Cổ Phiếu Thường Lợi Nhuận Phi Thường

6. Thời điểm bán ra



Có nhiều lý do chính đáng giải thích tại sao nhà đầu tư quyết định bán cổ phiếu. Có thể anh ta muốn mua một ngôi nhà hay hỗ trợ tài chính cho công việc kinh doanh của con cái anh ta. Bất cứ lý do nào tương tự cũng có thể giải thích việc bán cổ phiếu là hợp lý dựa trên quan điểm về một cuộc sống hạnh phúc. Tuy nhiên, những động cơ bán kể trên mang tính cá nhân hơn là lợi ích tài chính. Bởi thế, chúng nằm ngoài phạm vi quyển sách này. Những nhận xét trong cuốn sách này đều chỉ ra mục tiêu đạt được lợi ích lớn nhất có thể từ số đô-la tiền đầu tư ban đầu − động cơ duy nhất khi bán cổ phiếu.

Tôi cho là chỉ có ba lý do dẫn đến việc bán bất cứ cổ phiếu nào mà nhà đầu tư đã chọn dựa trên những nguyên tắc mà tôi đề cập. Lý do đầu tiên mọi người đều biết rõ. Đó là khi nhà đầu tư mắc sai lầm trong lần mua đầu tiên và rõ ràng là tình trạng thực tế của công ty đó ngày càng chênh lệch và không thuận lợi như lúc ban đầu. Cách giải quyết đúng đắn nhất trong trường hợp này là tự điều chỉnh cảm xúc của bản thân. Ở mức độ nào đó, nó phụ thuộc vào khả năng nhà đầu tư thành thật với chính mình. Hai trong số các yếu tố cần thiết để đầu tư cổ phiếu thường là lợi nhuận cao kết hợp với trình độ kỹ năng, kiến thức và óc phán đoán khéo léo mới có thể hoàn thành tốt việc xử lý khoản lợi nhuận trên. Bởi quá trình đạt được các khoản lợi nhuận này hầu hết rất phức tạp nên việc mua chắc chắn sẽ mắc phải một vài sai sót. May mắn thay, lợi nhuận trong dài hạn từ những cổ phiếu thường tốt có thể cao hơn khoản lỗ từ những sai lầm đó, đặc biệt khi chúng ta kịp thời phát hiện chúng. Khi xảy ra, thiệt hại sẽ nhỏ hơn nhiều so với thiệt hại của các cổ phiếu được mua sai mà trong một giai đoạn dài không hề phát hiện ra. Điều quan trọng hơn đó là khoản vốn bị thắt chặt trong những tình huống không mong đợi sẽ được giải phóng để đầu tư vào những thứ khác mà nếu được lựa chọn phù hợp, sẽ mang lại khoản lợi nhuận bền vững.

Tuy nhiên, một nhân tố không kém phần phức tạp khiến việc giải quyết những sai lầm trong đầu tư khó khăn hơn là “cái tôi” trong mỗi chúng ta. Không ai trong chúng ta muốn thừa nhận mình đã mắc sai lầm. Nếu chúng ta mắc lỗi trong mua cổ phiếu nhưng vẫn có thể bán chúng và thu một khoản chênh lệch nhỏ thì sẽ không bị ám ảnh bởi cảm giác mình vừa làm một việc ngu ngốc. Trái lại, nếu chúng ta bán và bị lỗ một chút, chúng ta sẽ cảm thấy bế tắc trong tình huống này. Phản ứng này hoàn toàn bình thường và hợp lẽ tự nhiên, nhưng có thể là một nhân tố nguy hiểm dẫn ta đi sai hướng trong toàn bộ quá trình đầu tư. Nhà đầu tư giữ một cổ phiếu không hề mong đợi và chờ đến khi chúng có thể hoàn vốn, nhưng cuối cùng lại càng mất nhiều tiền hơn. Những khoản lỗ thực tế sẽ lớn hơn nhiều khi cộng thêm cả phần lợi nhuận mà đáng ra anh ta được hưởng nếu dùng khoản tiền đó đầu tư vào những nơi khác sinh lợi hơn và sai lầm được phát hiện ngay.

Hơn thế nữa, việc không chịu chấp nhận thua lỗ, dù nhỏ, cũng là phi logic. Nếu mục tiêu chính của việc đầu tư vào cổ phiếu là thu về một khoản trị giá hàng trăm phần trăm sau một vài năm thì sự khác nhau giữa 20% lỗ hay 5% lợi nhuận không phải là một vấn đề quan trọng. Vấn đề không phải là bị lỗ hay không mà là liệu những khoản lợi nhuận đáng giá có được hiện thực hóa không.

