuần phải đọc thơ và nghe nhạc vài lần. Mất đi những hương vị cuộc sống này là mất đi niềm hạnh phúc, nó có thể gây tổn thương cho trí tuệ và đạo đức vì làm suy yếu phần xúc cảm thuộc về bản chất của chúng ta. 

Dù tương lai có nắm giữ điều gì, nó sẽ là vô giá trị nếu không có niềm vui.

ÁP DỤNG CÁC LỐI TƯ DUY

LỐI TƯ DUY #11 “Yếu tố không thể bỏ qua: Tính sinh thái của công nghệ”: Nếu nhu cầu là nguồn gốc phát minh thì thay đổi là cha đẻ của cải cách. Chính vì thế, “phát triển nhờ đổi mới” là câu nói yêu thích của giới doanh nhân. Giai đoạn chúng ta đang sống là thời điểm “hái quả chín”, những quả đã được gieo hạt trong giai đoạn cách mạng những năm cuối thế kỷ XX. “Cân nhắc yếu tố sinh thái của công nghệ” cũng có nghĩa là mở rộng trí tuệ trước mọi cơ hội ẩn chứa trong quá trình tiêu hóa từ từ những điều vĩ đại mới nhất.

LỐI TƯ DUY #4 “Hiểu được sức mạnh của việc tạo ra lối đi riêng”: Không đầu tư thì không gặt hái. Nếu bạn sợ sai, bạn sẽ không thể khai thác những cơ hội mà giai đoạn phát triển này đang mang lại.

Khi nhớ tới Einstein, tôi thường so sánh kỷ nguyên này với một vườn cây có nhiều loại quả đang chín. Trong khi những người tư duy giải quyết vấn đề vẫn đang lo lắng về những quả rụng, thì những người tư duy tìm kiếm cơ hội tìm những quả mới chín để hái. Nguồn đổi mới tích lũy từ giai đoạn cách mạng cuối thế kỷ trước sẽ đem thành quả cho chúng ta tới gần hết thế kỷ này.

Chú thích: 

1. Nhân vật chính trong vở kịch En attendant Godot (Trong khi chờ Godot) của nhà văn, nhà thơ và nhà biên kịch gốc Ailen Samuel Beckett (1906-1989), trong đó Godot là một nhân vật bí ẩn không bao giờ xuất hiện. 

2. Giải thưởng Quốc hội Anh hứa trao cho sáng chế chiếc đồng hồ hàng hải dùng cho các nhà đi biển. 


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.