Nhà đầu tư không nên hoảng hốt hay đau buồn, song họ cũng không nên xem nhẹ các khoản lỗ hãy xem xét cẩn trọng để rút ra bài học kinh nghiệm. Nếu hiểu được nhân tố chính gây ra phán đoán sai lầm khi mua cổ phiếu thường, nhà đầu tư sẽ không mắc lại những sai lầm đó trong lần đầu tư tiếp theo.

Hãy xét đến lý do thứ hai: tại sao nên bán các cổ phiếu thường đã mua dựa trên các nguyên tắc đầu tư đã nêu ở Chương hai và Chương ba. Nên bán cổ phiếu của những công ty mà theo thời gian không còn đạt đủ tiêu chuẩn của 15 tiêu chí đã đề cập ở Chương 3 (mức độ mà nó đạt được vào thời điểm mua). Bởi vậy, nhà đầu tư luôn phải tỉnh táo. Điều này giải thích tầm quan trọng của việc theo sát những sự việc diễn ra ở công ty mà nhà đầu tư đang nắm giữ cổ phần.

Có một hoặc hai nguyên nhân làm cho tình hình của các công ty trở nên tồi tệ. Hoặc đội ngũ quản lý kém hoặc công ty không còn có khả năng tăng thị phần cho sản phẩm theo cách mà trước đây nó đã thành công. Đôi khi hệ thống quản lý xuống cấp do các nhân sự điều hành chủ chốt quá tự mãn về thành công đã đạt được. Thay thế sự lanh lợi và nhiệt tình trước đây là sự tự cao, tự mãn, tính ì. Đội ngũ điều hành mới không đáp ứng tiêu chuẩn như những người tiền nhiệm. Cũng có thể họ không còn tuân theo những chính sách đã khiến công ty thành công hoặc không có khả năng điều hành và tiếp tục thực thi những chính sách đó. Khi một trong những trường hợp này xảy ra, nên bán ngay chứng khoán đó bất kể thị trường nói chung đang tiến triển tốt hay thuế đánh vào lợi nhuận thu được từ việc bán các khoản đầu tư lớn đến đâu đi chăng nữa.

Tương tự như vậy, đôi khi sau một thời gian tăng trưởng vượt bậc, công ty chuyển sang giai đoạn bão hòa. Công ty chỉ phát triển ở tỷ lệ bằng với tỷ lệ tăng trưởng của nền kinh tế. Nguyên do của sự thay đổi này có thể không nằm ở bộ máy quản lý xuống cấp. Nhiều đội ngũ quản lý chứng tỏ kỹ năng chuyên nghiệp trong việc phát triển những sản phẩm liên quan để tận dụng lợi thế tăng trưởng trong lĩnh vực đó. Tuy nhiên, họ cũng nhận thấy sẽ không có lợi thế nếu đi vào lĩnh vực không liên quan. Bởi vậy, sau nhiều năm đứng đầu trong một ngành mới và đang tăng trưởng, thị trường của công ty dần bão hòa và cổ phiếu cũng giảm sút đáng kể so với 15 tiêu chí mà chúng ta đã bàn đến. Nhà đầu tư nên bán đi các cổ phiếu như vậy.

Trong ví dụ trên, quá trình bán sẽ xảy ra trong thời gian dài hơn trường hợp bộ máy quản lý xuống cấp. Có lẽ nhà đầu tư vẫn nắm giữ cổ phiếu của công ty cho đến khi tìm ra mối làm ăn khác sinh lợi hơn. Tuy nhiên, trong bất cứ trường hợp nào, nhà đầu tư cũng nên hiểu rằng công ty đó không còn hợp với các khoản đầu tư giá trị lớn. Dù thuế đánh vào những khoản lợi nhuận khi bán các khoản đầu tư lớn đến đâu, cũng khó có thể ngăn cản các nhà đầu tư chuyển chúng sang nơi sẽ phát triển với tốc độ như công ty cũ từng đạt được trước đây.

Có một bài thử nghiệm rất hữu hiệu để xem liệu công ty có còn phù hợp với những tiêu chuẩn tăng trưởng hay không. Bài thử nghiệm này yêu cầu nhà đầu tư tự hỏi bản thân liệu ở đỉnh mới của vòng đời kinh doanh không tính đến những gì đang xảy ra trong thời gian đó, thu nhập trên mỗi cổ phần (sau khi đã tính đến lãi cổ phiếu và chia tách cổ phiếu nhưng không áp dụng đối với những cổ phần mới cho phần vốn huy động thêm) có thể tăng nhiều so với hiện tại, thời điểm đang được coi là đỉnh của quá trình kinh doanh hay không. Nếu câu trả lời là có thì bạn nên giữ cổ phiếu lại, còn ngược lại thì nên bán đi.

Đối với những ai tuân theo các nguyên tắc khi tiến hành lần mua ban đầu, lý do thứ ba khiến họ bán có rất ít khả năng xảy ra và chỉ khi các nhà đầu tư chắc chắn về lập trường của mình. Sự thật là rất hiếm cơ hội để có những khoản đầu tư hấp dẫn. Xét trên quan điểm lựa chọn thời điểm, khó tìm thấy cơ hội vào lúc có sẵn tiền đầu tư. Nếu nhà đầu tư đã có các khoản đầu tư trong một thời gian dài nhưng tìm thấy một số khoản hấp dẫn hơn mà anh ta muốn đổ vốn vào, nhà đầu tư sẽ ký gửi một phần hoặc toàn bộ vào một công ty hoạt động tốt và anh ta tin là có triển vọng phát triển rõ rệt. Tuy nhiên, những triển vọng phát triển này có tỷ lệ tăng trung bình thường niên chậm hơn so với các khoản đầu tư thu hút hơn mà anh ta tìm thấy sau này. Và do đó, công ty anh ta vừa nắm giữ cổ phần xét theo khía cạnh nào đó lại trở nên kém hấp dẫn hơn.

Nếu bằng chứng đã rõ ràng và nhà đầu tư hoàn toàn chắc chắn về lập trường của mình, anh ta sẽ nhận được phần thưởng xứng đáng, thậm chí ngay sau khi phải trả một khoản thuế đánh vào lợi nhuận khi bán các khoản đầu tư cũ để chuyển sang khu vực đầu tư khác hứa hẹn hơn trong tương lai. Nếu công ty có thể đạt mức tăng trung bình hàng năm 12% trong nhiều năm, nó sẽ mang lại sự thỏa mãn lớn về mặt tài chính cho người nắm giữ. Tuy nhiên, sự chênh lệch giữa những kết quả này với kết quả của một công ty khác có 20% tỷ lệ sẽ làm nảy sinh vấn đề mới cần quan tâm và khoản thuế đánh vào lợi nhuận do bán các khoản đầu tư.

Tuy nhiên, một chút cảnh giác cũng không phải là thừa đối với các nhà đầu tư muốn bán cổ phiếu với hy vọng chuyển vốn sang khu vực khác sinh lợi hơn. Luôn tồn tại rủi ro khi đánh giá sai lầm về một nhân tố lớn nào đó trong bối cảnh này. Nếu điều đó xảy ra, nguồn vốn đầu tư có thể sẽ không quay trở về nguyên vẹn. Trái lại, một nhà đầu tư cẩn trọng đã từng nắm giữ một cổ phiếu có giá trị sẽ biết được mặt tốt cũng như mặt hạn chế của nó. Vì thế, trước khi bán đi để nhận về một cổ phiếu tốt hơn, cần phải cẩn trọng ở mức tối đa trong việc đánh giá chính xác những yếu tố nảy sinh và tồn tại trong trường hợp này.

Về điểm này, độc giả có óc phán đoán có thể sẽ nhận ra một nguyên tắc cơ bản trong đầu tư mà có vẻ chỉ một số ít những nhà đầu tư thành công mới hiểu được. Đó là một khi đã lựa chọn đúng một cổ phiếu và xem xét kỹ trong một thời gian, thì chỉ thỉnh thoảng mới xuất hiện lý do nào đó để bán chúng. Tuy nhiên, giới tài chính lại đưa ra hàng loạt những lời nhận xét và lý do khác nhau để bán các cổ phiếu đang nắm giữ. Những lý do này có giá trị gì không?

Khi đưa ra những lý do như vậy, chủ yếu là bởi họ tin rằng thị trường chứng khoán nói chung sắp đi xuống. Trong các chương trước, tôi đã cố gắng chỉ ra rằng việc trì hoãn khi mua một cổ phiếu hấp dẫn do lo sợ về hướng đi của thị trường sau nhiều năm sẽ gây ra một khoản thiệt hại lớn. Nếu như cách lý giải rằng việc mua các cổ phiếu hấp dẫn không nên chịu tác động bởi nỗi lo về thị trường giá xuống thì những lý lẽ chống lại việc bán chúng chỉ vì mối lo còn có sức thuyết phục hơn. Tất cả những lý lẽ đề cập ở chương trước đều có giá trị khi áp dụng ở chương này. Bên cạnh đó, cơ hội đúng của nhà đầu tư khi bán những khoản như vậy càng bị thu hẹp do tính thêm thuế đánh vào thu nhập từ các khoản đầu tư. Do đó, nếu họ nắm giữ các cổ phiếu nổi bật khoảng vài năm thì chúng sẽ mang lại những khoản lợi nhuận rất lớn, tỷ lệ thuế đánh vào khoản thu từ việc bán các khoản đầu tư sẽ càng tăng thêm chi phí khi bán ra.

Còn có một lý do khác, tốn kém hơn giải thích tại sao một nhà đầu tư không bao giờ nên bán cổ phiếu để rút ra khỏi một khu vực hấp dẫn do lo sợ khả năng thị trường giá xuống có thể xảy ra. Nếu như công ty hoạt động tốt và là một sự lựa chọn đúng đắn của nhà đầu tư, thị trường giá lên sắp tới sẽ chứng kiến cổ phiếu tăng lên một đỉnh mới cao hơn nhiều so với trước. Làm thế nào để nhà đầu tư biết khi nào nên mua lại? Về lý thuyết, đó là sau một đợt sụt giảm sắp tới với điều kiện là họ biết thời điểm nào nó kết thúc. Tôi đã chứng kiến rất nhiều nhà đầu tư bán đi các cổ phần mà nhiều năm sau chúng lại mang đến những khoản thu khổng lồ chỉ bởi vì họ lo sợ khả năng thị trường giá xuống sẽ xảy ra. Thông thường, thị trường giá xuống không bao giờ xảy ra và cổ phiếu cứ tăng lên liên tục. Khi thị trường giá xuống xuất hiện, tôi không hề thấy nhà đầu tư mua lại các cổ phần đó trước khi chúng tăng lên mức cao hơn giá bán của anh ta. Nhà đầu tư luôn chờ cho chúng sụt xuống thấp hơn mức sụt giảm thực tế hoặc chúng đang trên đà giảm xuống, và nỗi lo sợ về điều gì khác xảy ra đã khiến họ chưa muốn lấy lại các cổ phần đó.

Điều này lại dẫn chúng ta đến một nguyên nhân khác khiến những nhà đầu tư có thiện chí nhưng không có sự suy xét về chiều sâu bỏ lỡ khoản lợi nhuận khổng lồ trong tương lai. Họ cho rằng một cổ phiếu có giá trị đang bị định giá quá cao và do đó nên bán nó đi. Còn điều gì logic hơn? Nếu một cổ phiếu đang định giá cao, tại sao chúng ta lại không bán chúng đi thay vì giữ chúng?

Khoan kết luận vội vàng, hãy xem xét bản chất của vấn đề. Cái gì đang bị định giá cao? Chúng ta đang muốn thực hiện điều gì? Bất cứ một cổ phiếu tốt nào cũng sẽ được bán và nên bán ở mức tỷ lệ cao hơn thu nhập hiện thời, chứ không phải là cổ phiếu có tỷ lệ ổn định trong khi mức thu nhập tăng lên. Khi chúng ta nói rằng cổ phiếu đang được định giá cao, chúng ta muốn ngụ ý rằng nó đang được bán ở tỷ lệ với mức thu nhập cao hơn so với dự tính. Có thể chúng ta muốn ngụ ý rằng nó đang được bán ở tỷ lệ cao hơn so với các cổ phiếu khác với triển vọng tăng thu nhập trong tương lai giống nhau.

Tất cả những điều này là nhằm cố gắng đánh giá chính xác một điều gì đó hơn mức có thể. Nhà đầu tư không thể chắc chắn một công ty cụ thể sẽ thu được bao nhiêu lợi ích trên mỗi cổ phần trong vòng hai năm nữa. Anh ta chỉ có thể đánh giá bằng những giới hạn chung chung và không lượng hóa được như “khoảng cùng mức”, “tăng lên khá nhiều”, “tăng lên rất nhiều”, hoặc “tăng lên một mức khổng lồ”. Sự thật là bộ máy quản lý cấp cao của công ty không thể tiếp cận một mức nào gần hơn nữa. Họ hoặc nhà đầu tư nên đánh giá mức tăng trong thu nhập trung bình có khả năng xảy ra trong một vài năm tới hay không ở một góc độ gần hơn. Nhưng tăng ở mức bao nhiêu, chính xác là vào năm nào, thường liên quan tới việc phỏng đoán các biến số, do đó không thể đưa ra những dự đoán chính xác. Trong những trường hợp đó, ai có thể phát biểu tương đối chính xác rằng cái gì đang bị định giá cao trong một công ty nổi tiếng nhờ tỷ lệ tăng trưởng bất thường? Giả sử thay vì được bán ở mức gấp 25 lần thu nhập như bình thường, cổ phiếu giờ đây được bán ở mức gấp 30 lần thu nhập. Có lẽ giới đầu tư vẫn chưa nắm bắt được tầm quan trọng thật sự về kinh tế của những sản phẩm mới trong tương lai gần. Cũng có thể không hề có những sản phẩm đó. Nếu tỷ lệ tăng trưởng cực kỳ tốt và trong mười năm nữa công ty sẽ tăng lên gấp bốn lần, liệu cần quan tâm nhiều tới việc cổ phiếu hiện tại có khả năng bị định giá tăng hơn 35% so với giá trị thực không? Vấn đề cốt lõi ở đây là không được làm gián đoạn một cơ hội mà sau này sẽ mang lại một khoản rất lớn.

Thêm một điểm cần lưu ý, thuế đánh vào khoản thu từ việc bán các khoản đầu tư là một điểm cần phải tính đến trước khi đưa ra kết luận. Các cổ phiếu tăng trưởng được đề xuất bán vì giả định chúng đang bị định giá cao gần như luôn khiến những người nắm giữ phải trả một khoản thuế khổng lồ nếu họ bán chúng. Bởi vậy, bên cạnh rủi ro mất đi một vị thế lâu dài trong một công ty qua nhiều năm luôn có những dấu hiệu tăng đột biến, chúng ta sẽ còn phải gánh chịu nghĩa vụ về thuế. Có an toàn hơn và rẻ hơn không khi chỉ đơn giản quyết định rằng tạm thời cổ phiếu có thể cao hơn giá trị thật sự của chúng? Và chúng ta thu được một khoản lợi nhuận đáng kể từ cổ phiếu đó. Nếu như chỉ trong thời gian ngắn cổ phiếu thiệt hại, giả sử 35% mức báo giá hiện thời của nó trên thị trường, liệu đây có thật sự là vấn đề quan trọng không? Phải chăng thay vì duy trì vị trí của chúng ta, khả năng tạm thời mất một phần nhỏ khoản thu từ vốn đầu tư là một vấn đề thật sự quan trọng?

Còn có một cách lý giải khác mà nhà đầu tư đôi khi cũng sử dụng để tách mình ra khỏi những khoản lợi nhuận có thể đã kiếm được. Đây có vẻ là một cách lý giải lố bịch nhất. Đó là cổ phiếu mà họ nắm giữ đã tăng lên một mức rất lớn, nó có thể đã đạt hết mức tiềm năng tăng trưởng. Bởi vậy, họ sẽ bán nó và mua một loại khác vẫn chưa tăng lên. Những công ty có tiếng, loại hình duy nhất mà tôi tin các nhà đầu tư nên mua, không hoạt động theo cách này. Chúng hoạt động theo cách nào? Có lẽ tốt nhất chúng ta nên xem xét một so sánh khá thú vị như sau:

Giả sử đây là ngày bạn tốt nghiệp đại học. Nếu bạn không học đại học, giả sử đây là ngày bạn tốt nghiệp trường trung học; xét theo ví dụ của chúng ta cũng chẳng có gì khác biệt giữa hai trường hợp đó. Bây giờ giả sử vào ngày này các bạn nam trong lớp có nhu cầu bức thiết về tiền mặt. Mọi người thương lượng với nhau. Nếu bạn đưa cho họ một số tiền tương đương với 10 lần khoản tiền họ có thể nhận được trong mười hai tháng sau khi họ đi làm, người bạn đó sẽ trả lại 1/4 thu nhập hàng năm của anh ta trong suốt cả quãng đời còn lại! Cuối cùng, giả sử mặc dù bạn nghĩ rằng đây là một đề nghị tuyệt vời, nhưng bạn chỉ có đủ số tiền rảnh rỗi để cho ba người bạn của bạn vay.

Về điểm này, cách lý giải của bạn cũng gần giống với cách một nhà đầu tư sử dụng các nguyên tắc đầu tư chắc chắn để lựa chọn cổ phiếu thường. Ngay lập tức bạn sẽ bắt đầu đánh giá những người bạn cùng lớp của mình, không phải xét xem họ có thoải mái hay thông minh không, mà chỉ để xem họ sẽ kiếm được bao nhiêu tiền. Nếu lớp có đông thành viên, bạn có thể loại bỏ phần lớn bởi bạn không hiểu họ đủ để đưa ra những đánh giá quan trọng về tư duy tài chính của họ. Trường hợp này cũng giống như mua các cổ phiếu thường một cách khôn ngoan.

Cuối cùng, bạn chọn ra ba người mà mình cảm thấy sẽ có thu nhập lớn nhất trong tương lai và tiến hành thương lượng với họ. Một trong ba người đó sẽ thành công đáng kinh ngạc. Anh ta đi làm cho một công ty lớn và thăng tiến liên tục. Vừa rồi những người trong công ty nói rằng vị chủ tịch đang chú ý đến anh ta và trong mười năm nữa anh ta có thể sẽ đạt được công việc tốt nhất. Anh ta sẽ được thưởng những khoản lớn, quyền mua cổ phiếu và lợi ích hưu trí đi cùng với công việc đó. 138 CỔ PHIẾU THƯỜNG, LỢI NHUẬN PHI THƯỜNG Trong những trường hợp này, thậm chí đến cả các tác giả của báo cáo thị trường chứng khoán chuyên thúc giục bạn thu lợi nhuận từ những cổ phiếu giá trị nhất “đang đi trước thị trường” sẽ nghĩ gì nếu bạn bán các hợp đồng với những người bạn cũ này, chỉ bởi vì một ai đó đưa cho bạn mức giá 600% so với khoản đầu tư ban đầu? Bạn sẽ nghĩ rằng ai đó cần phải kiểm tra lại cái đầu của mình nếu anh ta khuyên bạn nên bán hợp đồng này đi và ký một hợp đồng với một người bạn cũ khác mà thu nhập hàng năm của anh ta chỉ bằng mức khi anh ta ra trường cách đó mười năm. Cách lý giải rằng người bạn thành công đã đi trước trong khi những tiến triển của người bạn chưa thành công vẫn đang còn nằm ở phía trước (xét về mặt tài chính) nghe thật ngớ ngẩn. Nếu bạn biết rõ về các cổ phiếu thường của bạn tốt như vậy, rất nhiều cách lý giải thường thấy về việc bán cổ phiếu tốt cũng không kém phần ngớ ngẩn. Bạn có thể nghĩ rằng tất cả những điều trên nghe có vẻ hợp lý, nhưng trên thực tế những người bạn của bạn không phải là cổ phiếu thường. Chắc chắn có một sự khác biệt về cơ bản. Sự khác biệt đó càng góp phần làm tăng, thay vì giảm, lý do để bạn không bao giờ bán các cổ phiếu thường có giá trị chỉ bởi vì nó đã có mức tăng rất lớn và tạm thời bị định giá cao. Sự khác biệt này nằm ở chỗ bạn của bạn là một con người hữu hạn, và sớm hay muộn gì cũng trở về cõi âm. Chu kỳ sống của cổ phiếu thường lại khác. Công ty của các cổ phiếu thường này có thể tiến hành lựa chọn bộ máy quản lý có trình độ về chiều sâu và đào tạo những tài năng đó, cùng với chính sách, phương thức và kỹ năng theo hướng gìn giữ và truyền lại sức mạnh lẫn tinh thần của doanh nghiệp qua nhiều thế hệ. Hãy xem Du Pont tồn tại trong thế kỷ thứ hai của nó và những năm sau khi nhà sáng lập qua đời. Trong kỷ nguyên với nhu cầu vô hạn của con người và Thời điểm bán ra 139 các thị trường nằm ngoài sức tưởng tượng, không hề có giới hạn nào cho sự phát triển của doanh nghiệp. Có lẽ những suy nghĩ về chương này có thể tóm gọn lại ở một câu: Nếu quá trình mua cổ phiếu được tiến hành một cách đúng đắn, thời điểm để bán nó là hầu như không bao giờ cả.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.